Xu Hướng 3/2023 # Vietsciences ; Phạm Đan Quế ; Pham Dan Que ; Về Chữ “Các” Và Chữ “Những” Trong Truyện Kiều;Science, Khoa Hoc, Khoahoc, Tin Hoc, Informatique;Computer; Vat Ly; Physics, Physique, Chimie, Chemistry, Hoa # Top 5 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Vietsciences ; Phạm Đan Quế ; Pham Dan Que ; Về Chữ “Các” Và Chữ “Những” Trong Truyện Kiều;Science, Khoa Hoc, Khoahoc, Tin Hoc, Informatique;Computer; Vat Ly; Physics, Physique, Chimie, Chemistry, Hoa # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Vietsciences ; Phạm Đan Quế ; Pham Dan Que ; Về Chữ “Các” Và Chữ “Những” Trong Truyện Kiều;Science, Khoa Hoc, Khoahoc, Tin Hoc, Informatique;Computer; Vat Ly; Physics, Physique, Chimie, Chemistry, Hoa được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

   1. CHỮ “CÁC“.

Chữ Hán có 7 chữ các, trong đó chữ có các 阁 là gác ( trong nội các), còn chữ các 各 này nguyên gốc có nhiều nghĩa : mỗi cái, mỗi người , tất cả, cùng, đều , nhưng sang tiếng Việt các chỉ về số nhiều có ý nói tổng quát có nghĩa là “khắp”, là từ dùng để  chỉ số lượng nhiều được xác định, gồm tất cả sự vật muốn nói đến  ( Từ điển tiếng Việt ).

   Trong tiếng Việt thời Nguyễn Du, các rất ít được dùng và không giống như cách dùng hiện nay, các  có nghĩa là tất cả nhưng phải đi với mọi để đệm cho chữ mọi như trong câu:

   1625. Dặn dò hết các mọi đường,

   Thuận phong một lá vượt sang bến Tề.

   Truyện Kiều chỉ có 4 chữ các để biểu thị số nhiều gần giống như những mà chỉ toàn bộ:

   2353. Kíp truyền chư tướng hiến phù.

   Lại đem các tích phạm tù hậu tra.

   2385. Tú bà với Mã giám sinh,

   Các tên tội ấy đáng tình còn sao?

   2907. Tóc tơ các tích mọi khi,

   Oán thì trả oán, ân thì trả ân.

   Ta thường thấy nói: “Thưa các vị”, chứ không bao giờ nói: “Thưa những vị” – thì thấy các có nghĩa là mọi, khắp cả.

   NHỮNG cũng chỉ về số nhiều nhưng chỉ là một thành phần trong phạm vi “các”, mà có ý chỉ định cho nên thường nói có những gì, được những gì chứ không nói có các gì, được các gì.

   Ta có thể phân biệt các và những trong câu sau đây:

   Trong tất cả các vị ngồi đây, những ngài nào đã dự hôm qua, xin ngồi sang bên trái. Các ngài ngồi bên trái thì những ngài nào trẻ ngồi dưới nhường chỗ cho những vị có tuổi ngồi trên.

   Như thế đủ rõ các dùng nói tổng quát cho toàn thể còn những bao giờ cũng ở trong phạm vi “các “ mà có chỉ định. Khi nào nói về người hay một địa phương, nếu nói đích danh thì nên dùng những. Thí dụ: Trong các vị danh nhân nước ta thì Ngô Quyền, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ là những người có công đánh đuổi ngoại xâm.

   Trong các ruộng lúa ở nước ta, những ruộng ở miền Bắc và miền Nam tốt hơn ruộng ở miền Trung. Trong các ruộng ở miền Bắc thì những ruộng ở Hà Đông, Thái Bình phì nhiêu hơn ruộng ở Việt Trì, Phú Thọ.

   2. CHỮ  ”NHỮNG”

   – chỉ một số lượng nhiều không xác định

   – biểu thị ý nhấn mạnh số lượng quá nhiều

   – nhiều như không kể xiết

   – những ai: tất cả những người nào

   – những như: nếu như là

   – những tưởng: cứ tưởng đâu là… 

   Trong Từ điển Truyện Kiều, có 67 chữ những:

   + 26 chữ những là từ chỉ số nhiều, từ cái nghĩa gốc chỉ một điều quá sự mong đợi, quá nhiều, những có nghĩa số nhiều nhưng có chứa đựng cảm xúc. Đó là trường hợp những chỉ số lượng không phải bao gồm tất cả các đơn vị được nói đến mà chỉ giới hạn trong một số nhất định nào đó, không xác định:

   0115.  Kiều rằng: Những đấng tài hoa,

   Thác là thể phách, còn là tinh anh.

   0491. Lựa chi những bậc tiêu tao?

   Dột lòng mình, cũng nao nao lòng người.

   2665. Ma đưa lối, quỉ đưa đường,

   Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi,

   2751. Cuối tường gai góc mọc đầy,

   Đi về này những lối này năm xưa…

   + 35 chữ những với nghĩa gần như chỉ, như còn, như từng, như thường, như đương – chữ những là từ chỉ hành động có nghĩa là điều xẩy đến quá điều mình chờ đợi. Có nghĩa gần như chỉ:

   1055. Chung quanh những nước non người

   Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.

   1189. Buồng riêng, riêng những sụt sùi,

   Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân.

   1219. Những nghe nói đã thẹn thùng,

   Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!

   1239.  Mặc người mưa Sở mây Tần,

   Những mình mình có biết xuân là gì…

   + Còn có 10 chữ những có nghĩa chỉ thời gian nghĩa là mãi từ:

   0679. Phận sao đành vậy cũng vầy,

   Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.

   0979. Nàng rằng: – “ Trời thẳm đất dày!

   “Thân này đã bỏ những ngày ra đi…

   + Những dùng kèm với chữ khác:

   –những như có nghĩa nếu như là, còn như trong:

   3151. “Những như âu yếm vành ngoài.

   “Còn toan mở mặt với người cho qua…

   –luống những 6 lần với nghĩa chỉ uổng công như:

   0463. Rằng: –“Nghe nổi tiếng cầm đài,

   “Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.”

   1759. Nàng càng giọt ngọc như chan,

   Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây.

   2249. Đêm ngày luống những âm thầm,

   Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương…

   Trong số những chữ những kể trên, ta thấy có chữ có nghĩa như còn:

   0711. Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn,

   Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn…

   Ngoài ra,  Nguyễn Du còn sử dụng chữ “những” hết sức tài tình và linh hoạt với:

   – 6 chữ những ngày với nghĩa là mãi từ ngày trước đây:

   0679. Phận sao đành vậy cũng vầy,

   Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.

   0979. Nàng rằng: – Trời thẳm đất dày!

   Thân này đã bỏ những ngày ra đi…

   – 13 chữ những là với nghĩa biết bao là, chỉ là:

   3069. Những là rày ước mai ao,

   Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!

          Từ những chỉ số nhiều không xác định: một từ “vô tri vô giác” với ý nghĩa gần như số từ. Nhưng khi vào tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, có lúc ta thấy những cũng hứng lấy sự khúc xạ mạnh mẽ của tình đời và hồn người:

   0383. Những là đắp nhớ đổi sầu,

   Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.

   Những ở đây chưa bị triệt tiêu sắc thái ngữ nghĩa “số nhiều” nhưng ý nghĩa định lượng ở đây ít nhiều đã chuyển sang ý nghĩa định tính với hoạt động hướng nội mang sắc tháí tâm lý. Cái nhiều của khách thể biến thành cái nhiều của tâm trạng.

   Vì thế những là có thể được thay bằng thán từ Xiết bao:

   Xiết bao đắp nhớ đổi sầu.

   Cũng có lúc số nhiều định lượng ở những là hướng nội thành sắc thái số nhiều trong tâm lý được dùng với nghĩa như “chỉ còn là”, “đinh ninh”, “yên chí” trong những câu:

   0157. Nước non cách mấy buồng thêu,

   Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.

   0865. Những là đo đắn ngược xuôi,

   Tiếng gà nghe đã gáy sôi mé tường.

   1767. Những là nương náu qua thì,

   Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia…

         Ngoài ra còn có những như với nghĩa còn như:

   3151. Những như âu yếm vành ngoài.

   Còn toan mở mặt với người cho qua.

   Và những nước non người với nghĩa chỉ là nước non xa lạ, nơi xa lạ:

   1055. Chung quanh những nước non người

   Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.

   Trong một số trường hợp cụ thể khác ở Truyện Kiều, từ những phiếm định mang tính định lượng chuyển sang nhiều sắc thái nghĩa tinh tế khác của trường tâm lý gắn với sự bộc lộ nội tâm, chẳng hạn:

   1043. Xót người tựa cửa hôm mai,

   Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

   Trong trường hợp này, ta có thể nói được rằng ngữ nghĩa “phiếm định” vốn có ở những đã góp phần làm gia tăng thêm ấn tượng trống vắng, qua không gian lẫn thời gian trong tâm trạng người đang thương nhớ. Nếu thay những bằng từ cụ thể hơn, chẳng hạn cậy, chắc chắn ấn tượng trên sẽ bị trung hoà đi phần nào:

   Xót người tựa cửa hôm mai,

   Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

   (Quạt nồng ấp lạnh cậy ai đó giờ?)

   Và nếu nói rằng nét nghĩa phiếm định vốn có ở những gắn với hiện trạng khách thể, qua khúc xạ hướng nội, đã tô đậm thêm ấn tượng trống vắng nơi tâm trạng người đang nhớ thương, thì mặt khác nét nghĩa số nhiều của những ở đây phải chăng cũng đã góp phần làm mạnh thêm ấn tượng triền miên trong cách trở nơi tâm trạng của chủ thể đơị chờ: Điều này ít ra cũng đã dẫn tới sự dồn nén tâm trạng là cho người đang sắp xa trong cuộc cảm thấy bị hẫng hụt, bất lực, gần như tuyệt vọng. Ấn tượng hẫng hụt này hình như bộc lộ rõ ngay trong nhịp điệu (Cần ngắt quãng khi chúng ta đọc):

   Quạt nồng ấp lạnh / những / ai / đó / giờ.

          Như vậy rõ ràng, về một phương diện nào đó, khi nói đến hoạt động tạo nghĩa trong thế hướng nội của thế giới ngôn từ, ta không thể không nói đến sắc thái tâm lý mà sự hình thành của nó là quá trình cộng hưởng và khúc xạ vào nhau giữa thế giới cảm giác, cảm xúc, ấn tượng (Theo Nguyễn Lai – Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học)

   Tóm lại trong Truyện Kiều, những tuy đã có mặt rất đa dạng với đủ loại cảm xúc nhưng không xuất hiện với tần số cao như hiện nay.  Chúng ta còn có thể nói nhiều về những từ đồng nghĩa, gần nghĩa hay có nghĩa tương tự đều có mặt trong Truyện Kiều như: không, chẳng, chăng, chớ, đừng, chưa, chửa – mang, chở, ôm, tha, đem, đội, cầm, đưa, bồng, dắt, quảy, dẩy, đẩy, đeo, đèo, gánh, kéo, lăn, nâng, tung, vần – thấy, trông, nhìn, ngắm, nghé, ghé, nhác, liếc, xem, coi – nhận, biết, thấy – biết, hiểu, rõ, tường – bây giờ, bấy giờ – kén, chọn, lựa – mặc, dù, mặc dầu, dầu, dẫu – chừa, dè, e, nể – đền, bù – nghi, ngờ, ngỡ – màu, mầu, mùi, sắc – mắc, vương, vướng – dần dần, lần lần, lân la, dần dà – nói, thưa, thốt, gửi – ẩn, náu, núp, nương náu, nương nhờ…..

   Tất cả những từ trên đều được Nguyễn Du sử dụng hết sức linh hoạt và chính xác. Quả thực tiềm năng ngôn ngữ Truyện Kiều là rất lớn để có thể dành cho chúng ta nghiên cứu thành cả một chuyên đề đầy hấp dẫn.   

Trích Phụ lục IV quyển Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều của Phạm Đan Quế – Nxb Thanh niên tái  bản 2004.   

Tìm Hiểu Về Đất Nước Con Người Đan Mạch (Danmark)

Về đất nước Đan Mạch

Đan Mạch xếp thứ hai trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2017.

Đan Mạch, một quốc gia quân chủ lập hiến với thể chế đại nghị. Đan Mạch có một chính phủ cấp quốc gia và chính quyền địa phương ở 98 khu tự quản. Đan Mạch là thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 1973, mặc dù không thuộc khu vực đồng Euro. Đan Mạch là thành viên sáng lập của NATO và OECD.

Đan Mạch, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp và hệ thống phúc lợi quốc gia lớn, xếp hạng nhất trên thế giới về bình đẳng thu nhập. Theo tạp chí kinh tế Hoa kỳ Forbes, Đan Mạch có môi trường kinh doanh tốt nhất thế giới.Từ năm 2006 đến 2008, theo thăm dò,Thăm dò Chỉ số hòa bình toàn cầu năm 2009 xếp Đan Mạch là nước yên bình thứ nhì trên thế giới sau New Zealand. Đan Mạch được xếp là nước ít tham nhũng nhất trên thế giới theo Chỉ số nhận thức tham nhũng 2008, cùng hạng với Thụy Điển và New Zealand

Nền kinh tế

Đan Mạch có một nền kinh tế thị trường hiện đại và một nền công nghiệp chuyên môn hóa, năng động, đủ khả năng cạnh tranh với các nước khác.

Ngoài các xí nghiệp trung bình và nhỏ, Đan Mạch cũng có các công ty đa quốc gia như (hãng vận tải hàng hải quốc tế), Lego (sản xuất đồ chơi trẻ em), Carlsberg (hãng bia), Vestas (sản xuất quạt gió), các hãng dược phẩm Lundbeck và Novo Nordisk.

Do thị trường nội địa nhỏ bé, kinh tế Đan Mạch chủ yếu dựa vào việc buôn bán với nước ngoài. Khoảng 70% là buôn bán với các nước trong Liên minh châu Âu, trong đó khoảng 17% là với Đức, đối tác lớn nhất.

Đan Mạch xuất cảng các dịch vụ, các máy móc công nghiệp, các dụng cụ chuyên ngành, sản phẩm hóa chất, thuốc chữa bệnh, hàng dệt may, v.v.

Nguồn dầu khí khai thác từ Bắc Hải được tiêu dùng trong nước, số thặng dư cũng được xuất cảng, mang lại một lợi tức đáng kể.

Ngành nông nghiệp sản xuất thực phẩm hàng năm đủ cung cấp cho 15 triệu người (dân số Đan Mạch là trên 5,4 triệu). Ngành chăn nuôi sản xuất thịt các loại và các sản phẩm chế biến từ sữa, riêng thịt heo năm 2005 là trên 2 triệu tấn. Các sản phẩm nông nghiệp nói chung, trị giá khoảng 90 tỷ kroner/năm (tỷ giá hối đoái đầu tháng 12/2007 khoảng 1 US$ = 5,1 krone).

Đan Mạch không có thủy điện, cũng không sử dụng năng lượng hạt nhân, nhưng sử dụng nhiệt điện và năng lượng sức gió từ các cánh quạt lớn. Nguồn năng lượng này đáp ứng được 10% nhu cầu trong nước. Số năng lượng thiếu hụt được nhập từ Thụy Điển.

Đan Mạch (tiếng Đan Mạch: Danmark) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các nước Nordic, nằm phía Tây Nam của Thụy Điển, phía Nam của Na Uy và giáp với Đức về phía Nam.

Đan Mạch giáp cả biển Baltic và biển Bắc.Đan Mạch bao gồm một bán đảo lớn, Jutland (Jylland) và nhiều đảo, được biết đến nhiều nhất là Zealand (Sjælland), Funen (Fyn), Vendsyssel-Thy, Lolland, Falster, Bornholm, và hàng trăm đảo nhỏ thường được gọi là quần đảo Đan Mạch. Đan Mạch từ lâu đã kiểm soát cửa ngõ vào biển Baltic. Trước khi có kênh đào Kiel, nước chảy vào biển Baltic qua ba eo biển được gọi là những eo biển Đan Mạch.

Về con người Đan Mạch

Người dân Đan Mạch sống khá kín đáo và dè dặt, nhưng nhìn chung rất tốt bụng, nhiệt tình và sẵn sàng giúp đỡ người khác khi đã quen biết. Năm nay (2013) Cuộc khảo sát của Viện Trái đất (Earth Institute) thuộc trường Đại học Columbia (Mỹ) vừa công bố danh sách 10 Quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.Cuộc khảo sát được thực hiện dựa trên tiêu chí đánh giá về đời sống ở các nước và sự hài lòng của người dân với cuộc sống hiện tại. Trong đó, Đan Mạch đứng dầu danh sách, tiếp đến là Na Uy, Thụy Sĩ, Hà Lan và Thụy Điển. Các quốc gia như Úc, Israel, Mexico lần lượt xếp ở vị trí số 10, 11 và 14 trong bảng xếp hạng .

Hiện tại có 14.500 người Việt Nam đang sinh sống tại Đan Mạch và chủ yếu sống tại Aarhus, thành phố lớn thứ hai của Đan Mạch.

Về ngôn ngữ

Tiếng quốc ngữ của Đan Mạch là tiếng Đan Mạch, tuy nhiên hầu hết dân chúng đều biết tiếng Anh (học sinh Đan Mạch được dạy tiếng Anh từ lớp ba).Các lớp học tiếng Đan Mạch cho sinh viên du học Đan Mạch hay các kiều dân tuổi thành niên

Tất cả công dân nước ngoài trên 18 tuổi đã được cấp giấy chứng nhận cư trú tại Đan Mạch đều có quyền tham gia các bài học bằng tiếng Đan Mạch và các công việc xã hội miễn phí.

Những người tham gia có thể dự một kỳ kiểm tra cuối khóa, mà kỳ thi này có thể được sử dụng, ví dụ như để tăng khả năng nhập học vào một chương trình giáo dục. Bằng bất cứ giá nào, bạn phải vượt qua kỳ kiểm tra này nếu bạn muốn có được một giấy chứng nhận cư trú lâu dài hoặc quốc tịch Đan Mạch, trừ những trường hợp đặc biệt.

Nếu bạn đang tham gia một chương trình giới thiệu dành cho những kiều dân nước ngoài mới đến, chính quyền thành phố phải cung cấp cho bạn khóa học ấy không muộn hơn một tháng sau khi bạn trở thành một người dân của thành phố. Chương trình có thể được thực hiện theo nhiều cách, chẳng hạn với những người tham gia đang được học riêng lẻ hoặc trong các nhóm lớn hoặc nhỏ, tại một trung tâm đào tạo ngôn ngữ thành phố, tại một trường hướng nghiệp hoặc trong một môi trường làm việc, có thể được kết hợp với các bài học từ xa.

Tham gia bắt buộc vào một chương trình đào tạo tiếng Đan Mạch

Nếu bạn không thành công trong việc tìm một công việc ngay sau khi bạn đến Đan Mạch, bạn sẽ cần sự hỗ trợ tài chính từ nhà nước Đan Mạch theo dạng các phụ cấp giới thiệu. Để nhận được những phụ cấp giới thiệu, bạn phải tham gia tích cực vào các chương trình đào tạo tiếng Đan Mạch và các chương trình hoạt động và phải sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động, để bạn có thể ngay lập tức giành được lợi thế đối với bất kỳ cơ hội việc làm nào đến. Do vậy, trường học sẽ ghi lại việc đến lớp của người tham gia và được yêu cầu tường trình những người vắng mặt cho chính quyền thành phố. Vắng mặt không có lý do chính đáng có thể dẫn đến việc chính quyền thành phố cắt giảm hoặc ngưng hỗ trợ tài chính.

Tìm hiểu du học Đan Mạch

Tìm Hiểu Về Đất Nước Irsael – Hiện Đại Và Truyền Thống Đan Xen.

Chúng ta vẫn luôn ca tụng nếp sống văn hóa của người Nhật. Những khung trời tự do của thiên đường nước Mỹ. Vẫn luôn thèm thuồng cuộc sống hạnh phúc Bắc Âu. Vậy bạn hãy dành một chút thời gian nhìn sang một đất nước khác, tìm hiểu về đất nước Irsael – một quốc gia với 70% là sa mạc còn lại là đồi núi trọc. Khí hậu cực kỳ khắc nghiệt vẫn có khả năng tạo nên một nền nông nghiệp phát triển thành công và thay đổi nền nông nghiệp thế giới.

Tìm hiểu về đất nước Irsael – Văn hóa và tôn giáo

Tìm hiểu về đất nước Irsael thì trước hết nên tìm hiểu về văn hóa và tôn giáo nơi đây.

Israel được biết đến là quê hương lịch sử của người Do Thái xứ sở của Kinh Thánh. Thuộc khu vực Trung Đông, nằm dọc theo bờ đông của Địa Trung Hải. Và là một phần của cầu lục địa nối ba châu lục với nhau: châu Á, châu Phi và châu Âu.

Người Do Thái

Người Do Thái đã phát triển một nền văn hoá và tôn giáo đặc trưng của họ vào khoảng 4.000 năm trước. Trong cuộc hành trình đến với vùng đất thánh lịch sử hình thành những dòng tôn giáo lớn nhất của nhân loại là Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Thành phố Jerusalem của Israel vẫn luôn thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới.

Thành Phố Jerusalem

Jerusalem, vùng đất này được xem như là thánh địa thiêng liêng của hơn 1/3 dân số trên toàn thế giới. Khoảng 91% dân số Israel tập trung sống tại các trung tâm thành phố. Đến với Israel chúng ta sẽ thấy hầu hết những khu nhà tại thành thị được xây dựng chủ yếu bằng đá, bê tông khối, vữa stucco. Kiểu dáng thì rất đa dạng. Hầu hết những khu dân cư thường tách biệt hẳn với những khu công nghiệp và thương mại.

Với công viên rộng rãi thoáng mát và một loạt những sân chơi nằm trong giới hạn của thành phố. Trải qua hàng ngàn năm các tín đồ Kitô giáo trên thế giới đã coi Jerusalem là nơi hình thành lên tôn giáo của họ. Vì đây chính là nơi đã chứng kiến những giây phút cuối cùng và phục sinh của đức Chúa Jesus.

Jerusalem là thành phố linh thiêng thứ ba nằm sau thánh địa Mecca và Medina.

Tìm hiểu về đất nước Irsael – Khí hậu

Đất nước Israel có đặc điểm là nhiều nắng. Mùa mưa diễn ra từ tháng 11 đến tháng 4. Điều kiện khí hậu giữa các vùng khác nhau rõ rệt như trong khi tại vùng đồng bằng ven biển có mùa hè nóng ẩm. Mùa đông ôn hòa và ẩm ướt thì tại vùng đồi núi có mùa hè khô ấm áp và mùa đông khá lạnh cùng với mưa.

Nhờ sự đa dạng về khí hậu Israel có sinh thái động thực vật phong phú với hơn 500 loài chim. Khoảng 200 loài bò sát và động vật có vú. Và có 2.600 loài cây cỏ. Với hơn 150 khu bảo tồn thiên nhiên và có 65 công viên quốc gia với diện tích gần 1,000 km vuông trên toàn đất nước.

Hiện nay quốc gia này đang có những dự án sử dụng các nguồn mới khác như tạo ra mưa từ mây. Tái chế sử dụng nước thải và khử độ mặn trong nước biển để sử dụng. Ở Israel khan hiếm nước đã tạo ra nỗ lực cấp bách với mục đích tối đa hóa việc sử dụng những nguồn cung sẵn có và tìm thêm các nguồn nước mới.

Tìm hiểu về đất nước Irsael – Kinh tế thị trường của Israel​

Israel nằm tại khu vực Trung Đông có tổng diện tích khoảng 20.770 km2. Dân số có khoảng 7,2 triệu người. Trong đó có 76,4% là người Do Thái. Còn lại là những dân tộc khác. Tiếng Do thái (Hebrew) là ngôn ngữ chính thức của quốc gia này. Ngoài ra tiếng A-rập và tiếng Anh cũng được sử dụng một cách rộng rãi. Về tài nguyên khoáng sản, Israel có rất ít. Chỉ có một lượng ít potash, quặng đồng, phốt-phát dạng đá, bromide ma-nhê, đất sét…

Tìm hiểu về đất nước Irsael – Đất nước Israel

Tìm hiểu về đất nước Irsael, thì không thể bỏ qua nền kinh tế Irsael được vực dậy một cách kỳ diệu. Về kinh tế vào năm 2007, GDP của Israel đã tăng 5,4% và đạt 195 tỷ USD. Thu nhập bình quân dựa trên đầu người đạt 28.800 USD. Kim ngạch xuất khẩu đạt mức 48,6 tỷ USD. Với những mặt hàng là phần mềm, kim cương. Máy móc thiết bị, sản phẩm nông nghiệp, hóa chất, hàng may mặc,…

Kim ngạch nhập khẩu đạt mức 52,8 tỷ USD với những mặt hàng là hàng tiêu dùng, dầu mỏ, hạt giống, sắt thép thô, trang thiết bị quân sự, kim cương thô…Nền kinh tế của Israel phát triển mạnh theo cơ chế thị trường. Dựa vào những ngành công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ.

Cơ cấu kinh tế bao gồm: nông nghiệp là 1,6%, công nghiệp là 30,8%, dịch vụ là 67%. Nông nghiệp của Israel phát triển mạnh với ứng dụng công nghệ sinh học hàng đầu trên thế giới.

5 Lý do chọn Irsael làm địa điểm du lịch 

 1. Du lịch Israel vì xin visa đi Israel không quá khó 

Do trước đây công nhân Việt Nam sang lao động rồi trốn ở lại khá nhiều nên chính quyền Israel đã thắt chặt quy định xin visa đi Israel. Tuy nhiên, bạn vẫn sẽ xin visa Israel thành công khi có bộ hồ sơ minh bạch và đầy đủ.

2. Du lịch Israel tới thành phố không ngủ của Địa Trung Hải – Tel Aviv

Tel Aviv được ví von là nơi dễ khiến du khách chuyển trạng thái từ ngày sang đêm nhanh nhất và thú vị nhất của cả cùng Địa Trung Hải.

Những quán bar nổi tiếng nhất: Sumarame để ngắm toàn cảnh thành phố tráng lệ hơn sau mỗi 1 ly cocktail. Kuli Alma để uống kèm xem những video nghệ thuật tuyệt diệu. Clara Beach để tận hưởng bữa tiệc bãi biển thú vị.

Tel Aviv còn là trung tâm công nghiệp kỹ thuật cao. Được coi là thung lũng Silicon thứ 2 sau Santa Clara ở Mỹ và luôn nằm trong top 10 thành phố có bãi biển đẹp nhất thế giới.

3. Du lịch Israel để chứng kiến nền nông nghiệp thần kỳ

Thung lung Arava tại sa mạc Negev ở phía Nam Israel là phép màu thực sự của khoa học công nghệ. Là 1 trong những vùng đất khô cằn nhất thế giới với độ ẩm cực thấp và sự chênh lệch nhiệt độ quá cao khiến đá cũng phải vỡ vụn. Arava từng bị coi là vùng đất mà “con người không thể sống được”. Ấy vậy mà bây giờ, Arava lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng xuất khẩu rau của Israel và 10% tổng sản lượng hoa xuất khẩu.

Kỳ tích tại Avara xuất hiện nhờ bể chứa nước khổng lồ mang tên Shizaf có đáy chìm 3,5m dưới mặt sa mạc. Chia thành nhiều lớp khác nhau tạo nên bề mặt nổi 10m.

4. Du lịch Israel thưởng thức ẩm thực nhiều màu sắc và gia vị

Du khách đến đất nước nhỏ xinh này sẽ được thưởng thức những món ăn tuyệt hảo, đậm chất vùng Trung Đông.

Shakshouka – trứng béo ngậy nấu cùng với sốt cà chua cay là món ăn sáng được yêu thích ở Israel.

Sốt kem đậu gà Hummus làm từ đậu gà (chickpea). Nấu chín nghiền nhuyễn trộn với xốt tahini, dầu ô liu, nước cốt chanh muối và tỏi; ăn kèm với bánh mì Pita tươi, salad dưa leo và falafel.

Bánh mì cuộn tròn Rugelach có nhân mứt trái cây, chocolate hoặc các loại hạt này có khả năng gây nghiện cực cao.

5. Du lịch Israel thăm “Biển Chết” – “Cái rốn của địa cầu”

Nằm giữa biên giới Israel, Palestine và Jordan. Biển Chết có vị trí địa lý thấp nhất trong đất liền. Nước chỉ có thể chảy vào mà không thể chảy ra. Theo Kinh thánh, hồ này được gọi là Biển Chết vì những vùng đất và thành phố tội lỗi nhất trong lịch sử sẽ bị hủy diệt. Và nhấn chìm xuống những nơi sâu nhất của biển này.

Trong ngôn ngữ Hila, Biển Chết còn có tên là Biển Muối vì hàm lượng muối trong biển cao gấp 9 lần các biển khác. Bề mặt Biển Chết có hàm lượng muối 300%, dưới đáy có hàm lượng 332%.

Do hàm lượng muối trong biển cao, sức đẩy của nước rất lớn. Dù có biết bơi hay không, du khách cũng sẽ không bao giờ chìm mà nổi bồng bềnh trên mặt nước như 1 cơn sóng.

Hy vọng qua bài viết của Daisuquan.online, bạn có thể tìm hiểu thêm về Irsael. Cũng như tìm cho mình được lý do để thực hiện chuyến du lịch đến vùng đất kinh tháng với nhiều văn hóa đặc trưng.

Visa du lịch Irsael 

Vài Nét Về Tội Phạm Học Và Nghiên Cứu Tội Phạm Học Ở Việt Nam

 1. Tội phạm học – ngành khoa học phục vụ đắc lực cho đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tình hình tội phạm như một hiện tượng xã hội tiêu cực gắn liền với các nhân tố xã hội và con người trong xã hội có nhà nước.

Tội phạm học sinh ra do nhu cầu giải thích, khám phá bản chất và các quy luật phát sinh, phát triển các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng và quá trình tiêu cực, bất lợi cho xã hội, nhà nước và con người thông qua khám phá chính bản chất của các hiện tượng và quá trình tiêu cực, bất lợi đó cũng như những nguyên nhân đã phát sinh và các điều kiện hoàn cảnh khách quan thuận lợi cho sự phát triển, gia tăng các hiện tượng, quá trình đó nhằm mục tiêu phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa các nguyên nhân và điều kiện.

2. Sự xuất hiện Tội phạm học ở Việt Nam

Lịch sử minh chứng quá trình hình thành, lớn mạnh dần của hệ thống những tri thức chung mang tính cơ sở cho việc nhận thức và giải quyết nhiệm vụ của một loạt ngành khoa học và hoạt động thực tiễn thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự và quản lý nhà nước đối với quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm… Đó chính là quá trình hình thành, phát triển và tách ra độc lập của Tội phạm học trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Vì vậy để nhận chân giá trị và đánh giá đúng được tiến trình phát triển của Tội phạm học nước nhà chúng ta cũng cần xem xét tội phạm học trong mối liên hệ với các ngành khoa học xã hội khác liên đới.

Sự sinh sau đẻ muộn của Tội phạm học so với nhiều ngành khoa học xã hội – pháp lý khác có nguyên nhân khách quan đồng thời cũng phản ánh năng lực chủ quan của chủ thể quản lý xã hội, quản lý nhà nước trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm. Điều này cũng cho phép giải thích vì sao Tội phạm học ở Việt Nam được hình thành khá muộn mằn so với nhiều nước trên thế giới.

Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, ở Việt Nam đã xuất hiện những bài viết mang tính chất tội phạm học trên các báo, tạp chí khoa học như Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Công an nhân dân… Những bài viết dạng này cũng được gia tăng dần cùng với sự gia tăng các loại tạp chí, bản tin khoa học trong các ngành bảo vệ pháp luật. Tất nhiên, thuở ban đầu ấy, chưa phải đã có ngay những tri thức, những nhận định rõ ràng về Tội phạm học. Thậm chí cách đặt vấn đề còn hết sức dè dặt, bởi định kiến rằng Xã hội học nói chung là cái gì đó có xuất xứ từ xã hội tư sản và Tội phạm học hình như là một phiên bản của Xã hội học…

Cùng với sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học pháp lý từ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô vào Việt Nam (quá trình này gắn liền với quá trình thực hiện chủ trương phát triển đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học xã hội của Đảng và Nhà nước), dần dần xuất hiện những nghiên cứu thuộc lĩnh vực Tội phạm học. Đặc biệt từ khi thực hiện chính sách đổi mới và bắt đầu tổ chức một cách phổ biến hình thức đào tạo trên và sau đại học, cùng với sự lớn mạnh dần của đào tạo sau đại học ở Việt Nam, việc triển khai nghiên cứu Tội phạm học từ chỗ đơn lẻ, thiếu tính tổ chức đã dần dần đi vào nền nếp, có tổ chức và hệ thống chặt chẽ.

Nếu như những năm 80 của thế kỷ trước chỉ có những bài báo đăng trên các tạp chí bàn đến những khía cạnh nào đó mang tính tội phạm học của các vấn đề tội phạm, hình phạt, hoặc pháp luật tố tụng hình sự, điều tra hình sự… thì những năm đầu thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 đã xuất hiện ở Việt Nam những bài giảng đầu tiên về Tội phạm học đã được trình bày tại các Trung tâm nghiên cứu khoa học và Đào tạo Sau đại học của một số cơ sở đào tạo. Ngày nay, những thành tựu của Xã hội học và nhiều ngành khoa học khác, nhất là trên phương diện phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đã được Tội phạm học vận dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho những giải pháp và mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của mình.

Vào giữa thập niên 90 của thế kỷ 20, cùng với những luận văn, luận án đầu tiên về lĩnh vực Hình pháp học, ở Việt Nam đã xuất hiện những luận văn, luận án, những tác phẩm dịch thuật đầu tiên về Tội phạm học. Những cơ sở đầu tiên đào tạo các thạc sĩ chuyên ngành Tội phạm học rất ít ỏi ở Việt Nam lúc này chính là Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Đại học Cảnh sát nhân dân, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội… Những giáo trình, đề tài khoa học đầu tiên về Tội phạm học đã xuất hiện ở Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội những năm 1995 – 1996 và tiếp sau đó, những năm 1996 – 1997 ở Đại học Cảnh sát nhân dân, ở Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội Việt Nam… Những công trình nghiên cứu Tội phạm học ở Việt Nam thời kỳ đầu hình thành và phát triển gắn liền với tên tuổi những nhà khoa học pháp lý như chúng tôi Đào Trí Úc, chúng tôi Đỗ Ngọc Quang, chúng tôi Phạm Tuấn Bình, chúng tôi Nguyễn Xuân Yêm, chúng tôi Hồ Trọng Ngũ, chúng tôi Võ Khánh Vinh, TS. Nguyễn Mạnh Kháng, TS. Phạm Hồng Hải,… Bên cạnh những bài viết, bài giảng về Tội phạm học đầu tiên ở các cơ sở đào tạo đã xuất hiện những cuốn giáo trình Tội phạm học, những chương trình nghiên cứu, đề tài khoa học, những ấn phẩm dịch đầu tiên về lĩnh vực Tội phạm học của các tổ chức và cá nhân. Đáng chú ý là Đề tài nghiên cứu về Chính sách xã hội bảo đảm an ninh xã hội thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước KX04 giai đoạn 1991 – 1996 do Thiếu tướng Lê Thế Tiệm, Thứ trưởng Bộ Công an làm chủ nhiệm với sự tham gia của một tập thể cán bộ khoa học… trong đó có mảng vấn đề về tình hình tội phạm và giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm. Giáo trình Tội phạm học do TS. Đỗ Ngọc Quang chủ biên (1996) bước đầu hệ thống hóa những tri thức về môn Tội phạm học ở Đại học quốc gia. Dịch phẩm từ công trình của nhà nghiên cứu tội phạm học Nhật bản Ueduen “Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm ở Nhật bản” do TS Nguyễn Xuân Yêm và TS Hồ Trọng Ngũ đồng dịch giả (1996) đã cũng cấp những kinh nghiệm quý báu về tổ chức nghiên cứu và phòng ngừa tội phạm ở Nhật bản. Hội thảo khoa học và Kỷ yếu Hội thảo khoa học về đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức của Tạp chí Trật tự an toàn xã hội (01- 1997) tạo tiền đề cho nghiên cứu tội phạm có tổ chức ở Việt Nam đã tiếp cận hiện tượng này từ phương diện Tội phạm học. Các công trình nghiên cứu của tập thể tác giả do TS. Phạm Hồng Hải chủ biên với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu TPH như chúng tôi Đào Trí Úc, TS Võ Khánh Vinh, TS Nguyễn Mạnh Kháng về phương pháp luận nghiên cứu Tội phạm học, được công bố tại Trung tâm KHXH Việt Nam (1999); công trình của PGS TS Phạm Tuấn Bình về tội phạm ẩn ở Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp phát hiện (1999); sách Tội phạm có tổ chức – lịch sử và vấn đề của chúng tôi Hồ Trọng Ngũ (2000)… Đặc biệt công trình nghiên cứu “Tội phạm học hiện đại và Phòng ngừa tội phạm” và một loạt công trình khác về tội phạm có tổ chức, về tội phạm chưa thành niên của chúng tôi Nguyễn Xuân Yêm (Nxb CAND 2001), đã khảo cứu khá toàn diện sự phát triển của Tội phạm học ở Việt Nam và kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới ở thời kỳ đó và tạo một dấu ấn mạnh mẽ về nghiên cứu Tội phạm học ở Việt Nam.

3. Vai trò tích cực của Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm học và Điều tra tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân

Có thể nói giai đoạn khoảng 20 năm lại nay, là giai đoạn nở rộ các công trình nghiên cứu Tội phạm học. Cùng với sự ra đời các chuyên ngành Đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ về lĩnh vực Tội phạm học một số lượng lớn các luận văn, luận án tiến sĩ về lĩnh vực này đã được bảo vệ ở Học viện cảnh sát nhân dân, ở Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, ở Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Luật Hà Nội. Khoa Sau Đại học và Bồi dưỡng nâng cao của Đại học Cảnh sát nhân dân (tiền thân của nhiều đơn vị nghiên cứu, quản lý khoa học ngày nay là Học viện Cảnh sát nhân dân) cũng có quyền tự hào vì đã có những đóng góp ban đầu rất quý báu cho sự hình thành và phát triển Tội phạm học Việt Nam. Một số lượng lớn các thạc sĩ, tiến sĩ về chuyên ngành Tội phạm học đã được đào tạo ở đây – một trong những đơn vị đi đầu trong đào tạo sau đại học ở Việt Nam. Đặc biệt, những công trình, bài viết, luận văn đầu tiên nghiên cứu về Tội phạm có tổ chức đã được tổ chức nghiên cứu, tổ chức Hội thảo khoa học và công bố trên Tạp chí, kỷ yếu khoa học ở đơn vị này.

Đặc biệt, khoảng 10 năm vừa qua, sự đan bện giữa các nghiên cứu Tội phạm học và Điều tra hình sự trở thành một xu hướng chủ đạo trong nhiều cơ sở giáo dục Đại học và Sau đại học. Trung tâm Tội phạm học và Điều tra Tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân đã được thành lập, tiếp tục phát huy những thành tựu nghiên cứu tội phạm học của nhà trường và trở thành một trong những trung tâm đầu đàn tổ chức nghiên cứu các đề tài, đào tạo cán bộ nghiên cứu theo hướng này.

Kết hợp công tác nghiên cứu khoa học với đào tạo Sau đại học về lĩnh vực Tội phạm học, bên cạnh tổ chức các công trình nghiên cứu có quy mô lớn của các giáo sư, phó giáo sư – những người có bề dày nghiên cứu về tội phạm học đã xuất hiện một đội ngũ các nhà khoa học trẻ quan tâm nghiên cứu các vấn đề của tội phạm học chuyên biệt được đào tạo ở Trung tâm. Rất nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm kinh tế, tội phạm ma túy, tội phạm hình sự có tổ chức được thực hiện dưới hình thức luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và các bài viết đăng trên các tạp chí của Học viện Cảnh sát nhân dân…

Nhìn lại 10 năm từ khi có Trung tâm Tội phạm học và Điều tra Tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân (2007) đến nay, có thể thấy Tội phạm học Việt Nam đã có thêm những bước thay đổi lớn. Sự đóng góp của Trung tâm Tội phạm học và Điều tra tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân cho phát triển khoa học Tội phạm học Việt Nam là điều đáng khích lệ. Rất nhiều công trình khoa học có giá trị, nhiều cuộc Hội thảo lớn và hàng ngàn sinh viên, học viên cao học, tiến sĩ được đào tạo ở Học viện Cảnh sát nhân dân có vai trò tham gia tích cực của Trung tâm này. Hiện nay Trung tâm đang tiếp tục có những chương trình nghiên cứu và đào tạo tội phạm học theo hướng tích cực và tiếp cận những thành tựu của Tội phạm học thế giới.

Mặc dù Tội phạm học Việt Nam đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được khám phá hoặc cần thiết phải có cách nhìn đổi mới, điều chỉnh cách tiếp cận để nhằm giúp thực tiễn đạt được hiệu quả cao hơn trong điều kiện mới, nhưng nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Trung tâm Tội phạm học và Điều tra tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng Tội phạm học Việt Nam đã có những bước tiến lớn và đạt được những thành công rực rỡ. Việc thành lập Trung tâm Tội phạm học và Điều tra tội phạm ở Học viện Cảnh sát nhân dân là một chủ trương đúng đắn và hiệu quả. Ngày nay, với một đội ngũ cán bộ nghiên cứu khá vững vàng và với cộng đồng những nhà Tội phạm học Việt Nam rộng lớn đang cộng tác với Trung tâm, chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng trong tương lai Trung tâm Tội phạm học và Điều tra tội phạm sẽ tiếp tục có những đóng góp lớn hơn nữa cho sự phát triển của Ngành Tội phạm học Việt Nam.

Thiếu tướng, chúng tôi Hồ Trọng Ngũ – Phó Giám đốc Học viện CSND

 Nguồn: Tạp chí CSND - Chuyên đề Tội phạm học và Khoa học hình sự số 8+9/2017

Cập nhật thông tin chi tiết về Vietsciences ; Phạm Đan Quế ; Pham Dan Que ; Về Chữ “Các” Và Chữ “Những” Trong Truyện Kiều;Science, Khoa Hoc, Khoahoc, Tin Hoc, Informatique;Computer; Vat Ly; Physics, Physique, Chimie, Chemistry, Hoa trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!