Bạn đang xem bài viết Vai Trò Của Nguyễn Ái Quốc Tại Hội Nghị Hợp Nhất Các Tổ Chức Cộng Sản Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(TG) – Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời gắn liền với công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người quyết định thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản vào mùa xuân năm 1930, tạo ra bước ngoặt mới cho phong trào cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc triệu tập thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở Việt Nam xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (thành lập tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (thành lập tháng 1/1930). Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản đã chứng minh sự thắng thế của xu hướng cộng sản trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Ba tổ chức cộng sản ra đời tiếp tục thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Các chi bộ của các tổ chức cộng sản đã trực tiếp lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng ở nhiều xí nghiệp, đồn điền. Từ tháng 4/1929 đến tháng 4/1930 có 43 cuộc bãi công của công nhân. Phong trào đã có sự phối hợp hành động thống nhất giữa các cuộc đấu tranh, giữa các địa phương trong cả nước.
Tuy nhiên, 3 tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, không có lợi cho cách mạng. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam, ngày 5/3/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Khoảng tháng 5/1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị sau này hãy tổ chức. Nhóm Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông Dương). Một số khác, sau đó đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hoà đầu tiên. Nhóm Bắc Kỳ tìm hết cách để phá hoại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vì họ cho rằng: hội đó quá đông và cơ hội chủ nghĩa nên nó có thể làm lu mờ ảnh hưởng và công tác của Đảng Cộng sản trong quần chúng. Nhóm An Nam ra sức giữ cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tiếp tục hoạt động vì họ cho rằng: Hội có thể lợi dụng để tập họp tầng lớp trí thức và giai cấp tiểu tư sản. Đó là mối bất hoà thứ hai. Cả hai đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày cũng rộng ra bấy nhiêu”(1)
Sự chia rẽ, mất đoàn kết đã làm phân tán sức mạnh chung của phong trào, điều này nếu để lâu sẽ không có lợi cho cách mạng. Yêu cầu của cách mạng Việt Nam lúc này phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Nắm được tình hình của cách mạng Đông Dương, với vai trò là một tổ chức lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị cho những người cộng sản ở Đông Dương về việc phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản. Thư gửi những người cộng sản Đông Dương ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương”(2).
Tài liệu nói trên của Quốc tế Cộng sản là một văn kiện chính trị rất quan trọng đối với những người cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, tài liệu này được bí mật gửi qua đường liên lạc của Đảng Cộng sản Pháp nên mãi đến tháng 2/1930 mới đến được Sài Gòn, chuyển cho Xứ ủy Nam Kỳ
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động tại Xiêm. Người vẫn thường xuyên theo dõi tình hình của cách mạng Việt Nam. Sau khi nhận được tin tức về sự chia rẽ của cách mạng Việt Nam, mặc dù chưa nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, song Nguyễn Ái Quốc đã chủ động lên đường đi Trung Quốc, viết thư gửi các tổ chức cộng sản để bàn về vấn đề hợp nhất. Trong báo cáo gửi Quốc tế cộng sản ngày 18/2/1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “tôi đi Trung Quốc, tới đó vào ngày 23/12. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của 2 nhóm Đông Dương và An Nam, chúng tôi họp vào ngày 6/1… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8/2”(3).
Nhận được thư triệu tập của Nguyễn Ái Quốc, các đại biểu của 2 tổ chức lập tức lên đường. Các đại biểu đều rất vui mừng vì nghĩ sẽ được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người mà tất cả đã “biết từ lâu nhưng chưa từng gặp mặt… Từ lâu, chúng tôi vẫn ao ước có một người mà ai cũng phải thừa nhận là vô tư, là hiểu biết sâu rộng về cách mạng hơn hẳn chúng tôi, để nhận xét và giúp chúng tôi giải quyết mọi vấn đề phức tạp. Người đó chính là đồng chí Vương….Chúng tôi đến Hương Cảng vào dịp Tết Canh Ngọ”(4).
Như vậy, mặc dù chưa nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, song Nguyễn Ái Quốc bằng nhãn quan chính trị nhạy bén của mình đã chủ động triệu tập thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Sự thành công này không phải chỉ xuất phát từ cái danh là đại diện của Quốc tế Cộng sản, có quyền quyết định mọi vấn đề của cách mạng Đông Dương mà còn xuất phát từ chính uy tín của bản thân đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Triệu tập thành công hội nghị là thắng lợi bước đầu để Hội nghị hợp nhất được diễn ra tốt đẹp.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất
Việc hợp nhất là vấn đề phức tạp, bởi lẽ các tổ chức cộng sản trước đây đã nhiều lần họp bàn để hợp nhất nhưng đều không thành công. Các vấn đề như hợp nhất như thế nào? tổ chức nào còn, tổ chức nào mất? tên Đảng là gì? Đường lối ra sao? đều là những vấn đề rất nhạy cảm mà bản thân các tổ chức cộng sản không thể giải quyết được. Hội nghị hợp nhất cần phải có người đủ cả tâm, tầm, trí chủ trì để đưa hội nghị đi đến thành công.
Thực tế là Hội nghị hợp nhất đã diễn ra rất sôi nổi với sự tranh luận gay gắt giữa cả 2 nhóm đại biểu Đông Dương và An Nam. Theo đồng chí Nguyễn Thiệu- đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng tham dự Hội nghị hợp nhất thì những ý kiến đầu tiên của cả hai nhóm “cũng chỉ luẩn quẩn ở chỗ muốn đưa đồng chí Vương đến chỗ là quan tòa phán quyết những đúng sai”(5) của mỗi bên. Khi bàn đến vấn đề hợp nhất thì cũng không bên nào chịu bên nào. Bên này thì cho rằng bên kia tổ chức quá phức tạp, bên kia lại bảo bên này tổ chức vô nguyên tắc, hẹp hòi. Ngay tên Đảng là gì cũng xảy ra bất đồng chính kiến, “các đại biểu nhóm Đông Dương đề nghị giữ lại cái tên Đông Dương Cộng sản Đảng. Các đại biểu nhóm An Nam không đồng ý như vậy, cho rằng đó là cái tên của một nhóm cộng sản cũ rồi, không nên dùng lại làm gì”(6). Cuộc tranh luận giữa hai bên có lúc gay gắt tưởng chừng như lại tan vỡ đến nơi.
Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, trên cương vị là người chủ trì Hội nghị, bằng tài trí và kinh nghiệm hoạt động chính trị của mình, Người đã khéo léo tháo gỡ từng bất đồng, đưa Hội nghị đi đến thành công.
Về vấn đề hợp nhất như thế nào, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của cả hai bên. Đồng chí cho rằng: “Thực ra nhóm nào cũng có cái đúng, cũng có cái sai, nhưng mục đích của cuộc họp này không phải là để chỉ trích lẫn nhau… mà mục đích duy nhất của cuộc họp này là hợp nhất…. Muốn thu hút hết thảy những người, những nhóm người tình nguyện chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản vào một tổ chức cộng sản thống nhất thì bây giờ phải thành lập một Đảng Cộng sản mới, theo đúng đường lối, chủ trương của Quốc tế Cộng sản, có chính cương mới, điều lệ mới, sách lược mới”(7).
Về vấn đề tên Đảng, trước sự tranh luận gay gắt giữa hai bên, đồng chí Nguyễn Ái Quốc lại từ tốn phân tích: “Đông Dương là cái tên chỉ những nước ở trên bán đảo giữa Ấn Độ và Trung Quốc, như thế gồm có Miến Điện, Xiêm La, Mã Lai, Miên, Lào và ba kỳ của nước chúng ta; cho nên thường người ta muốn chỉ Miên, Lào và nước chúng ta thì dùng cái tên “Đông Dương thuộc Pháp” (Indochine Française); nhưng không ai dại gì mà dùng cái tên “Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc Pháp”. An Nam là cái tên người Trung Quốc vẫn quen dùng từ lâu để gọi nước ta; nhưng hiện tại đối với người Pháp và thế giới, trên bản đồ, An Nam chỉ là Trung Kỳ. Rốt lại chỉ có cái tên Việt Nam là đúng hơn hết và thích hợp nhất. Đối với người Trung Quốc, cái tên Việt Nam cũng quen chẳng kém gì cái tên An Nam; đối với thế giới thì dần dần người ta cũng quen. Nước ta đang bị bọn đế quốc chiếm cứ, nhân dân ta phải có nhiều hành động quật khởi thì rồi người ta mới biết đến tên tuổi. Cái tên “Đảng Cộng sản Việt Nam” không còn lẫn vào đâu được, mọi người sẽ không còn nghĩ đến một tổ chức cũ nào cả.”(8).
Đồng chí còn phân tích thêm: Dầu sao cái tên Đảng vẫn không phải quan trọng hàng đầu, mà quan trọng hàng đầu chính là đường lối, chính sách, chủ trương và thành phần của Đảng. Nhưng vì rằng, mọi người dự cuộc họp đều tha thiết tìm cho Đảng một cái tên thật thích hợp, nên sau ý kiến đưa ra của các đại biểu quốc tế, các đại biểu hãy suy nghĩ thêm xem có tìm ra một cái tên nào tốt hơn không, và hôm sau sẽ tiếp tục bàn bạc.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam
Thống nhất về tên Đảng là một vấn đề quan trọng song cũng chưa quan trọng bằng việc thống nhất về đường lối chính trị của Đảng. Trong bối cảnh cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, sự thống nhất về đường lối chính trị cấp thiết hơn sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắt tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên đã bao quát được những vấn đề chiến lược và sách lược đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác định: phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Nhiệm vụ cơ bản của tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng là đánh đổ đế quốc, phong kiến giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, sớm hình thành tư tưởng phân hóa giai cấp địa chủ phong kiến, tập trung đánh đế quốc và Việt gian tay sai, giải phóng dân tộc. Về lực lượng cách mạng, trên cơ sở lấy giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng chính do giai cấp công nhân lãnh đạo, mở rộng đoàn kết với các giai cấp, các tầng lớp và toàn thể dân tộc. Về phương pháp cách mạng đó là sử dụng sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân để lật đổ ách thống trị của đế quốc, tay sai, lập nên chính phủ cộng hòa. Về mối quan hệ với cách mạng thế giới, Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Về vai trò của Đảng lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tuy vắn tắt nhưng đã xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đã giải quyết nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân. Độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Điều đáng chú ý ở chỗ, trong nội dung bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên có nhiều điểm khác biệt so với đường lối của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ. Đó là sự khác biệt trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, chống đế quốc và chống phong kiến; Vấn đề đánh giá khả năng tham gia cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác ngoài công nhân và nông dân; Vấn đề về tên Đảng.
Nếu như Quốc tế Cộng sản đặt nặng vấn đề đấu tranh giai cấp, coi giai cấp tư sản và phong kiến nói chung đều là cừu địch của cách mạng, Đảng phải là đảng chung của 3 nước Đông Dương, tên Đảng phải là Đảng Cộng sản Đông Dương. Thì Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng, ở Việt Nam, nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải được đặt lên hàng đầu, cách mạng chỉ chủ trương đánh đổ bọn tư sản và phong kiến tay sai phản động, còn lại phải “hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ về phe vô sản giai cấp”(9), ngay cả đối phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ phản cách mạng thì cũng phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Đối với vấn đề tên Đảng, Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, vẫn giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia song chỉ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy có thể thấy rằng, vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1 đến 7/2/1930) là hết sức to lớn. Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được rất nhiều những thành công to lớn. Đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tổng Phú Trọng đã khẳng định “Chưa bao giờ chúng ta có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín quốc tế như ngày nay”. Chứng kiến sự phát triển của đất nước, chúng ta lại càng thấy được vai trò to lớn của Đảng, tầm quan trọng của sự kiện Đảng ra đời và công lao to lớn của của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tại Hội nghị hợp nhất này./.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, t.2, tr.34-35.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, t.1, tr.614.
(3), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.3, tr.12-13, 3.
(4),(5), (6), (7), (8) Nguyễn Đức Tài, Võ Văn Bé, Đinh Thị Mỹ Vân:Bác Hồ với Đại hội Đảng, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2020, tr.13, 134, 136, 134-136, 137.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H, 1999, t.4, tr.7
Lê Đức Thuận Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
Thực Trạng Cháy Rừng Ở Việt Nam, Vai Trò Của Các Hệ Sinh Thái Rừng
Rừng được coi là một phần cần thiết không thể thiếu của thế giới. Cây cối quang hợp sẽ sản sinh ra ô xy để nuôi dưỡng các sinh vật sông trên trái đất. Bất kể loài sinh vật nào sống trên trái đất này đều cần đến oxy,bởi oxy sẽ giúp duy trì sự sống.
Theo cơ quan khí tượng, bên cạnh nguyên nhân trực tiếp là áp thấp nóng phía tây kết hợp với gió Lào, nhiệt độ tăng cao thì hiện tượng cháy rừng còn là hệ quả của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, cộng thêm việc 2012 là năm đổi pha, sau La Nina (pha lạnh) là El Nino (pha nóng).
Bên cạnh các khu rừng ven biển ở miền cực nam nằm trên các thảm than bùn, hay các vùng rừng Tây Nguyên với tập quán đốt rừng làm nương rẫy, vùng rừng núi phía Tây Bắc cũng là một khu vực bị thần lửa thường xuyên đe dọa. Trong mấy năm gần đây, rừng quốc gia Hoàng Liên thường xuyên bị cháy. Năm 2010, ít nhất 1.000 ha rừng Hoàng Liên bị thiêu rụi.
Như vậy, hiện trạng cháy rừng ở Việt Nam là không thể xem thường và phải tìm ra nguyên nhân và phương án xử lý kịp thời.
Nguyên nhân cháy rừng ở Việt Nam
Một trong những nguyên nhân cháy rừng hàng đầu là do sự thay đổi rõ rệt của khí hậu, trái đất nóng lên nhiệt độ cũng thay đổi thất thường theo. Biên độ nhiệt ngầy càng dao động mạnh lên và luôn giữ mức cao. Điều đó cho thấy nhiệt độ tại những nước nhiệt đới cao làm cho mùa hè khắc nghiệt hơn cháy rừng diễn ra phổ biến hơn.
Nền nhiệt độ luôn cao trên 40 độ C thì rất dễ dấn đến cháy rừng. Những khu rừng vào mùa hanh khô thường có dấu hiệu như là cây khô héo, cành cây, gốc cây trơ lại thường rất dễ bén lửa. Chỉ cần một chút lửa thôi nhưng do gió đưa đi làm cho cả cánh rừng mấy ha cũng có thể bị thiêu rụi trong vòng vài chục phút. Đây là nguyên nhân cháy rừng không thể bỏ qua.
Vai trò của rừng
Rừng như một sinh cảnh
Ví dụ, chim chích của Kirtland ( Dendroica kirtlandii ) là một loài chim có nguy cơ tuyệt chủng chỉ làm tổ trên cây thông (Pinus bankiana) ở một độ tuổi và mật độ cụ thể ở phía bắc Michigan. Loài chim biết hót này không sinh sản trong bất kỳ loại rừng nào khác, kể cả những cây thông nhỏ hơn hoặc già hơn. Tương tự, loài cú đốm nguy cấp ( Strixernidentalis ) chỉ xuất hiện ở một số loại rừng lá kim phát triển lâu đời ở phía tây Bắc Mỹ. Những khu rừng già này cũng duy trì các loài khác không thể tồn tại trên các khán đài trẻ hơn, ví dụ, một số loài địa y, rêu và gan.
Tuy nhiên, thông thường, nhiều loài xuất hiện trong rừng có khả năng chịu đựng sinh thái rộng hơn và trên thực tế chúng có thể thích nghi các loại môi trường sống khác nhau.
Rừng là tài nguyên
Gỗ: Gỗ là sản phẩm quan trọng nhất được khai thác từ rừng. Gỗ thường được sản xuất thành giấy, gỗ, ván ép và các sản phẩm khác. Ngoài ra, ở hầu hết các khu vực có rừng của củi thế giới kém phát triển là nguồn năng lượng quan trọng nhất được sử dụng để nấu ăn và các mục đích khác.
Các sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ: bao gồm rộng rãi tất cả các thảm thực vật gỗ phi công nghiệp trong rừng và môi trường nông lâm kết hợp, hoặc có khả năng có giá trị thương mại. Các thuật ngữ khác đồng nghĩa với lâm sản không độc hại bao gồm lâm sản đặc biệt, lâm sản ngoài gỗ, lâm sản nhỏ, lâm sản thay thế và lâm sản thứ sinh.
Một số loại lâm sản không độc hại được thu thập ở Mỹ là nấm dại, quả mọng, dương xỉ, cành cây, nón, rêu, xi-rô cây thích, mật ong và các sản phẩm làm thuốc như vỏ cây cascara và nhân sâm. Lâm sản không phải là một phạm trù sinh học hay sinh thái; nó là một phạm trù chính trị và kinh tế phục vụ để làm nổi bật các tài nguyên rừng bị bỏ qua hoặc bị bỏ qua trong quản lý rừng như một nguồn thu nhập khả thi.
Rừng và giải trí
Bằng cách cung cấp một loạt các cơ hội giải trí ngoài trời, rừng khuyến khích mọi người sống theo lối sống năng động, lành mạnh. Rừng cũng cải thiện sức khỏe tinh thần và tinh thần thông qua liên kết với người khác và kết nối với thiên nhiên.
Các hoạt động giải trí trong rừng nuôi dưỡng sự đánh giá cao của mọi người về vai trò của rừng trong việc giữ gìn sức khỏe của hành tinh chúng ta.
Đầu tư vào rừng cho các cơ hội giải trí, chẳng hạn như du lịch, đi bộ đường dài và cắm trại, cũng cung cấp một sự thúc đẩy cho nền kinh tế địa phương và cảm giác tự hào về các cộng đồng xung quanh.
Vai trò của rừng trong biến đổi khí hậu
Hiện tại chúng đóng góp khoảng 1/6 lượng khí thải carbon toàn cầu, do sử dụng quá mức hoặc xuống cấp;
Rừng phản ứng nhạy cảm với khí hậu thay đổi;
Khi được quản lý bền vững, rừng sản xuất gỗ mộc như một sự thay thế lành tính cho nhiên liệu hóa thạch;
Và cuối cùng, chúng có khả năng hấp thụ khoảng một phần mười lượng khí thải carbon toàn cầu dự kiến trong nửa đầu thế kỷ này vào sinh khối, đất và lưu trữ chúng – về nguyên tắc là vĩnh viễn.
Rừng ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu phần lớn bằng cách ảnh hưởng đến lượng carbon dioxide trong khí quyển. Khi rừng phát triển, carbon được loại bỏ khỏi khí quyển và hấp thụ trong gỗ, lá và đất. Bởi vì các khu rừng (và đại dương) có thể hấp thụ và lưu trữ carbon trong một khoảng thời gian dài. Carbon này vẫn được lưu trữ trong hệ sinh thái rừng, nhưng có thể được thải vào khí quyển khi rừng bị đốt cháy. Định lượng vai trò đáng kể của rừng trong việc hấp thụ, lưu trữ và giải phóng carbon là chìa khóa để hiểu chu trình carbon toàn cầu và do đó biến đổi khí hậu.
Nhiều chức năng sinh thái của rừng
Khu rừng biến đá vô hồn thành một hệ sinh thái: Trải qua hàng ngàn năm, các loài thực vật và động vật của rừng tự thiết lập và xây dựng một lớp phủ xanh. Rừng mọc chậm. Một vùng đất mới được tiếp xúc trước tiên sẽ bị chiếm đóng bởi một vài loài cây rất khỏe và có thể sống trên đá trần. Dần dần các thực vật và động vật khác theo sau. Khu rừng bao phủ vùng đất ngày nay có thể hàng ngàn năm tuổi. Bạn có thể chặt một số cây và không làm tổn thương gì cả. Nhưng nếu bạn chặt quá nhiều cây cùng một lúc, bạn có thể phá hủy nó.
Rừng làm đất: Đất trên đất là tảng đá cũ nát xen lẫn với những thực vật chết trong rừng và nhiều động vật nhỏ, vi khuẩn và thực vật sống trong đất. Rừng làm hầu hết đất trên hành tinh. Khi đất vườn trở nên nghèo nàn, rừng phát triển trên khu vườn cũ và làm cho đất tốt trở lại.
Rừng bảo vệ đất: Nó giữ đất với rễ của nó. Nếu cây bị chặt hạ và không có cây nào phát triển, đất sẽ bị cứng và khô và không tốt cho rừng. Nếu mưa lớn đến và không có cây, đất sẽ bị bùn và rửa trôi, gây ô nhiễm dòng suối, sông và biển.
Khu rừng che chở những khu vườn: Khi gió mạnh và mưa to đến, cây cối bảo vệ khu vườn. Gió mạnh có thể làm tổn thương mùa màng và làm khô đất. Gần bờ biển, phun muối có thể gây độc cho đất hoặc gây hại cho cây trồng. Rừng cũng có thể bảo vệ nhà cửa và làng mạc khỏi gió mạnh.
Rừng giữ nước: Cây và đất họ làm đầy nước và họ trữ nước này trong thời gian không mưa. Rừng kiểm soát dòng nước trên đất. Khi mưa lớn, cây giúp giữ nước trong đất. Chúng giữ nước trong cành, thân, rễ và lá của chúng. Khi đất khô, nước từ rừng giữ cho đất xanh. Không có cây trong rừng, đất có thể nhanh chóng bị khô và hoa màu có thể chết.
Vài trò của rừng trong việc ngăn ngừa hỏa hoạn: Khi rừng chết, đất trở nên khô cằn và có thể nhanh chóng bắt lửa và thiêu rụi toàn bộ sự sống.
Hậu quả cháy rừng không thể bỏ qua
Nếu con người còn tiếp tục gây ra cháy rừng hoặc không có ý thức bảo vệ rừng sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Một trong số đó có thể kể đến như sau:
Hâu quả đầu tiên cần nhắc tới là chúng ta đã bị mất đi cánh rừng hàng chục năm cũng có thể là hành trăm năm trong vào chục phút. Còn lại gì sau những ngọn lửa đó, chắc mọi người chỉ thu lại được than củi nhưng thay vào đó chúng ta đã mất thêm hàng chục năm nữa mới có thể lấy lại những gì đã mất.
Cháy rừng đồng nghĩa với việc chúng ta lại bị chậm lại hàng chục năm để trồng thêm rừng đó là một khoảng thời gian rất dài chính là những thách thức dành do loài người bởi không phải chỉ trồng thôi mà chúng ta còn cần có thêm nhiều biện pháp để chăm sóc và bảo vệ.
Không chỉ thế cháy rừng làm cho nhiều loài sinh vật bị thiêu rụi, xác động vật bị cháy đen sau những vụ cháy rừng trông rất thương tâm. Nếu như là những loài động vật quý hiếm thì sẽ gây ra sự mất cân bằng sinh thái.
Hậu quả của cháy rừng ở Việt Nam cũng giống như nhiều nước trên thế giới là mất cân bằng hệ sinh thái và ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống của con người. Mỗi người cần có ý thức phòng chống cháy rừng và bảo vệ rừng khỏi nguy cơ cháy rừng.
Cách phòng chống cháy rừng hiệu quả
Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy rừng
Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục cho người dân về pháp luật phòng chống và chữa cháy rừng.
Tuyên truyền trên loa truyền thanh thường xuyên. Các huyện và cơ sở tổ chức họp dân, vận động ký cam kết khi dọn đốt nương rẫy không để cháy lan vào rừng.
Những chủ rừng thì cần phải có cam kết phòng chống cháy rừng khi tham gia trồng rừng mới và khoanh nuôi tái sinh.
Quy hoạch vùng sản xuất nương rẫy. Vận động, tuyên truyền cho người dân không đốt rừng làm nương rẫy bừa bãi.
Xử lý nhanh, kịp thời cháy rừng
Đối với địa phương xảy ra cháy rừng thì cần phải chủ động xử lý nhanh chóng, kịp thời.
Làm rõ được nguyên nhân, xử lý nghiêm minh người có hành vi vi phạm về luật phòng chống và chữa cháy rừng.
Khen thưởng cá nhân, tổ chức có thành tích trong phòng, chữa cháy rừng
Có chế độ khen thưởng cho cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong việc phòng chống và chữa cháy rừng.
Tăng cường kiểm tra bảo vệ rừng
Các hạt kiểm lâm huyện cần phải tăng cường kiểm soát các biện pháp phòng chống chữa cháy rừng của từng đơn vị, địa phương.
Giám sát, kiểm tra chặt chẽ người ra vào rừng.
Phát hiện sớm và xử lý nhanh chóng những vụ cháy khi vừa phát sinh.
Phân công, bố trí lực lượng thường xuyên kiểm tra, gác trực vào mùa cao điểm, nắng nóng, hanh khô.
Theo dõi và cập nhật tình hình thời tiết thường xuyên sẽ giúp dự đoán được cấp cháy rừng nếu xảy ra. Từ đó, chỉ đạo, bố trí lực lượng, có các cách xử lý phù hợp, kịp thời.
Rừng Amazon ở đâu
Rừng Amazon ở đâu và thuộc nước nào? Rừng Amazon nằm trong 9 lãnh thổ thuộc các quốc gia của khu vực Nam Mỹ là phần nằm ở phía Tây Nam Bán Cầu Trái Đất thuộc Châu Mỹ bao gồm 60% thuốc Brazil, phần còn lại là Colombia, Peru, Venezuela, Ecuador, Bolivia, Guyana, Suriname. Tổng diện tích của bề mặt phủ của rừng Amazon lên tới hơn 7 triệu km2.
Nơi đây được mệnh danh là Lá Phổi Xanh lớn nhất của trái đất với hệ động thực vật phong phú, phát triển đa dạng về chủng loại, đây là một trong những khu vực luôn luôn tiềm ẩn những điều kỳ bí khiến cho con người phải tò mò muốn tìm hiểu.
Một số hệ sinh thái rừng phổ biến
Rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn bao gồm nhiều loại cây sống trong khu vực nước mặn ở ven biển cũng như ở trong vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Ở rừng ngập mặn thì không phải loại cây nào cũng có thể sinh sống và phát triển được, ở đây chỉ những loại thực vật thích hợp với vùng nước ngập mặn thì mới có thể sinh sống và phát triển một cách tốt nhất.
Chính vì những yếu tố đó mà đã tạo nên một môi trường sinh trưởng và phát triển khắc nhiệt chỉ có những loại cây ngập mặn với những đặc tính riêng thì mới có thể sống và thích nghi một cách tốt nhất.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn được hình thành bởi nhiều yếu tố như động vật, thực vật và một số loại sinh vật khác.
Những khu rừng ngập mặn chỉ được lộ ra khi nước biển xuống thấp và khi nước biển dâng nên, điều này đã tạo ra một hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú và đa dạng với những đặc trưng riêng mà không phải hệ sinh thái rừng nào cũng có.
Rừng lá kim
Cây lá kim có thể phát triển khá tốt bên cạnh những cây rụng lá trong nhiều quần xã, như quần xã rụng lá ôn đới hay quần xã taiga.
Cây lá kim đã phát triển rất nhiều sự thích nghi thực sự gọn gàng để tồn tại và phát triển trong điều kiện hạn chế chất dinh dưỡng. Một trong những thích ứng lớn nhất là lá kim của chúng.
Cây lá kim có thể trông khá trần tục, nhưng cái cây đã tạo ra rất nhiều công việc để tạo ra chúng, và nó hy vọng sẽ thu được rất nhiều từ những chiếc kim. Mỗi kim có một lớp sáp gọi là lớp biểu bì (đừng nhầm với lớp biểu bì trên tay của bạn) giúp giữ độ ẩm quý giá không bị rò rỉ ra ngoài. Lá Kim cũng được bơm đầy hỗn hợp các hóa chất như tannin và terpen để làm cho chúng trở nên khó chịu đối với động vật ăn cỏ.
Cây lá kim thường phát triển chậm vì chúng thường phát triển trong đất hạn chế chất dinh dưỡng và chúng tiêu tốn rất nhiều chất dinh dưỡng mà chúng có trong việc tạo ra những chiếc lá kim. Chúng sử dụng những cây kim này trong một thời gian dài, từ hai đến năm năm hoặc lâu hơn.
Cây lá kim thường được gọi là cây thường xanh vì những chiếc lá kim giữ được màu xanh quanh năm. Nhưng, thực sự có một vài loài cây lá kim rụng lá!
Cách cây lá kim ảnh hưởng đến đất khá thú vị. Mặc dù chúng không rụng lá kim mỗi mùa thu, thỉnh thoảng chúng vẫn làm rơi lá. Theo thời gian, những cây kim này chất đống quanh gốc cây. Những chiếc kim không bị phân rã như những chiếc lá rụng khác. Thay vào đó, chúng phân hủy chậm và làm cho đất thậm chí còn hạn chế chất dinh dưỡng hơn. Tannin trong những chiếc lá kim cũng có tính axit và ngấm vào đất, khiến cho các cây và cây rụng lá khác khó lấy chất dinh dưỡng hơn.
Trong một số khu rừng lá kim, có rất nhiều tannin có tính axit trong đất đến nỗi chúng ngấm vào sông và nhuộm nước thành màu vàng.
Rừng đặc dụng là gì
Rừng đặc dụng là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp ứng yêu cầu sau:
Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch.
Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người.
Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.
Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi.
Khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu cầu sau:
Vườn quốc gia: Vườn quốc gia Xuân Sơn ở Việt Nam
Vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao.
Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch.
Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm.
Đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%.
Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm:
Khu bảo tồn thiên nhiên: Phong cảnh khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long ở Ninh Bình
Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo.
Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng.
Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường
Tìm Hiểu Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Các Kỳ Đại Hội
Sách Tim Hiểu Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, trong đó Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập, thường lệ 5 năm một lần. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ngoài nhiệm vụ đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của nhiệm kỳ đã qua; quyết định đường lối, chính sách của Đảng; bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần thiết,…
Còn có nhiệm vụ bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Giữa hai nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, thông qua hình thức tổ chức và hoạt động chủ yếu của Ban Chấp hành là các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đại hội và Hội nghị đại biểu toàn quốc; quyết định những vấn đề quan trọng về công tác đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng Đảng; quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng phái và tổ chức chính trị tiến bộ trên thế giới; quyết định và thực hiện chính sách cán bộ và quản lý cán bộ; lập các ban, đảng đoàn, ban cán sự và chỉ đạo các cơ quan đó hoạt động; chuẩn bị Đại hội đại biểu của nhiệm kỳ tiếp theo.
Sách tìm hiểu lịch sử đảng cộng sản việt nam 1930 – 2016 (qua các kỳ đại hội)
Mỗi Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã in đậm vai trò lãnh đạo của Đảng và đánh dấu sự trưởng thành, phát triển của Đảng và của sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sách Tìm Hiểu Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Các Kỳ Đại Hội
Nhân kỉ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2016) và chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản cuốn sách tìm hiểu lịch sử đảng cộng sản việt nam 1930 – 2016 (qua các kỳ đại hội) phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là mong muốn và là yêu cầu cần thiết của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hi vọng cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đọc có nhiều thông tin bổ ích để tham khảo, nghiên cứu.
Sách Tìm hiểu lịch sử Đảng 90 Năm Lịch Sử Vẻ Vang Của Đảng
Cách đây 90 năm, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã tiến hành hội nghị hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự tất yếu của lịch sử, là kết quả phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc.
Tìm Hiểu Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam 1930 – 2020 Qua Các Kỳ Đại Hội
Vừa mới ra đời, Đảng ta đã nắm ngay quyền lãnh đạo độc tôn và hòa vào cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ, từng bước tạo thế, lực, thời cơ và chớp thời cơ “ngàn năm có một”, lãnh đạo cả dân tộc vùng dậy, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
9 năm sau đó, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào với bè bạn năm châu vì đây là lần đầu tiên một dân tộc thuộc địa đã đánh thắng đội quân nhà nghề Pháp hùng mạnh, làm nên mốc son Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký vào Hiệp định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương, đồng thời cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa vùng lên “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
Sách Tìm Hiểu Lịch Sử Đảng vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Dân tộc ta không chỉ tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, mà chính Đảng và Bác Hồ đã tiếp thêm sức mạnh, nguồn sống, niềm tin để cả dân tộc Việt Nam tiếp tục bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước hơn hai thập niên sau đó. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử , kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tìm hiểu lịch sử đảng cộng sản việt nam các tên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nội dung cuốn sách gồm những phần như sau:
Phần I. Một số hình ảnh tư liệu về Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh;
Phần II. Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi vẻ vang;
Phần III. Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Phần IV. Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong quá trình đổi mới;
Sách tìm hiểu lịch sử đảng những lần đổi tên của Đảng Cộng sản việt nam
Sách giúp bạn nắm bắt được thông tin hiệu quả hơnSÁCH CHÍNH TRỊ TÀI CHÍNH
Địa chỉ: 87B Trần Quốc Thảo , P.7, Quận.3, TP. Hồ Chí Minh.
Hotline: 028 36 36 21 82 – ZaLo: 0909 366 858 – ZaLo: 0982 711 282 (Mr.Thành)
+ Liên tục cập nhật nhiều đầu sách hay về lĩnh vực chính trị tài chính có chất lượng nội dung luôn đúng và chính xác với mức giá rẻ hơn thị trường từ 20 – 30%.
+ Miễn phí giao hàng với đơn hàng 250K trở lên (đối với khách hàng ở tỉnh), miễn phí ship vận chuyển nội thành HCM (bất kì đơn giá nào – không phụ thuộc có hóa đơn VAT hay không).
+ Sản phẩm bán ra có đầy đủ hóa đơn VAT, có thể chiết khấu trên hoặc ngoài hóa đơn (tùy khách hàng lựa chọn).
+ Hỗ trợ đổi trả miễn phí hoặc hoàn tiền 100% nếu chất lượng sách không đạt yêu cầu như: sai lệch về nội dung, chất lượng sách in không rõ ràng, giấy mỏng, không đúng chuẩn ISO… trong 1 tháng.
80.000đ
Sự Ra Đời Của Tổ Chức Cộng Sản Và Phong Trào Đấu Tranh Giải Phóng Dân Tộc Ở Tỉnh Nam Định (1929
Sự ra đời của tổ chức cộng sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở tỉnh Nam Định (1929-1945)
Page Content
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Để phát triển, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào tạo
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THEO ĐƯỜNG LỐI CỘNG SẢN
Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Nam Định.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Để phát triển, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Giữa năm 1925, Lê Hồng Sơn, phái viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ Quảng Châu về Nam Định gặp Đinh Chương Dương đặt vấn đề vận động thanh niên yêu nước ở Nam Định sang Quảng Châu học tập. Sự kiện này diễn ra tại ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự và một số cơ sở ở Cát Đằng, huyện Ý Yên.
Từ giữa năm 1926 đến đầu năm 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển mạnh mẽ ở Nam Định, đến cuối năm 1927, đã có đến tám chi hội hoạt động. Tháng 9-1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã cử Nguyễn Danh Đới làm đại diện cho Kỳ bộ về Nam Định tổ chức họp mặt với ba cán bộ chủ chốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Định là Nguyễn Văn Hoan, Vũ Huy Hào và Trần Trung Tín. Một Ban chấp hành Tỉnh bộ lâm thời gồm ba người do Nguyễn Văn Hoan làm bí thư đã được thành lập. Đến cuối năm 1928, các chi hội đã lan rộng đều trên phạm vi toàn tỉnh, từ thành phố xuống nông thôn. Mùa hè năm 1928, Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh) đã lập ra tờ Dân cày để phục vụ công tác tuyên truyền quần chúng. Báo tồn tại đến ngày 1-5-1931 thì phải đình bản.
Từ khi có tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra quyết liệt, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi Nam Định (ngày 23-11-1928), cuộc đình công của toàn bộ phu kéo xe Nam Định (ngày4-10-1929), đặc biệt là cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi (tháng 3-1929) đã gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh cả nước.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập. Ngày 19-6-1929, Ban Tỉnh ủy lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định được thành lập, bao gồm Nguyễn Hới (Bí thư), Phạm Văn Ngọ và Lê Ngọc Rư. Trụ sở của Ban Tỉnh ủy được đặt tại ngôi nhà số 12, phố Năng Tĩnh và một số ngôi nhà khác ở thôn Mỹ Trọng, xã Mỹ Xã. Ngay từ đợt đầu tiên, ở Nam Định đã có 250 hội viên được kết nạp vào Đảng, trong đó công – nông chiếm đa số (75%).
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định đã tỏ rõ sức chiến đấu và khả năng tổ chức của mình bằng việc phát động nhiều cuộc đấu tranh sôi nổi ở các nhà máy. Chỉ trong vòng hơn một tháng đã nổ ra bốn cuộc bãi công của thợ Nhà máy đèn (ngày 19-6); thợ nề (ngày 4-7); thợ nhuộm, thợ guồng Nhà máy sợi (từ ngày 7 đến 18-7-1929) và nữ công nhân máy lờ từ ngày 20 đến 21-7-1929. Tất cả các cuộc bãi công đều thu được thắng lợi.
Nam Định trong cao trào cách mạng 1930-1931.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngay sau đó Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định trở thành một Đảng bộ thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này là bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, tạo nên chuyển biến lớn cho phong trào cách mạng Nam Định.
Đầu tiên là cuộc đấu tranh của nữ công nhân Nhà máy chiếu ngày 15-3-1930, sau đó 10 ngày là cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân Nhà máy sợi với mức độ quyết liệt và quy mô lớn chưa từng có. Cuộc đấu tranh của gần 4.000 công nhân Nhà máy sợi trong 21 ngày gian khổ chính thức mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931 của toàn tỉnh và cũng góp phần vào cao trào cách mạng toàn quốc do Đảng lãnh đạo. Từ ngày 25-7 đến 25-9-1930, liên tiếp nổ ra sáu cuộc bãi công, biểu tình của công nhân xưởng dệt Nhà máy sợi và Nhà máy tơ. Các hoạt động khác như cuộc mít tinh ngày 22-10-1930, kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vào tối 6-11 và ngày 7-11-1930 diến ra khắp nơi. Tháng 2-1931, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thôn bộ, sau đó cùng với tờ báo Tiền phong, Tỉnh ủy còn xuất bản thêm tờ Nông dân (sau đổi là Hưởng ứng) để tuyên truyền đường lối cách mạng cho đảng viên và quần chúng nông thôn.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã ghi lại một trang sử vẻ vang trong lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân Nam Định.
Nam Định trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương 1936-1939.
Mùa hè năm 1936, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ nhất, quyết định tạm gác khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày”, lập Mặt trận nhân dân phản đế (sau đổi là Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Từ ngày 31-10-1935 đến ngày 6-10-1937 tại Nam Định đã nổ ra 33 cuộc đấu tranh – một kỷ lục về các cuộc đấu tranh từ trước tới giờ. Nổi bật là cuộc đấu tranh có quy mô lớn chưa từng thấy của 8.000 công nhân Nhà máy sợi kéo dài hơn một tháng từ 2-2-1937 đến 3-3-1937.
Tháng 5-1937, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập lại do Đặng Hữu Rạng làm bí thư, sau đó Trần Hoạt được cử làm bí thư. Lúc này ngoài các đại lý sách báo cánh tả của Đảng tuyên truyền các sách báo cách mạng và tiến bộ, nhiều sách báo từ Hà Nội chuyển về cũng được phân phát khắp nơi như: Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp), Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡi của Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ)… Tháng 3-1938, Tỉnh ủy tổ chức một cuộc mít tinh với hơn 4.000 người tham gia, lấy danh nghĩa là đưa tiễn Công sứ Alơmăng, nhưng thực chất là cuộc biểu dương lực lượng đòi tự do lập nghiệp đoàn, tự do hội họp, đòi tăng lương… ngay tại sân ga Nam Định.
NAM ĐỊNH TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1939-1945)
Chống khủng bố, khôi phục phong trào.
Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Không chỉ Pháp mà xứ Đông Dương thuộc Pháp cũng bị lôi kéo vào chiến tranh. Cùng với việc vơ vét, lùng bắt trai tráng thanh niên vào lính phục vụ chiến tranh, thực dân Pháp thẳng tay triệt phá phong trào cách mạng, tiến công vào Đảng Cộng sản.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ sáu (11-1939) về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, Tỉnh ủy Nam Định đã quyết định ba nhiệm vụ trước mắt là: Củng cố các cơ sở đảng, tiếp tục duy trì phát triển các tổ chức quần chúng; tuyên truyền, giáo dục nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ nâng cao tinh thần quyết tâm chống đế quốc, giải phóng dân tộc; lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi thiết thực.
Đầu năm 1940, Đảng bộ đã thành lập Đoàn thanh niên phản đế gồm 15 người chọn từ Đoàn Thanh niên dân chủ chuyển sang. Đảng bộ đã tổ chức các hoạt động phù hợp như treo cờ Đảng, phát tán truyền đơn ở những nơi quan trọng, kêu gọi đấu tranh chống tăng giờ làm, chống bắt phu, bắt lính, sung công tài sản,…
Cuối tháng 9-1940, quân Nhật tiến vào chiếm đóng Đông Dương, toàn dân tộc ta lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”. Trong bối cảnh đó, tiếng súng khởi nghĩa ở Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), Nam Kỳ, Đô Lương đã thôi thúc mạnh mẽ tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Cờ Đảng lại tung bay trên cây gạo ở Trình Xuyên (Vụ Bản). Đội tự vệ ở Hà Cát được thành lập.
Đầu tháng 5-1941, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ tám họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị tiếp tục hoàn thiện việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Đảng trong tình hình mới, quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), xây dựng lực lượng cách mạng cả về chính trị và quân sự, cả ở miền núi, nông thôn và thành thị, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Cao trào kháng Nhật, cứu nước (tháng 3-1945 đến tháng 8-1945).
Ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính quân sự, lật đổ chính quyền thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Cùng với chính sách quân sự phát xít, chính sách vơ vét cạn kiệt lương thực, thực phẩm của Nhật đã khiến cho 212.218 nguời dân Nam Định chết thê thảm trong nạn đói đầu năm 1945.
Mặc dù phát xít Nhật dùng mọi thủ đoạn để khống chế phong trào cách mạng, nhưng ở nhiều nơi quần chúng đã phẫn uất tiến hành phá tài sản của Nhật, tự vệ thành phố đốt kho xăng dầu ở bến đò Chè (Thành phố Nam Định), đốt kho đay ở làng Gạo (Vụ Bản)…
Sau Hội nghị Ban Cán sự tại Quần Liêu nghiên cứu Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, phong trào cách mạng tại Nam Định lại được tăng cường lực lượng, cao trào cách mạng ngày càng dâng cao. Đặc biệt, đội tuyên truyền xung phong của Tỉnh hoạt động rất tích cực, có bắn súng, đốt pháo, diễn thuyết và phát truyền đơn liên tiếp, khắp nơi.
Khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong khoảng thời gian rất ngắn (từ ngày 9-3-1945 đến tháng 8-1945), Đảng bộ Nam Định đã gấp rút xây dựng lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa. Ngày 14-8-1945, Nhật Hoàng phải tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo điều kiện khách quan hết sức thuận lợi cho cách mạng Việt Nam bùng nổ.
Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng đã phát bản Quân lệnh số 1, hiệu triệu toàn dân vùng lên giành chính quyền.
Từ ngày 17-8 đến ngày 22-8, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và mặt trận Việt Minh, nhân dân ở các địa phương đã nhất tề nổi dậy đập tan bộ máy thống trị của đế quốc, phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Ngày 17-8, khởi nghĩa thành công ở huyện Trực Ninh.
Ngày 18-8, khởi nghĩa thành công ở huyện Nam Trực.
Chiều tối ngày 18-8, Đội Danh dự đã phát báo, dùng loa phóng thanh tuyên truyền khởi nghĩa ở Chợ Rồng, hàng ngàn người kéo tới dự tạo thành cuộc mít tinh lớn.
Trước khí thế mãnh liệt của quần chúng, ngày 19-8, chính quyền bù nhìn và phát xít Nhật đã phải trả thả hầu hết các chính trị phạm bị giam giữ.
Trong đêm 20 và sáng ngày 21-8, truyền đơn kêu gọi nhân dân mít tinh được rải khắp nơi. Chiều hôm đó, cả thành phố là một rừng cờ đỏ sao vàng. Đến 3 giờ chiều, cuộc mít tinh khai mạc. Gần ba vạn quần chúng hân hoan hưởng những giờ phút độc lập đầu tiên trong đời. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định được thành lập gồm bảy người do Đặng Châu Tuệ làm chủ tịch. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Nam Định do Nguyễn Văn Hoan làm chủ tịch ra mắt nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định diễn ra nhanh gọn. Chỉ trong vòng sáu ngày (từ 17-8 đến 22-8), toàn bộ chính quyền địch từ tỉnh đến huyện đã sụp đổ hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân. Với cuộc cách mạng Tháng Tám, lịch sử Nam Định cùng cả nước bước sang một trang mới.
Cập nhật thông tin chi tiết về Vai Trò Của Nguyễn Ái Quốc Tại Hội Nghị Hợp Nhất Các Tổ Chức Cộng Sản Ở Việt Nam trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!