Xuất Kho Theo Phương Pháp Nhập Trước Xuất Trước / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Tính Giá Xuất Kho Phương Pháp Nhập Trước, Xuất Trước (Fifo)

Theo phương pháp này, giả thiết rằng số nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm, hàng hóa nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng lô hàng xuất. Do đó nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm, hàng hóa tồn kho cuối kỳ được tính theo đơn giá của những lần nhập kho cuối cùng.

Ví dụ: Tại công ty cổ phần Thép Thanh Bình trong tháng 7/2017 có số liệu như sau:

– Ngày 15/7/15 xuất bán 150 tấn thép 1,5 ly; 130 tấn thép 2,3ly.

Ngày 12/7/17

– Trị giá xuất bán 120 tấn thép 1,5 ly được xác định như sau: (100 tấn x 11 trđ ) + (20 tấn x 12 trđ) = 1.340 trđ.

– Trị giá xuất bán 40 tấn thép 2,3 ly được xác định như sau: 40 tấn x 10 trđ = 400 trđ.

Ngày 15/7/15

– Trị giá xuất bán 100 tấn thép 1,5 ly được xác định như sau: (30 tấn x 12 trđ) + (70 tấn x 13 trđ) = 1.270 trđ.

– Trị giá xuất bán 130 tấn thép 2,3 ly được xác định như sau: (10 tấn x 10 trđ) + (100 tấn x 11 trđ) + (20 tấn x 12 trđ) = 1.440 trđ.

2. Ưu điểm phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)

Tính giá xuất kho theo phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO) có ưu điểm là giúp cho chúng ta có thể tính được ngay trị giá vốn hàng xuất kho từng lần xuất hàng, do vậy đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời cho kế toán ghi chép các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý. Trị giá vốn của hàng tồn kho sẽ tương đối sát với giá thị trường của mặt hàng đó. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn.

3. Nhược điểm phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)

Tính giá xuất kho theo phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO) có nhược điểm là làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. Theo phương pháp này, doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã có được từ cách đó rất lâu. Đồng thời nếu số lượng chủng loại mặt hàng nhiều, phát sinh nhập xuất liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng công việc sẽ tăng lên rất nhiều.

Phương Pháp Nhập Trước Xuất Trước (Fifo

Phương pháp nhập trước xuất trước tuân thủ theo nguyên tắc hàng hóa mua trước sẽ được xuất trước để sử dụng và tính theo giá thực tế của lô hàng cũ trước.

1. Nội dung của phương pháp

Đặc điểm của phương pháp này là hàng xuất ra được tính theo giá của lô hàng đầu tiên trong kho tương ứng với số lượng của nó, nếu không đủ thì lấy giá tiếp theo, theo thứ tự từ trước đến sau.

Theo phương pháp này, giá trị của hàng tồn kho chính là giá trị của lô hàng cuối cùng nhập vào kho.

Ví dụ: Tại một doanh nghiệp trong tháng 3 năm N có tình hình vật tư như sau:

– Vật tư tồn đầu tháng: 4.000 kg, đơn giá 30.000 đồng/kg

– Tình hình nhập xuất trong tháng:

Ngày 03: nhập kho 4.000 kg, đơn giá nhập 30.500 đồng/kg

Ngày 08: xuất sử dụng 5.000 kg

Ngày 15: nhập kho 4.000 kg, đơn giá nhập 30.800 đồng/kg

Ngày 20: nhập 2.000 kg, đơn giá nhập 31.000 đồng/kg

Ngày 21: xuất sử dụng 5.500 kg.

Phương pháp nhập trước xuất trước sử dụng thường được doanh nghiệp áp dụng cho nguyên vật liệu, cung cụ dụng cụ, hàng hóa, thành phẩm ở trong bất kể một loại hình doanh nghiệp nàoCách tính giá xuất kho theo phương pháp nhập trước xuất trước theo phương pháp như sau:Qua ví dụ sau:Tồn kho 3000 kg giá 20.000Trong tháng phát sinh

Yêu cầu: Tính giá xuất kho theo phương pháp nhập trước xuất trước

Công thức tính giá xuất kho theo phương pháp FIFONguyên vật liệu chính xuất kho:

Ngày 3/3: 200*20.000 = 4.000.000 (Lấy đơn giá tồn kho nhân với số lượng xuất kho)

Ngày 5/3: Đến thời điểm này trong kho còn 500 kg gồm 100kg tồn kho với đơn giá 20.000 và 400 kg với đơn giá 19.000 mới nhập vào ngày 5/3

Ngày 7/3: 100*20.000 + 200*19.000 = 5.800.000(Hiện tại đầu kỳ đã được xuất hết hiện giờ còn 200 kg ở lần nhập kho ngày 5/3)

Ngày 9/3: 100*19.000 = 1.900.000

Ngày 19/3: Đến thời điểm này trong kho có 600 kg gồm 100kg với đơn giá 19.000 và 500 kg với đơn giá 20.000 vừa mới nhập)

Ngày 20/3: 100*19.000 + 300*20.000 = 7.900.000(Sau khi xuất trong kho còn lại 200 kg với đơn giá 20.000)

Ngày 27/3: 200*20.000 + 100*21.000 = 6.100.000

Ngày 29/3: 200*21.000 + 300*19.000 = 9.900.000

Tồn cuối kỳ: 100*19.000 = 1.900.000

– Doanh nghiệp ước tính được ngay trị giá vốn hàng hóa xuất kho trong từng lần; Học kế toán doanh nghiệp ở đâu – Đảm bảo kịp thời cung cấp số liệu cho kế toán chuyển số liệu thực tế cho các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý. – Giá trị hàng tồn kho tương đối sát với giá thị trường khi giá cả hàng hóa không đổi hoặc có xu hướng giảm dần giúp cho chỉ tiêu hàng tồn kho trên các báo cáo tài chính mang ý nghĩa thực tế hơn.

– Theo phương pháp này doanh thu hiện tại có được tạo ra bởi những giá trị đã có được từ cách đó rất lâu làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. – Trong trường hợp doanh nghiệp lớn với số lượng, chủng loại mặt hàng nhiều, nhập xuất phát sinh liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng hạch toán, ghi chép sẽ tăng lên rất nhiều.

– Các doanh nghiệp sẽ áp dụng phương pháp này trong trường hợp giá cả hàng hóa có tính ổn định hoặc giá cả hàng hóa đang trong thời kỳ có xu hướng giảm. – Thường là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có hạn sử dụng nhỏ mà thiết yếu như: thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm,…

Chuyên đào tạo các khóa học kế toán tổng hợp và làm dịch vụ kế toán thuế trọn gói tốt nhất thị trường

(Được giảng dạy và thực hiện bởi 100% các kế toán trưởng từ 13 năm đến 20 năm kinh nghiệm)

Trung tâm Lê Ánh hiện có đào tạo các khoá học kế toán và khoá học xuất nhập khẩu cho người mới bắt đầu và khoá học chuyên sâu, để biết thông tin chi tiết, bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi theo số hotline: 0904.84.88.55 để được tư vấn trực tiếp về các khoá học này.

Phương Pháp Nhập Trước, Xuất Trước (First In, First Out

Phương pháp Nhập trước xuất trước

Khái niệm

Phương pháp Nhập trước xuất trước trong tiếng Anh là First In, First Out, viết tắt là FIFO.

Nhập trước xuất trước (FIFO) là một phương pháp quản lí và định giá tài sản, trong đó tài sản được sản xuất hoặc mua trước sẽ được bán, sử dụng hoặc xử lí trước.

Đặc điểm của Phương pháp Nhập trước, xuất trước (FIFO)

Phương pháp FIFO được sử dụng trong giả thuyết về dòng luân chuyển hàng tồn kho để tính giá.

Ví dụ về Phương pháp nhập trước, xuất trước FIFO

Hàng tồn kho được cho là chi phí khi các mặt hàng chuẩn bị được bán. Điều này có thể tính là mua hàng tồn kho hoặc chi phí sản xuất, thông qua việc mua nguyên liệu và sử dụng lao động.

Các chi phí được chỉ định này dựa trên thứ tự sử dụng sản phẩm và đối với phương pháp FIFO là dựa trên những sản phẩm đã nhập kho trước.

Ví dụ nếu 100 mặt hàng được mua với giá $10 và 100 mặt hàng khác được mua tiếp theo với giá $15 , thì FIFO sẽ chỉ định chi phí cho mặt hàng đầu tiên được bán lại là mặt hàng có giá $10. Sau khi 100 mặt hàng được bán, chi phí mới sẽ trở thành mặt hàng có giá $15, dù có mua hàng tồn kho bổ sung nào thêm.

Phương pháp FIFO tuân theo logic rằng, để tránh lỗi thời, một công ty sẽ bán các mặt hàng tồn kho ở trong kho lâu nhất trước tiên và duy trì các mặt hàng mới nhất trong kho.

Mặc dù phương pháp định giá hàng tồn kho thực tế được sử dụng không cần phải theo luồng hàng tồn kho thực tế, nhưng công ty phải có khả năng cho biết lí do tại sao công ty chọn sử dụng phương pháp định giá hàng tồn kho đó.

Các lưu ý đối với Phương pháp nhập trước, xuất trước FIFO

Chi phí thấp hơn này dẫn đến thu nhập ròng cao hơn. Ngoài ra, vì hàng tồn kho mới nhập gần đây được mua với giá thường cao hơn, nên số dư hàng tồn kho cuối kì bị thổi phồng.

Phương pháp FIFO so với các phương pháp định giá khác

Phương pháp LIFO

Phương pháp định giá hàng tồn kho ngược lại với FIFO là LIFO, trong đó mặt hàng cuối cùng được mua hay nhập kho là mặt hàng đầu tiên được xuất kho trước. Trong các nền kinh tế lạm phát, điều này dẫn đến chi phí thu nhập ròng giảm phát và số dư cuối kì hàng tồn kho thấp hơn khi so sánh với phương pháp FIFO.

Phương pháp chi phí bình quân gia quyền

Phương pháp chi phí bình quân gia quyền chỉ định cùng một chi phí cho từng mục. Phương pháp chi phí bình quân gia quyền được tính bằng cách chia giá vốn hàng tồn kho cho tổng số mặt hàng có sẵn để bán. Điều này dẫn đến thu nhập ròng và số dư hàng tồn kho cuối kì nằm giữa khoảng FIFO và LIFO.

Phương pháp theo dõi hàng tồn kho cụ thể

Cuối cùng, phương pháp theo dõi hàng tồn kho cụ thể được sử dụng khi tất cả các thành phần qui cho một thành phẩm đã biết. Nếu tất cả các phần không được biết đến, việc sử dụng bất kì phương pháp nào trong số FIFO, LIFO hoặc chi phí trung bình đều phù hợp.

(Theo Investopedia)

Minh Hằng

Thắc Mắc Về Phương Pháp Nhập Sau, Xuất Trước (Lifo)?

Ðề: Thắc mắc về phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)

Theo các tính toán thì phương pháp LIFO cho lãi ít nhất. Điều này cũng dẫn đến tiền thuế phải nộp Nhà nước là ít nhất. Do đó, quĩ tiền mặt của doanh nghiệp sẽ cao nhất. Vì vậy, nếu doanh nghiệp đang thiếu tiền thì nên chọn phương pháp LIFO.

Trên lý thuyết là vậy nhưng thực tế lại khác

FIFO phản ánh chính xác hơn về tình hình tài sản

LIFO phản ánh chính xác hơn về tình hình kinh doanh

Ưu và nhược của các phương pháp hạch toán hàng tồn kho

* Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)

Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.

Phương pháp này giúp cho chúng ta có thể tính được ngay trị giá vốn hàng xuất kho từng lần xuất hàng, do vậy đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời cho kế toán ghi chép các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý. Trị giá vốn của hàng tồn kho sẽ tương đối sát với giá thị trường của mặt hàng đó. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn.

Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. Theo phương pháp này, doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã có được từ cách đó rất lâu. Đồng thời nếu số lượng chủng loại mặt hàng nhiều, phát sinh nhập xuất liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng công việc sẽ tăng lên rất nhiều.

*Phương pháp nhập sau – xuất trước(LIFO)

Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ.

Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất sẽ tương đối sát với trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện phương pháp này sẽ đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn của hàng tồn kho cuối kỳ có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.

*Phương pháp giá hạch toán.

Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại hàng, giá cả thường xuyên biến động, nghiệp vụ nhập xuất hàng diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp, tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch toán hàng ngày nên sử dụng giá hạch toán.

Giá hạch toán là loại giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài để hạch toán nhập, xuất, tồn kho hàng trong khi chưa tính được giá thực tế của nó. Doanh nghiệp có thể sử dụng giá kế hoạch hoặc giá mua hàng hoá ở một thời điểm nào đó hay giá hàng bình quân tháng trước để làm giá hạch toán. Sử dụng giá hạch toán để giảm bớt khối lượng cho công tác kế toán nhập xuất hàng hàng ngày nhưng cuối tháng phải tính chuyển giá hạch toán của hàng xuất, tồn kho theo giá thực tế. Việc tính chuyển dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán.

Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp về hàng trong công tác tính giá, nên công việc tính giá được tiến hành nhanh chóng do chỉ phải theo dõi biến động của hàng với cùng một mức giá và đến cuối kỳ mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng , số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.

Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng và đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của hàng nhập kho luôn biến động phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, các chính sách điều tiết vi mô và vĩ mô, cho nên việc sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ kế toán là không còn phù hợp nữa.

* Phương pháp giá thực tế đích danh.

Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.

Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì không thể áp dụng được phương pháp này.

*Phương pháp giá bình quân:

Theo phương pháp này giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Phương pháp bình quân có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.

* Tóm lại: Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính. Phương pháp FIFO cho kết quả số liệu trong bảng cân đối kế toán là sát nhất với giá phí hiện tại so với các phương pháp tính giá hàng tồn kho khác vì giá của các lần mua sau cũng được phản ánh trong giá hàng tồn kho cuối kỳ còn trị giá vốn hàng xuất là giá cũ từ trước, phương pháp FIFO giả sử rằng giá của hàng tồn kho đầu kỳ theo giá nhập trước và giá các lần nhập trước trở thành trị giá vốn hàng xuất (hoặc thành chi phí). Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình quân, còn khi giá cả giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp tính giá. Phương pháp FIFO là một phương pháp tính giá theo hướng bảng cân đối kế toán, vì nó đưa ra sự dự đoán chính xác nhất giá trị hiện tại của hàng tồn kho trong những kỳ giá cả thay đổi. Trong những kỳ giá tăng lên, phương pháp FIFO sẽ cho kết quả thuế cao hơn bất kỳ phương pháp nào trong khi những kỳ giá cả giảm sút thì FIFO giúp cho doanh nghiệp giảm đi gánh nặng thuế. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương pháp này không phải là đối tượng cho những qui định và những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như phương pháp LIFO phải gánh chịu.

Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên, phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá phí hiện tại. LIFO thường cho kết quả lợi nhuận thấp nhất trong trường hợp giá cả tăng vì giá vốn trong phương pháp này là cao nhất và cho lợi nhuận cao nhất khi giá cả giảm (vì giá vốn là thấp nhất). Phương pháp LIFO thường dẫn đến sự giao động thấp nhất về lợi nhuận báo cáo ở những nơi mà giá bán có xu hướng thay đổi cùng với giá hiện tại của các mặt hàng tồn kho thay đổi.

Phương pháp LIFO tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới báo cáo tài chính do phương pháp này thường phản ánh số liệu giá vốn hàng bán theo giá phí hiện hành, phương pháp này cũng có nhiều thuận lợi thiết thực về thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp sử dụng phương pháp LIFO trong việc tính toán thuế thu nhập doanh nghiệp thì phương pháp này cũng phải được sử dụng trong các báo cáo tài chính cho các cổ đông.

Phương pháp bình quân trong tính giá hàng tồn kho là phương pháp tạo ra sự quân bình ở giữa hai phương pháp LIFO và FIFO trong việc ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Phương pháp này không đưa ra một dự kiến về thông tin giá phí hiện thời trên cả báo cáo tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh, nó cũng không giúp việc giảm thiểu gánh nặng thuế cũng như không phát sinh những kết quả nặng nề nhất khi có những thay đổi khác nhau.