Vì Sao Xuân Diệu / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Bài Thơ “Vì Sao” Xuân Diệu

– Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên, Tôi đã đày thân giữa xứ phiền, Không thể vô tình qua trước cửa, Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên? –

Ai đem phân chất một mùi hương

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…

Cô hãy là nơi mấy khóm dừa Dầm chân trong nước, đứng say sưa, Để tôi là kẻ qua sa mạc Tạm lánh hè gay; – thế cũng vừa.

Nguồn: “Vì sao” Xuân Diệu- Tuyển tập Tự lực văn đoàn (tập III), NXB Hội nhà văn, 2004

Nhà thơ Xuân Diệu đã có một định nghĩa rất thú vị và độc đáo về thơ và tình yêu: “Tình yêu và thơ là hai phạm trù mà trong đó cái tuyệt vời thông minh kết hợp với cái tuyệt diệu ngây thơ, là hương đặc biệt của một số tâm hồn thi sĩ và tình nhân” (1). Trong sự nghiệp cầm bút của mình, với hơn 450 bài thơ tình để lại, Xuân Diệu đã minh chứng một điều: Tình yêu không thể thiếu thơ và thơ không thể thiếu tình yêu. Với Xuân Diệu, tình yêu được coi như một giá trị sống đích thực, tình yêu đáng được tôn thờ như một thứ “tôn giáo” và thi sĩ đã tin vào tình yêu với một niềm tin thiêng liêng nhất… ” Thiêng liêng quá những chiều không dám nói…Ôi vô cùng trong một phút nhìn nhau” (Xuân đầu). Chính niềm tin vào tình yêu với tất cả sự “ngoan đạo” của một “con chiên” có trái tim yêu đến cuồng si, nồng nàn là cội nguồn khiến thơ tình Xuân Diệu mang đậm sắc màu triết lý đặc biệt: Triết lý yêu. Và Triết lý yêu là một trong những giá trị nhân văn độc đáo, sâu sắc nhất của thơ tình Xuân Diệu.

Xưa nay tình yêu nam nữ vốn luôn hiện hữu với rất nhiều cung bậc : Lãng mạn, mơ mộng, thiêng liêng, cao thượng, phàm tục, nhục thể, bi đát, đắm đuối, si mê, lỗi lầm… như một nhận thức tất yếu về đời sống, thơ Xuân Diệu cũng cắt nghĩa về tình yêu trên nhiều phương diện. Trước hết, đối với thi sĩ yêu là nguồn sống: Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ, không thương một kẻ nào? ( Bài ca tuổi nhỏ) .

Quả thật, cuộc sống đúng như thi sĩ quan niệm: ” Đời không ân ái đời vô vị/ Kiếp sống không yêu kiếp sống thừa “. Cuộc sống thiếu tình yêu không phải là sống mà chỉ là sự tồn tại đơn điệu, vô nghĩa, nhạt nhẽo. Không thể sống thiếu tình yêu vì con người sinh ra vốn là để sống và yêu nói như Gớt: “chúng ta sinh ra trong tình yêu, lớn lên trong tình yêu và chết đi trong tình yêu”.Tình yêu cho con người được trải nghiệm những cảm xúc Người nhất: buồn, vui, thương, nhớ, đau khổ và hạnh phúc… Cuộc sống thiếu tình yêu như mặt trời không có nắng, tình yêu tiếp thêm sinh lực cho con người, tình yêu là nơi vực dậy tinh thần cho con người trên hành trình cuộc sống đầy thử thách. Trong cái nhìn của người đang yêu vạn vật ánh lên những sắc màu tươi vui, ánh sáng tràn ngập khắp cõi thế gian… Tình yêu khiến con người trở nên cao thượng và nhân hậu, bao dung hơn. “Được yêu, một sự kiện quan trọng biết bao! Yêu, càng trọng đại hơn nữa! Vì yêu, trái tim trở nên can đảm. Nó chỉ còn toàn những gì thuần khiết, chỉ dựa vào những gì cao thượng và lớn lao” (Victor Hugo).

Hơn ai hết Xuân Diệu thấu hiểu sâu sắc tình yêu cần thiết cho cuộc sống con người đến nhường nào, con người chỉ có thể sống có ý nghĩa trong sự gắn bó với tình yêu. Và có lẽ thế nên suốt cuộc đời mình, thi sĩ đã luôn trong tâm thế đi tìm những cung bậc cảm xúc tình yêu, và thơ là nơi ông gửi gắm bao cung bậc của con tim luôn tha thiết yêu đương đến si mê, cuồng nhiệt. Con người ấy đã nhận kiếp trước ông đã yêu và kiếp này vẫn tiếp tục yêu, ngọn lửa tình yêu dường như bất tận trong ông: Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi/ Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa luân hồi/ Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi/ Không xương xóc chỉ huyền hồ bóng dáng. ( Đa tình)

Những người đã yêu, đang yêu và sẽ yêu mãi mãi không bao giờ trả lời được trọn vẹn câu hỏi: tình yêu bắt đầu từ đâu? Và Xuân Diệu cũng vậy, với một khát vọng truy tìm câu trả lời cho câu hỏi muôn thuở của nhân loại: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu? Thi sĩ đã đưa ra cách lý giải tưởng như rất vu vơ, hồn nhiên ngây thơ nhưng lại đúng với quy luật tình cảm, tâm lý của con người: Có khó gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu (Vì sao)…Yêu giản dị chỉ là như vậy, yêu như hít thở khí trời để sống, có duyên thì tình yêu tự đến, tình yêu nằm ngoài những toan tính, sắp đặt… đối với Xuân Diệu khởi đầu cho một tình yêu đích thực là tiếng tơ lòng rung động chân thành, đánh thức miền yêu nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn con người. Trong thơ của ông người đọc có thể thấy rõ sự phát hiện tinh tế diễn biến tâm lý của tâm hồn mới chớm yêu thương, và ông cho rằng khi yêu tâm hồn trở nên dễ xúc động, tinh tế, lãng mạn đến vô cùng: Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng/ Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang/ Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá/ Và làm sai nhỡ nhịp trăng đang.( Trăng) Khí trời quanh tôi làm bằng tơ/ Khí trời quanh tôi làm bằng thơ ( Nhị hồ)

Vì quan niệm yêu là nguồn sống nên hầu hết các bài thơ tình của Xuân Diệu như Hôn cái nhìn, Biển, Bóng đêm biếc, Bài thơ tuổi nhỏ, Vì sao, Yêu… đều cho thấy những cảm xúc trong ông luôn được đẩy đến tận cùng. Thi sĩ yêu cuộc sống đến cuống quýt ” muốn ôm, muốn riết, muốn say…” (Vội vàng), và bởi thế nên ông như đắm chìm trong cõi yêu đương nồng nàn, cháy bỏng. Chính thi sĩ đã thừa nhận: Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì (Vì sao?). Ở đây, có thể coi sự ” khờ khạo, ngu ngơ” của thi sĩ như một giá trị, một lối ứng xử văn hóa trong tình yêu. Nó chính là biểu hiện của những gì thanh khiết, chân thành, trong sáng, vô tư, phi vụ lợi của tình yêu đích thực. Sự thừa nhận ” chỉ biết yêu thôi” đồng thời cũng cho chúng ta thấy một minh triết yêu trong thơ tình Xuân Diệu: Yêu chính là phải biết sống hết mình cho người mình yêu, yêu là sự dấn thân và tận hiến vì nhau và cho nhau.

Quan niệm “tận hiến” trong tình yêu được thể hiện trong thơ Xuân Diệu rất rõ ràng, không chung chung, trừu tượng. Đó là sự tận hiến cả về tinh thần và thể xác. Khát vọng hướng tới hòa hợp về tinh thần của những trái tim yêu được thể hiện qua rất nhiều bài thơ “để đời” của Xuân Diệu: Xa cách, Thân em, Biển, Bài thơ tuổi nhỏ, Cảm xúc, Thanh niên, Vô biên, Dâng, Phải nói …

Trong thi ca nhân loại đã có rất nhiều thi sĩ thừa nhận quy luật tình yêu như một chân lý bất biến: Yêu là khát khao mong muốn phát hiện vẻ đẹp trong sáng tiềm ẩn trong tâm hồn người mình yêu. Dường như những trái tim đang yêu không bao giờ thỏa mãn khát vọng kiếm tìm những “hạt ngọc” ẩn giấu trong tâm hồn người yêu và luôn muốn đi đến tận cùng sự khám phá, thấu hiểu những điều bí ẩn trong tâm hồn người yêu. Tâm hồn mỗi người luôn là thế giới đầy bí ẩn, là niềm say mê, cuốn hút khám phá đến vô cùng. Nhà thơ Ấn Độ R.Tagor từng viết:

Đôi mắt băn khoăn của em buồnĐôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh Như trăng kia muốn vào sâu biển cả…( Thơ tình số 28)

Xuân Diệu cũng cho chúng ta thấy một khát vọng về yêu như vậy:

Anh thèm muốn vô biên và tuyệt đích/ Em biết không? Anh tìm kiếm em hoài…Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ/ Phải nói yêu, trăm bận đến ngàn lần ( Phải nói );

Em là em, anh vẫn cứ là anh/ Có thể nào qua Vạn lí trường thành/ Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật (…) Ôi mắt người yêu, ôi vực thẳm!/ Ôi trời xa vừng trán của người yêu/ Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều (Xa cách).

Gần gũi là thế mà sao vẫn cách xa là vậy…cho nên suốt một đời những trái tim biết yêu luôn luôn trong tâm thế hành trình kiếm tìm những giá trị chân thực của tình yêu, và càng kiếm tìm càng như chẳng hiểu gì về thế giới tâm hồn con người vốn vô cùng phong phú và phức tạp, quả đúng là “cuộc đời anh ở bên em như chính đời em vậy/ nhưng chẳng bao giờ em hiểu được nó đâu” (R.Tagor).

Đọc Xuân Diệu chúng ta thấy Nhà thơ thật tinh tế khi phát hiện quy luật chi phối thế giới tinh thần vô cùng phong phú, phức tạp của con người: Yêu là hạnh phúc vô biên và yêu cũng là đau khổ tột cùng. Trong sự luận giải của thi sĩ, yêu là hạnh phúc bởi tình yêu mang lại cho con người cảm xúc khác lạ, vừa dịu dàng, êm ái như sống trong cõi thần tiên: Lòng anh rạo rực không duyên cớ/ Khi nắng chiều tơ giỡn với cành(Có những bài thơ), Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc/ Như thuyền ngư phủ lạc trong sương ( Vì sao?), Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ/ Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ (Trăng); Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên… con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở chiều/ Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn/ Lần đầu rung động nỗi thương yêu (Thơ duyên)… vừa mạnh mẽ, xôn xao, dữ dội: Giơ tay muôn ôm cả Trái đất/ Ghì trước trái tim, ghì trước ngực…Hãy đốt đời ta trăm thứ lửa/ Cho bừng tia mắt đọ tia sao (Bài ca tuổi nhỏ) và trên hết là hạnh phúc được là chính mình để ” hồn giăng rộng khắp không gian” được ” ngơ ngẩn“, ” nhung nhớ“, ” bâng khuâng” (Dâng), được ” bỡ ngỡ“, ” xôn xao“, ” rợn rợn“, ” hồi hộp “…(Xuân không mùa).

Yêu cũng là lĩnh vực tình cảm nhiều khi khiến con người đau khổ tột cùng bởi không phải lúc nào mọi sự cũng đều chiều theo ý muốn của con người. Khát vọng tình yêu là vô biên, tuyệt đích, nhưng hành trình hướng đến khát vọng ấy lại luôn gặp phải rất nhiều giới hạn, rào cản. Xuân Diệu thấu hiểu quy luật vận hành tự nhiên bất khả kháng ” Sông trôi núi lở âm thầm/ Đường đi vũ trụ có cầm được đâu?” cho nên trong thơ của mình Xuân Diệu đã tìm cách cắt nghĩa rất riêng, rất sâu sắc về nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ của yêu: Yêu là chết ở trong lòng một ít/ Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu/ Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết (…). Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt/ Những người si theo dõi dấu chân yêu/ Và cảnh đời là sa mạc vô liêu/ Và ái tình là sợi dây vấn vít/ Yêu, là chết ở trong lòng một ít ( Yêu). Người ta khổ vì thương không phải cách/ yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người/ người ta khổ vì xin không phải chỗ…(Dại khờ), Bao nhiêu sầu, ôi sầu biết bao nhiêu/ Khi yêu tình, khi theo mãi tình yêu (Yêu mến). Tôi là một kẻ điên cuồng/ Yêu những ái tình ngây dại/ Tôi cứ bắt lòng tôi đau đớn mãi/ Đau vô duyên, đau không để làm gì. (Thở than). Suốt đời nuốt lệ vào trong ngực/ Đem ái tình dâng kẻ phụ ta (Muộn màng). Tôi một mình đối diện với tình không/ Để lắng nghe tiếng khóc mất trong lòng (Dối trá)…Và trong việc luận giải nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ của yêu, Xuân Diệu cho rằng sự xa cách luôn là nguyên nhân thường trực nhất. Nó làm cho lòng người luôn trong trạng thái bất ổn. Xa cách giày vò những trái tim yêu, làm cho người đang yêu rơi vào cảm giác lo sợ bởi tình yêu vốn mong manh, dễ bất ngờ tan vỡ ” tình yêu đến, tình yêu đi ai biết” (Giục giã), và con người nhiều khi cũng rơi vào trạng thái không thể kiểm soát và không hiểu nổi chính bản thân mình: ” Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn/ Ai nói trước lòng anh không phản trắc/ Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ? ” (Giục giã) …bởi mọi cái “vô thường ” như thế nên xa cách làm cho nỗi nhớ thêm đầy và nhiều khi nỗi nhớ ấy quặn thắt con tim yêu đến đớn đau: Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em! Không gì buồn bằng những buổi chiều êm…Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ (Tương tư chiều)… Trong tình yêu, đau khổ cũng là một “thú đau thương”, cho nên Ler montov từng nói: “Anh chỉ mang đến cho em toàn là đau khổ…Có lẽ vì vậy mà em yêu Anh. Bởi vì niềm vui thì dễ quên, còn đau khổ thì không bao giờ”. Victor Hugo lại nói: “Ai khổ vì yêu hãy yêu hơn nữa, chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Còn với Xuân Diệu, biển yêu dẫu “đắng” nhưng con người chưa bao giờ “nguôi nỗi khát thèm”…thậm chí khát vọng ấy mãnh liệt ấy đến mức giục lòng người ” yêu khi đã hết tuổi rồi”, “khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma ” ( Đa tình)…và điều ấy phải chăng đồng nghĩa với thông điệp nhắn nhủ của thi sĩ tới bạn đọc muôn sau: cho dù hạnh phúc hay đau khổ con người vẫn luôn khát vọng yêu và được yêu, vẫn mơ ước về một tình yêu viên mãn, vĩnh hằng.Yêu là câu chuyện dài bất tận, không biên giới, bến bờ, yêu không bao giờ có tuổi… và chỉ có những trái tim biết yêu chân thành, biết trân trọng, nâng niu hạnh phúc và biết chấp nhận đau khổ mà tình yêu mang lại thì mới mong thấy được giá trị thật sự của tình yêu đối với đời sống của riêng mình.

Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là tình yêu của con người sống giữa đời thường chứ không phải tình yêu đạo đức trong sách vở của một “ông hoàng” nào đó. Đó là thứ tình yêu dám bộc lộ những khát vọng thành thực đến cháy lòng. Do đó triết lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu bên cạnh việc luận giải vấn đề yêu là hướng đến sự hòa hợp tâm hồn thì còn khẳng định một chân giá trị đầy tính nhân bản: yêu là khao khát được hòa hợp với thân xác người mình yêu. Nhiều bài thơ, câu thơ của Xuân Diệu đã bộc lộ khát vọng trên một cách say mê, đắm đuối:

Hãy sát đôi đầu ! Hãy kề đôi ngực ! Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài ! Những cánh tay ! hãy cuốn riết đôi vai ! Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt ! Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt (Xa cách). Chúng ta đau, thôi em tới đây mà ! Mơn man nào, em đừng khóc đôi ta/ Thế, riết thế, hãy vòng tay chặt nữa/ Cho em hút những chút hồn đã rữa/ Cho em chuyền hơi độc rất tê ngon (Sầu). Hãy tuôn âu yếm, lùa mơn trớn/ Sóng mắt, lời môi, nhiều – thật nhiều (Vô biên). Em phải nói, phải nói, và phải nói/ Bằng lời riêng nơi cuối mắt, đầu mày/ Bằng nét buồn bằng vẻ thẹn , chiều say/ Bằng đầu ngả, bằng miệng cười, tay riết ( Phải nói).

Và bởi coi sự hòa hợp với thân xác người yêu cũng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì tình yêu, duy trì sinh lực sống nên trong thơ tình Xuân Diệu người đọc thấy tràn ngập hình ảnh tôn vinh vẻ đẹp hình thể của con người: Đôi môi, đôi mắt ( Tương tư chiều), tóc liễu buông xanh ( Nụ cười xuân), miệng vàng, nhan sắc (Mời yêu), đường vai, nét tay ( Dấu nằm)…đối với thi sĩ vẻ đẹp hình thể của người yêu là “ngọc ngà tinh anh” do đất trời ban tặng. Và có lẽ vì thế cho nên chỉ đến Xuân Diệu trạng thái khát khao được hòa hợp cùng thân thể người yêu mới được diễn tả một cách đầy táo bạo. Thi sĩ đã không hề ngần ngại diễn tả những trạng thái yêu mạnh mẽ như muốn “ôm”, muốn “riết”, muốn “say”, muốn “cắn”, muốn “ngoàm”, muốn “hút”… tất cả đều gợi cảm giác nồng nàn, tha thiết, đê mê của tình yêu rất trần thế, rất con người: Nên lúc môi ta kề miệng thắm/ Trời ơi, ta muốn uống hồn em (Vô biên) Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi ( Vội vàng) Em vui đi răng nở ánh trăng rằm/ Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự (Giục giã) Nghiêng đầu bên trái hãy kề nghe / Những ngón tay thần sẽ vuốt ve/ Cho điệu lòng anh thêm ấm dịu; Sờ xem ngực nóng khúc đê mê(Có những bài thơ)… Vượt qua rào cản của những quan niệm ấu trĩ, lạc hậu về tình yêu nam nữ coi sự va chạm, tiếp xúc về thể xác là điều “xấu xa, hổ thẹn”, những cảm xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu rất chân thực, rất đời thường, gợi nhiều suy ngẫm về giá trị hiện hữu của con người. Có lẽ chính vì vậy nên đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất khiến thơ tình Xuân Diệu thấm nhuần triết lý nhân sinh sâu sắc và có sức sống bền lâu trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Trong Tình mai sau Xuân Diệu viết: Người thi sĩ đã vào làng mây khói/ Không ở đâu, và ở khắp mọi nơi/ Như tiếng vọng trong sương xa dắng dỏi/ Máu vu vơ theo giữa trái tim đời… Như vậy ngay từ lúc sinh thời Xuân Diệu đã ý thức sâu sắc về ý nghĩa tồn sinh và bất tử của người nghệ sĩ: điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi. Nhà thơ Xuân Diệu với trái tim yêu nồng nàn, si mê, tha thiết nhất trong các thi sĩ Việt Nam đã đi vào “làng mây khói” vĩnh hằng. Nhưng những câu thơ mang đậm triết lý yêu của ông còn lưu lại “giữa trái tim đời” mãi mãi bởi: “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng” (Bêlinxki). Triết lý yêutrong thơ tình Xuân Diệu thể hiện một tầm tư tưởng lớn, nó khác lạ và vượt lên những lối nghĩ suy tầm thường tưởng “cao đạo” mà giả dối, thiếu thành thực mà người ta vẫn cứ “tụng ca” như những “giá trị đạo đức” nhưng đó là những thứ đạo đức hoàn toàn xa lạ với bản chất Người. Vì vậy, những bình diện của triết lý yêu trong thơ Xuân Diệu như đã trình bày ở trên, suy cho cùng đó chính là những tư tưởng mang tinh thần nhân bản, nhân văn sâu sắc nhất mà nhân loại luôn hướng đến. Và chính những bài thơ với triết lý yêu rất và rất (chứ không phải là những bài thơ tụng ca nào khác) trong sự nghiệp thơ đã làm cho thơ Xuân Diệu trở thành thơ của một đời chứ không phải thơ của một thời ngắn ngủi dễ quên… Triết lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu là một trong những giá trị quan trọng làm nên sự bất tử của thơ Xuân Diệu. Bạn đọc nhớ đến Xuân Diệu sau 100 năm hay 1000 năm hoặc lâu hơn nữa phải chăng, cũng bắt đầu từ những bài thơ tình thấm đẫm triết lý yêu mang vẻ đẹp nhân sinh cao cả và đầy khao khát trần thế – những bài thơ dạt dào, tha thiết, êm đềm và sâu lắng, ru lòng người mãi mãi khôn nguôi:

…Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ, thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn rồi, hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt… /Cũng có khi ào ạt/ Như nghiến nát bờ em/ Là lúc triều yêu mến / Ngập bến của ngày đêm… (Biển)

(1) Xuân Diệu, Tác phẩm văn chương và lao động nghệ thuật, (Lưu Khánh Thơ giới thiệu và tuyển chọn), Nxb. Giáo dục, H. 1999, tr.11

(2) Nguyễn Văn Trung, Ca tụng thân xác, Nxb. Văn nghệ, chúng tôi 2006, tr. 73,74

Nghi Án Giới Tính Của Ông Hoàng Thơ Tình Xuân Diệu

Trong quá trình tìm tư liệu cho loạt bài này, chúng tôi cũng được sự giúp đỡ nhiệt tình và sự đồng tình của những người bạn văn và đặc biệt là những người thân của nhà thơ Xuân Diệu như: Đạo diễn Bạch Diệp – người vợ duy nhất; Luật sư Cù Huy Hà Vũ – người thừa kế duy nhất của nhà thơ Xuân Diệu. Việc giải mã nghi án đồng tính của Xuân Diệu là để hiểu hơn về cuộc đời của một nhà thơ lớn, qua đó cảm nhận sâu hơn, hiểu đầy đủ hơn giá trị tài sản thi ca khổng lồ của “ông hoàng thơ tình Việt Nam”.

Lời thơ mê đắm tặng người… đồng giới

Phó Viện trưởng Viện Văn học Nguyễn Đăng Điệp đánh giá Thơ mới Việt Nam chỉ có “tứ bất tử” gồm Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, và Nguyễn Bính. Nhưng trong suốt một thế kỷ qua, dường như ngai vàng của “Vua thơ tình” vẫn chỉ có một mình Xuân Diệu ngự trị. Những áng thơ tình bất hủ, những câu chữ mê đắm như: Em bước điềm nhiên không vướng chân/ Anh đi lững thững chẳng theo gần/ Vô tâm – Nhưng giữa bài thơ dịu/ Anh với em như một cặp vần… Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy/ Lòng anh thôi đã cưới lòng em.

Không ít người mê thơ Xuân Diệu đều mơ tưởng về người phụ nữ được thi sĩ yêu tha thiết, đắm đuối đến như vậy, hẳn sẽ là người hạnh phúc nhất nhân gian này. Đó hẳn là một trang tuyệt sắc giai nhân hoặc là một người có tâm hồn lớn lao, có trái tim yêu cùng nhịp đập với thi sĩ, được thi sĩ nâng niu, mê mải vô vàn: Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ?/ Anh tham lam, anh đòi hỏi quá nhiều. Anh biết rồi, em đã nói em yêu/ Sao vẫn muốn nhắc một lời đã cũ?.

Nhưng rồi một loạt những bài thơ như Tình trai, Em đi… và cả những bài thơ tình đắm đuối khác tặng người đồng giới đã khiến văn đàn Việt Nam dấy lên dấu hỏi đầy nghi ngờ về giới tính của Xuân Diệu. Và đặc biệt là sau khi cuốn hồi ký Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài được xuất bản năm 1993, nghi án này lại thêm một lần nữa bùng nổ. Lúc ấy, những câu hỏi về cuộc đời riêng tư của “ông hoàng thơ tình” và khơi lại câu chuyện về người đàn bà duy nhất trong cuộc đời Xuân Diệu, đó là nữ đạo diễn nổi tiếng Bạch Diệp.

Những nghi ngờ về các mối “tình trai”, những mối quan hệ với người đồng giới của Xuân Diệu càng lớn hơn khi người ta biết rằng cuộc hôn nhân với người vợ duy nhất ấy chỉ kéo dài vẻn vẹn 6 tháng. Tuy nhiên, cho đến nay, thực sự chưa có một bằng chứng rõ rệt nào chứng minh về sự “đồng tính” của Xuân Diệu ngoài những lời đồn thổi và một số những mẩu chuyện được kể qua hồi ức của một số người. Dù vậy, chính từ nhiều bài thơ của Xuân Diệu đã khiến người ta không thôi đặt dấu hỏi nghi vấn.

Trong bài thơ Ba lời cảm ơn của Xuân Diệu vừa được công bố lần đầu tiên cách đây vài tuần có những lời thơ tình thật thắm thiết: Cảm ơn trời đất thật tài hoa/ Đưa hết tình anh với đậm đà/ Đem cả bài thơ và khúc nhạc/ Sắc trời hương đất tạo em ra. Cảm ơn thầy mẹ khéo nhân duyên/ Sinh tạc ra em khối diệu huyền/ Dáng nét làm cho anh quyến luyến/ Sáng ngời đôi mắt khiến anh điên. Lắm lúc nhìn em sững mắt anh/ Cảm ơn em đã đón anh nhìn/ Anh nhìn như thể rơi con mắt/ Và cả thời gian cũng đứng im.

Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét, giọng điệu bài thơ như là tặng cho một người phụ nữ mà Xuân Diệu yêu say đắm. Nhưng thực chất, bài thơ đó lại được Xuân Diệu chép tặng cho một người đàn ông, sau một thời gian hai người ở cùng nhau trong đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô (cũ). Người đàn ông đó chính là một tiến sĩ trong ngành Dầu Khí – ông Đặng Của. Theo phân tích của nhà thơ Vũ Quần Phương thì: “Thơ Xuân Diệu tặng cho đàn ông mà như viết cho phụ nữ. Cũng có thể hiểu người làm thơ phải thế, không phải cứ bê y nguyên như sự thực ngoài đời. Nhưng gần đây người ta lại bảo Xuân Diệu là người đồng tính, điều đó thì cũng chưa khẳng định được”. Những ngôn từ mạnh mẽ: Sáng ngời đôi mắt khiến anh điên.. Anh nhìn như thể rơi con mắt/ Và cả thời gian cũng đứng im”, tưởng như là tình yêu say đắm với một người phụ nữ, mà cuối cùng hoá ra lại chép tặng một người… đàn ông.

Niềm cảm mến vô ngần với Hoàng Cát

Những vần thơ đầy cô đơn sau sự chia lìa: Từ nay anh lại trên đời/ Bữa cơm lại với một đôi đũa cầm/ Giường kia một chiếu anh nằm/ Phòng văn một bóng đăm đăm sớm chiều/ Muôn ngàn cảm tạ em yêu/ Chất cho anh được bao nhiêu ân tình/ Cho hay anh đã để dành/ Nén hương một thuở thơm thanh suốt đời/ Sống bằng nhớ lại nguồn vui/ Nhớ khi ôm cả đất trời cùng em. Những tưởng đó là lời thơ tạ từ, thể hiện nỗi buồn chỉ còn lại một mình thi sĩ đơn côi sau khi chia tay với người vợ duy nhất là Bạch Diệp. Nhưng sau đó, người ta lại cho rằng khúc thương tâm đó không phải dành cho Bạch Diệp, mà dành cho một người đàn ông tên Hoàng Cát. Đó là một nhà báo trẻ, điển trai rất yêu thơ Xuân Diệu và còn là người em nuôi của Xuân Diệu.

Khi Hoàng Cát đi vào chiến trường miền nam, Xuân Diệu có nhiều bài thơ tiễn Hoàng Cát, trong đó có những câu như: Bốn năm, nhưng cũng qua mau/ Cõi trần ai được ở lâu thiên đường/ Giã từ, từ biệt, đôi phương/ Đôi nơi, đôi ngả, đôi đường, khổ anh/ Bốn năm lại khép trời xanh/ Nhớ em như một mộng lành mà thôi… Đúng là kể từ ngày họ quen nhau cho đến lúc Hoàng Cát đi chiến trường là đúng bốn năm.

Nhưng có lẽ điển hình nhất thể hiện niềm yêu mến, cảm nhớ của Xuân Diệu với Hoàng Cát là bài Em đi viết vào đêm ngày 11/7/1965 với đề tặng cho Hoàng Cát ở phía dưới: Em đi, để tấm lòng son mãi/ Như ánh đèn chong, như ngôi sao/ Em đi, một tấm lòng lưu lại/ Anh nhớ thương em, lệ muốn trào. Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga/ Chưa chi ta đã phải chia xa!/ Nụ cười em nở, tay em vẫy/ Ôi mặt em thương như đóa hoa. Em hỡi! Đường kia vướng những gì/ Mà anh mang nặng bước em đi!/ Em ơi, anh thấy như anh đứng/ Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa. Nhưng bóng em đi đã khuất rồi/ Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!/ Tình ta như mối dây muôn dặm/ Buộc mãi đôi chân, dẫu cách vời/ Em hẹn sau đây sẽ trở về/ Sống cùng anh lại những say mê…/ Áo chăn em gửi cho anh giữ/ Xin gửi cùng em cả hẹn thề!. Một tấm lòng em sâu biết bao/ Để anh thương mãi, biết làm sao!/ Em đi xa cách, em ơi Cát/ Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ yêu…”.

Lần đầu tiên Xuân Diệu và Hoàng Cát gặp nhau là năm 1958, khi ấy Hoàng Cát mới 17 tuổi, trâu bị lạc, anh đang chạy đi tìm thì gặp Xuân Diệu ngồi nghỉ dưới tán cây giữa cánh đồng làng anh. Lúc ấy Xuân Diệu đang trong chuyến đi thực tế về Nghệ An, tay cầm cặp bánh chưng, anh cho Hoàng Cát một cái bánh. Nhà văn Nguyễn Quang Lập trong bài viết về Hoàng Cát- chuyện văn, chuyện đời có ghi: “Có một người nữa khi đang vui hễ ai nhắc đến là mặt Hoàng Cát cũng đờ ra, đó là Xuân Diệu.

Ai cũng biết Hoàng Cát và Xuân Diệu là anh em kết nghĩa nhưng quan hệ của họ đã vượt quá tình anh em, đạt đến cái gọi là tình yêu, có lẽ điều này thì nhiều người không biết”. Sau buổi gặp gỡ trên cánh đồng làng ở khúc ruột miền trung, Hoàng Cát và Xuân Diệu trở nên thân thiết nhau. Nhà văn Nguyễn Quang Lập viết: “Từ đó anh em thân nhau, rồi yêu nhau, chính xác chỉ có Xuân Diệu yêu Hoàng Cát, còn Hoàng Cát suốt cả đời mình chỉ biết thương Xuân Diệu, thương đến vô cùng. Thương quá hóa chiều, Hoàng Cát chỉ chiều yêu Xuân Diệu mà thôi… Và Hoàng Cát khóc, nước mắt chan chứa, vừa khóc vừa đọc bài thơ Xuân Diệu viết tặng anh 45 năm về trước, ngày anh lên đường nhập ngũ. Anh nói: ầy, tau không yêu Xuân Diệu theo kiểu trai gái yêu nhau, ầy, nhưng mà tau thương, thương lắm bay nờ…”. Rồi Nguyễn Quang Lập hỏi “Xuân Diệu có yêu anh không thì Hoàng Cát nói yêu chớ, Xuân Diệu yêu tau thiệt mà, yêu lắm mi nờ”.

Nhưng câu chuyện nhiều bí ẩn và gây nhiều câu hỏi nhất là cuộc hôn nhân ngắn ngủi giữa nhà thơ Xuân Diệu và nữ đạo diễn Bạch Diệp. Họ đã rất hạnh phúc nhưng bất ngờ chia tay chỉ sau 6 tháng mà không rõ nguyên nhân…

Những Áng Thơ Tình Hay Nhất Của “Ông Hoàng Thơ Tình” Xuân Diệu

Nhà thơ Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu (2/2/1916 – 18/12/1985). Quê ở Tuy Phước, tỉnh Bình Định cũ, nơi cha là Ngô Xuân Thọ vào dạy học và kết duyên với mẹ là Nguyễn Thị Hiệp. Xuân Diệu sau học ở Hà Nội, 1938-1940 ông và Huy Cận ở gác 40 Hàng Than, tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943. Ông có khoảng 450 bài thơ và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.

Với nhiều người nói chung và với những người yêu thơ nói riêng thì có lẽ không ai là không biết đến cái tên Xuân Diệu. Được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông mang ngọn gió rạo rực, thiết tha, nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. Trong tập thơ thơ, thơ ông là “vườn mơn trớn”; là ” cuộc sống đầy mơn mởn”; là “mây đưa và gió lượn”, ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh, hương vị. Còn trong gửi hương cho gió, thơ ông lại pha lẫn với chút ngậm ngùi và cay đắng!

Nhắc tới Xuân Diệu là nhắc tới “xuân” và “yêu”. Như đã tự chọn cho mình một tôn chỉ là sống để yêu và phụng sự cho tình yêu ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, ông đã phụng sự bằng cả trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc hăm hở viết nên những áng thơ tình đầy cảm xúc. Và hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau thưởng thức những áng thơ tình bất hủ ấy, nhận thấy những website/blog khác đã có bài viết tuyển tập những áng thơ tình hay nhất của Xuân Diệu nhưng quá sơ sài và thiếu chính xác, hôm nay, tôi đã tổng hợp bài viết này gồm những áng thơ tình yêu hay nhất của Xuân Diệu cho các bạn tiện xem. Và ngay sau đây, mời các bạn cùng xem qua những dòng thơ hay của Xuân Diệu về tình yêu, tuyển tập những bài thơ hay nhất của nhà thơ Xuân Diệu!

Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si. Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại. Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt… Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Tặng Nhất Linh

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Tặng Đoàn Phú Tứ

Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt, Những người si theo dõi dấu chân yêu; Và cảnh đời là sa mạc cô liêu. Và tình ái là sợi dây vấn vít Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê. Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề Sương bạc làm thinh, khuya nín thở Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Kẻ đa tình không cần đủ thịt da; Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma.

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em, em ơi, tình non đã già rồi; Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi, Mau với chứ! thời gian không đứng đợi. Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới; Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa. Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ, Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết! Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt; Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài; Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai; Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.

*

Vì chút mây đi, theo làn vút gió. Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi? Sơm nay sương xê xích cả chân trời, Giục hồng nhạn thiên di về cõi Bắc. Ai nói trước lòng anh không phản trắc; Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ? – Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ, Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lói; Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối, Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm, Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự. Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…

Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả, Tay em đây, mời khách ngả đầu say; Đây rượu nồng. Và hồn của em đây, Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử. Chớ đạp hồn em! Trăng về viễn xứ Đi khoan thai trên ngự đỉnh trời tròn; Gió theo trăng từ biển thổi qua non; Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn. Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn, Chớ để riêng em phải gặp lòng em; Tay ái ân du khách hãy làm rèm, Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng.

*

*

Cũng may mắn, lòng anh còn trẻ quá. Máu mùa xuân chưa nở hết bông hoa; Vườn mưa gió còn nghe chim rộn rã, Anh lại còn yêu, bông lựu, bông trà.

Tặng Đỗ Đức Thu

Anh đã giết em, anh chôn em vào trái tim anh Từ đây anh không được yêu em ở trong sự thật Một cái gì đã qua, một cái gì đã mất Ta nhìn nhau, bốn mắt biết làm sao? Ôi! Em mến yêu! Em vẫn là người anh yêu mến nhất Cho đến bây giờ ruột anh vẫn thắt Tim anh vẫn đập như vấp thời gian Nhớ bao nhiêu yêu mến nồng nàn, Nhớ đoạn đời hai ta rạng rỡ Nhớ trời đất cho anh mở Nhớ Muôn thuở thần tiên. Ôi! Xa em, anh rơi vào vực không cùng Đời anh không em, lạnh lùng tê buốt Nhưng còn anh, còn em, mà đôi ta đã khác Ta: hai người xa lạ – phải đâu ta! Anh đã giết em, anh chôn em vào trái tim anh Đêm nào anh cũng đi quanh em mà khóc Anh vẫn ước được em tha thứ Anh vẫn yêu em như thuở ban đầu Thế mà tại sao ta vẫn xa nhau? Tại em cố chấp Tại anh đã mất Con đường đi tới trái tim em Anh đã giết em rồi, anh vẫn ngày đêm yêu mến. Em đã giết anh rồi, em vứt xác anh đâu.

Không Biết Đến Những Câu “Thả Thính” Vi Diệu Của Các Nhà Thơ Xưa Thì Đừng Trách Vì Sao Mãi Fa

Giới trẻ ngày nay “phát cuồng” vì những câu thả thính ngọt như đường trong những bài hát nổi tiếng. Thậm chí, vì thả thính quá lãng mạn trong “Người âm phủ” mà Osad đã trở thành hiện tượng và bắt đầu sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp. Những câu thả thính trong “Người âm phủ”, “Anh đếch cần gì nhiều ngoài em” hay “Mượn rượu tỏ tình” đang trở thành trào lưu cực hot trên mạng xã hội và chưa hề có dấu hiệu giảm nhiệt.

Bức ảnh quy tụ những bậc thầy “thả thính” và cũng là những tác giả quen thuộc như Nam Cao, Tô Hoài, Chế Lan Viên, v.v 1. Tô Hoài “Đời này ta nợ em một lần lên xe hoa và một đêm tân hôn” 2. Nam Cao “Phàm đã là nam nhân trong thiên hạ trước khi muốn đặt môi mình lên khuôn miệng xinh đẹp của nữ nhân nào đó thì trước tiên phải có trách nhiệm đổ đầy cơm vào” 3. Xuân Diệu “Nàng cả đời này sẽ mãi là người của ta vì ta đã chôn nàng vào tim mình rồi!” 4. Huy Cận “Nếu như hạnh phúc cũng có thể để dành giống như chiếc bánh mẹ cho ngày bé, để những lúc buồn đói lấy ra nhăm nhi thì nhất định anh sẽ để dành lại những ngày bên em” 5. Vũ Tú Nam “Chỉ cần gặp em một lần thì lịch sử đã chép chung hai cuộc đời là một rồi” 6. Hàn Mặc Tử “Đi khắp thế gian ta mới nhận ra chỉ có hai thứ dù đứng bất cứ đâu ta cũng có thể thấy. Ánh trăng và khuôn mặt em – người ta yêu” 7. Nguyễn Bính “Nếu nói nỗi nhớ của anh nhiều như sao trên trời thì thật vô lí! Vì sao trời còn có ngày không mọc nhưng anh thì không có đêm nào không nhớ về em” 8. Nguyễn Đình Thi “Ta nghĩ về em trong mỗi bước chân, từng nhịp thở. Nếu được lựa chọn nữa ta vẫn sẽ chọn em nhưng ta vẫn cứ đặt em trong tim thôi vì ta không muốn lấy mất của nước Pháp một người tài hoa. Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người” 9. Nguyễn Huy Tưởng “Em có biết sự giống nhau giữa em và Hà Nội là gì không… Đó là đều được anh yêu suốt 1000 năm” 10. Chế Lan Viên “Anh nhớ em như đông về nhớ rét”

Nếu tình yêu trong mắt người trẻ thế kỷ 21 là những cảm xúc “thô”, đầy say mê, táo bạo, có gì nói đó thì cách mà các nhà thơ nói về tình yêu lại bay bổng, tình tứ, mỗi con chữ là tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa mà càng đọc càng thấy thấm.