Vì Sao Việt Nam Gia Nhập Asean Vừa Là Thời Cơ Vừa Là Thách Thức / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Phân Tích Thời Điểm Và Thời Cơ Để Việt Nam Gia Nhập Asean

Trường Học viện ngoại giao Khoa Chính trị quốốc tếố

Đếề tài: Việt Nam – ASEAN:

1

tránh khỏi những sai sót, rất mong ý kiến đóng góp của mọi người để chúng tôi có thể rút kinh nghiệm cho những lần nghiên cứu sau này.

Trang

Lời nói đầu………………………………………………………………………………..1

Gia nhập ASEAN- chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước…….3 Phù hợp… …………………………………………………………………………………..5 …nhưng có phải là phù hợp nhất?………………………………………………..6 Sớm, hay là muộn?…………………………………………………………………….11 Kết luận……………………………………………………………………………………. 14

2

Gia nhập ASEAN- chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước Thực tiễn 15 năm qua đã khẳng định chủ trương gia nhập ASEAN là chính sách đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa lịch sử và chiến lược quan trọng. Tham gia hợp tác ASEAN đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực về an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,… với mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời góp một phần rất lớn trong việc duy trì môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác 3

và phát triển khu vực Đông Nam Á thông qua việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN thống nhất, liên kết chặt chẽ. Đặc biệt, Việt Nam có cái nhìn thực tế hơn để cố gắng, nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Là thành viên của ASEAN tạo thế cho Việt Nam mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác khác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác quốc tế hay liên khu vực rộng lớn như ASEAN+3, EAS, APEC, ASEM, chúng tôi đó góp phấn nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam.

Hội nhập ASEAN đã giúp Việt Nam đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia các hoạt động đa phương cũng như hội nhập khu vực và quốc tế, góp phần tạo bước chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách . Bên cạnh những thuận lợi trên Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thách thức cần vượt qua để có thể tham gia đầy đủ và hiệu quả hơn vào các hoạt động của ASEAN, tương xứng với vị trí và vai trò của mình trong Hiệp hội, như: sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư tưởng trong ASEAN; Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và hiệu quả quản lý còn bất cập, hệ thống các thể chế kinh tế thị trường phát triển chưa đồng bộ, còn yếu kém. Ngoài ra, ASEAN tạo ra sức ép lớn đối với các sản phẩm và thị trường của Việt Nam trong và ngoài nước, có thể tạo ra các dòng di cư lớn, trong đó có “chảy máu chất xám”, nạn thất nghiệp tăng do nhiều công ty bị phá sản và nhiều người chưa thể làm quen hay điều chỉnh phù hợp với cơ chế hay môi trường mới; cần chú ý giữ gìn bản sắc văn hóa của mình với tiêu chí ” hòa nhập mà không hòa tan”,… Tuy nhiên, những thách thức trên cũng gắn liền với nhiều mặt tích cực. Ví dụ như việc những động thái và chính sách của Việt Nam vẫn được xem là tích cực trong các vấn đề thế giới với chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là luôn muốn tìm giải pháp hoà bình để giải quyết các mâu thuẫn khu vực và quốc tế; các thách thức về kinh tế góp phần đòi hỏi Việt Nam phải gia tăng cạnh tranh, phải thay đổi tích cực hơn trong đào tạo trình độ tay nghề và cải tiến chất lượng sản phẩm, cũng như đổi mới cách thức sản xuất với quy mô lớn; sự hòa nhập tạo ra giao lưu văn hoá và kèm theo là những dòng người sang Việt Nam làm việc. Như vậy, có thể khẳng định việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Song, liệu thời điểm năm 1995 đã phải là thời điểm gia nhập phù hợp nhất chưa?

4

Phù hợp… Có thể khẳng định được ngay năm 1995 là thời điểm phù hợp để Việt Nam gia nhập ASEAN vì những lý do sau đây: Năm 1995, Chiến tranh lạnh đã lùi xa, thế giới đang nổi lên những thay đổi từ đối đầu sang đối thoại, xu thế hội nhập và phát triển giữa các nước trở nên mạnh mẽ. Các cuộc chạy đua vũ trang chấm dứt, vấn đề Campuchia được giải quyết đã mang lại những cơ hội mới về quan hệ thân thiện và hợp tác cho các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Sau hơn 20 năm đấu tranh giành và bảo vệ độc lập cũng như xây dựng kinh tế, nhiều nước trong khu vực bước vào thời kì ổn định, dốc sức để phát triển kinh tế. Các nước đều có nhu cầu hợp tác cùng phát triển và từ đây, kinh tế được xem trọng trong chính sách của mỗi nước. Vào lúc này, Liên Xô và Đông Âu đã tan rã dẫn đến việc Việt Nam bị mất đi một chỗ dựa, một sự viện trợ lớn. Việc gia nhập vào một tổ chức khu vực càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong cùng năm đó, Việt Nam mở rộng hợp tác Việt – Trung để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng giữa hai nước trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Trước đó, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã quyết định bãi bỏ hoàn toàn cấm vận đối với Việt Nam vào năm 1994 và thiết lập cơ quan liên lạc Mỹ tại Hà Nội đầu năm 1995. Đây là lần đầu tiên Việt Nam chính thức có quan hệ ngoại giao trên cơ sở hòa bình và bình thường hóa quan hệ với các nước lớn trên thế giới; góp phần củng cố vị thế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện thuận lợi để Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là với các nước trong ASEAN. Trên thực tế, vào năm 1992, sau khi Việt Nam và Lào tham gia kí Hiệp ước Bali 1976 vào tháng 1/1992, ASEAN đã chấp thuận hai nước này trở thành quan sát viên của 5

…nhưng có phải là phù hợp nhất? Tại sao mãi đến năm 1995 Việt Nam mới chính thức gia nhập ASEAN mà không phải trước đó – từ năm 1975 – khi ASEAN chủ động mời Việt Nam gia nhập, hay là muộn hơn – khoảng năm 1996 – để phát huy sức mạnh nội tại và giành thế chủ động? Mỗi giai 6

đoạn Việt Nam lại có những khó khăn cũng như thuận lợi khác nhau. Chúng tôi sẽ đi vào xem xét, đánh giá và so sánh những giai đoạn đó để trả lời cho câu hỏi trên. Chiến thắng năm 1975 đã chính thức đánh dấu chấm dứt chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam, thống nhất đất nước và góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam vẫn còn trong quá trình khôi phục đất nước, phải đối mặt với hàng loạt các vấn dề về kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy được bảo trợ về chính trị và viện trợ về kinh tế khá lớn từ Liên Xô nhưng kinh tế Việt Nam vẫn không phát triển mạnh được. Các nước khác ngoài Liên Xô hầu như không có đầu tư hay viện trợ cho Việt Nam, mà những sự giúp đỡ đó chuyển sang hình thức hợp tác, có đi có lại, có vay có trả. Điều này tạo khó khăn mới cho Việt Nam trong tình trạng nội lực đất nước không đủ mạnh và các mối quan hệ với nhiều nước còn bấp bênh. Mặt khác, vào khoảng năm 1975-1976, Việt Nam đòi Mỹ bồi thường chiến tranh nhưng Mỹ không đồng ý; từ năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) của chính quyền Sài Gòn, đồng thời gia nhập một số tổ chức về kinh tế khác (FIDA, SEV,…) nhưng cũng không đạt được nhiều kết quả vượt bậc. Nhìn chung, tình hình trong nước của Việt Nam lúc này khá ảm đạm, đòi hỏi sự giúp đỡ và hợp tác đa phương từ bên ngoài. Mặt khác, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển: Trung Quốc không còn lợi dụng cuộc chiến ở Việt Nam để phục vụ cho lợi ích chiến lược của mình được nữa, còn Liên Xô vẫn là một hậu thuẫn lớn của Việt Nam, nước Mỹ thì bị giảm uy tín sau chiến tranh và đành phải quay giải quyết những vấn đề trong nước. Đây rõ ràng là thời điểm thuận để Việt Nam gia nhập ASEAN, góp phần tạo nên tình thế mới có lợi hơn cho khu vực, đồng thời Việt Nam có thể có được một thời gian hoà bình, ít nhất là một môi trường an ninh xung quanh để đảm bảo tập trung phát triển kinh tế và tạo điều kiện thu hút sự hợp tác, hỗ trợ nhiều hơn từ các nước trong khu vực. Song, vào năm 1975, khi ASEAN nêu lại đề nghị mời Việt Nam tham gia thì Việt Nam đã từ chối vì cho rằng ASEAN là một dạng khác của SEATO. Lập luận của Việt Nam dựa trên cơ sở một số nước thành viên của ASEAN (Thái Lan và Philippines) đã gửi quân tham chiến trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng lý do chủ yếu là vào thời điểm này chính sách đối ngoại của Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng và tác động khá nhiều bởi vấn đề ý thức hệ.

7

Tiếp đó, trong khoảng thời gian từ cuối 1977 đến cuối 1978, tình hình khu vực có những thay đổi nhanh chóng: “Có đồng minh cũ, vì chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đã trở thành kẻ thù mới của ta và đã gây ra một cuộc chiến mới làm cho tình hình khu vực tiếp tục không ổn định; có nước là chỗ dựa và hậu phương lớn của ta trong chiến tranh nay lại có ý đồ kiềm chế ta, thậm chí gây xung đột và chiến tranh nóng ở biên giới và hải đảo của ta, gây nhiều khó khăn cho ta và tạo ra một tình hình rất căng thẳng cho ta và cho khu vực” (Trịnh Xuân Lãng). Trước tình hình trên, Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ tốt với các nước ASEAN để tạo môi trường xung quanh hòa bình, ổn định, rút lui những bảo lưu đối với ZOPFAN; đề nghị với ASEAN để Việt Nam kí Hiệp ước Bali 1976 (Hiệp ước không xâm lược) và trở thành thành viên ASEAN, nhưng các nước ASEAN đã bác bỏ đề nghị này. Cần phải chú ý rằng vào thời điểm 1977-1978, các cuộc tranh chấp và xung đột biên giới của Việt Nam với Campuchia xảy ra liên tục. Giai đoạn này chính là đỉnh cao của xung đột Việt Nam – Khmer Đỏ 1975-1978 (cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, tức là chỉ vài ngày sau ngày thống nhất đất nước). Đây là tiền đề phát sinh vấn đề Campuchia về sau này. Những động thái trên đã khiến các nước ASEAN trở nên nghi kỵ và bác bỏ lời đề nghị của Việt Nam. Không thể phủ nhận một điều là Việt Nam là một nước có vị trí địa lý, có tiềm năng kinh tế, có khả năng quân sự, thậm chỉ là có sự ảnh hưởng nhất định về chính trị với nhiều nước lớn. Cho nên có thể hiểu được việc trước đây các nước ASEAN lo sợ sẽ bị Việt Nam trả thù. Lần này, cuộc xung đột với Khmer Đỏ khiến cho các nước ASEAN lo sợ thuyết Domino của Mỹ sẽ thành hiện thực và nghi ngờ về chính sách hữu nghị của Việt Nam với ASEAN. Kết quả là nối tiếp Mỹ và các nước châu Âu khác, ASEAN cũng tham gia cô lập và cấm vận toàn diện đối với Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới cùng lúc lên án hành động đưa quân vào Campuchia cảu Việt Nam Quan hệ chính trị, ngoại giao của Việt Nam với nhiều nước trên thế giới trở nên lạnh nhạt, thậm chí là đối địch; tình hình kinh tế, an ninh, xã hội trong nước càng trở nên khó khăn hơn. Một sự kiện khác đáng nhắc đến trong năm 1977 là việc Mỹ bắt đầu có những tín hiệu hoà dịu với Việt Nam tỏ ý mong muốn bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng không đạt thành. Giả sử Việt Nam chủ trương muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngay lúc này thì có lẽ sẽ không chỉ tranh thủ được viện trợ từ Mỹ mà còn tránh được việc bị cấm vận, cô lập và thậm chí Việt Nam có thể gia nhập ASEAN đúng như ý muốn vào cuối năm 1977, góp phần giúp giải quyết một loạt những vấn đề về sau này.

8

Ví dụ đến năm 1978 xuất hiện nhân tố Trung Quốc, Mỹ quay sang bắt tay với Trung Quốc và đẩy nhanh quá bình thường hóa giữa hai nước, gác lại việc bình thường hóa với Việt Nam. Lý do chính là vì lúc này quan hệ Xô-Mỹ, nằm trong cuộc chạy đua vũ trang, vẫn chưa thực sự hòa dịu, Trung Quốc lại đang muốn vượt qua Liên Xô, mở rộng ảnh hưởng ở châu Á-Thái Bình Dương nên muốn kiềm chế Việt Nam, đẩy mạnh chính sách thù địch Liên Xô và Việt Nam để tăng cường quan hệ với Mỹ. Trung quốc là nhân tố xúi giục quân Khmer Đỏ và lôi kéo các nước ASEAN tham gia cô lập Việt Nam. Tóm lại, nếu không đặt lợi ích quốc gia (mục tiêu phát triển) sau nghĩa vụ quốc tế (mục tiêu an ninh) thì Việt Nam đã có thể không phạm sai lầm đóng quân 10 năm trên đất Campuchia để phải chịu hàng loạt những bất lợi và tổn thất sau này. Đến tháng 9/1991, sau khi rút hết quân ra khỏi Campuchia (9/1989), một số lãnh đạo Việt Nam có đề nghị tham gia Hiệp ước Bali 1976 ( thực chất là đề cập đến vấn đề Việt Nam có thể trở thành thành viên ASEAN). Nhưng những đề nghị này khi đó không được các nước ASEAN xem xét một cách nghiêm chỉnh vì vẫn tồn tại tâm trạng không tin cậy rất lớn giữa Việt Nam và ASEAN, mặc dù Việt Nam đã rút quân khỏi Campuchia. Mãi đến năm 1992, ASEAN mới có động thái mời Việt Nam tham gia kí Hiệp ước và trở thành quan sát viên của ASEAN. Có thể thấy từ trước khi kết thúc vấn đề Campuchia, Việt Nam đã hầu như không có nhiều mối quan hệ ngoại giao vững chắc với các nuớc trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt là nhóm nuớc ASEAN, mặc dù luôn chủ động đẩy mạnh quan hệ đối ngoại song phương, đa phương. Các cuộc tiếp xúc giữa nhóm nước Đông Dương và ASEAN vẫn duy trì trong suốt thời gian diễn ra vấn đè Campuchia nhưng do sự nghi ngờ, chưa thông cảm với nhau và cũng do thái độ của các nước lớn tác động, cuộc đối thoại không đạt kết quả cụ thể. Tuy vậy quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN về gần cuối đã bớt căng thẳng hơn. Sau đó, Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, thiết lập và thắt chặt quan hệ ngoại giao với các nước Đông Nam Á, tập trung giải quyết những vấn lịch sử còn tồn đọng một cách nhanh chóng. Đặc biệt là sau khi trở thành quan sát viên của ASEAN, Việt Nam đã có hơn 15 chuyến đi thăm tới các nước, nhanh chóng hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho việc gia nhập chính thức vào năm 1995. Như vậy, vấn đề Campuchia đã trở thành rào cản lớn nhất trong quá trình tìm cách gia nhập ASEAN của Việt Nam. Quá trình sau khi vấn đề được giải quyết diễn ra nhanh chóng, chặt chẽ hết mức có thể để gia nhập ASEAN nhằm giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, 9

xã hội, văn hóa, chính trị,… trong nước và khu vực. Nói cách khác, nếu không vướng vấn đề Campuchia thì Việt Nam có thể đã thuận lợi gia nhập ASEAN sớm hơn khoảng 10 năm.



Tới đây, ta đặt giả thiết năm 1995 Việt Nam vẫn chưa gia nhập ASEAN. Lúc này, tình hình ngoại giao chính tr ị của Việt Nam khá khả quan: đã và đang thiết lập, thắt chặt và thúc đẩy các mối quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; Mỹ đã bỏ hoàn toàn cấm vận; bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Riêng ASEAN đã có một quá trình xúc tiến cùng với Việt Nam trong việc để Việt Nam tham gia ASEAN. Trên mặt chính trị, Việt Nam đã “sẵn sang tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp…” (Tuyên bố của Tổng bí thư Đỗ Mười ngày 5/10/1993 tại Singapo). Có một vài ý kiến cho rằng thời điểm năm 1995 là còn quá sớm cho việc gia nhập, câu hỏi được đặt ra là: nên chăng Việt Nam cần chờ thêm một khoảng thời gian để có sự chuẩn bị kĩ càng hơn sức mạnh nội tại, góp phần giúp Việt Nam chủ động hơn cả trước và sau khi gia nhập ASEAN? Vào năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra khiến nhiều nước ASEAN gặp khó khăn, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng. Việt Nam hầu như không chịu ảnh hưởng, thực tế là do nền kinh tế của Việt Nam thời điểm này tụt hậu hơn nhiều so với các nước trong khu vực, mặc dù đã gia nhập ASEAN và nhận được sự giúp đỡ, hợp tác từ nhiều nước. Mặt khác, một phần do chịu ảnh hưởng các nước lớn nên “sự gắn kết của các nước trong khu vực bị giãn ra, lỏng lẻo hơn, vai trò của ASEAN trên trường quốc tế bị lung lay” (Nguyễn Vũ tùng, CSĐN VN II, tr87). Thời điểm này nếu Việt Nam vẫn không có những chính sách phát triển mới đáng ghi nhận thì cơ hội vào ASEAN sẽ không cao, và nếu không thực hiện được việc gia nhập thì có khả năng Việt Nam sẽ bị tụt hậu ngày càng xa, bị hạn chế trong việc gia nhập với một số tổ chức quốc tế (WTO,…), khó có cơ hội thể hiện tiếng nói riêng, bị chèn ép bởi các nước lớn (như Trung Quốc),… gây khó khăn lớn cho kinh tế, chính trị và việc giữ gìn bản sắc dân tộc của Việt Nam.

10

Vậy thì, đặt giả thiết trong khoảng thời gian 1991-1995 ngoài việc nỗ lực tham gia ASEAN (tức là đến bỏ qua việc gia nhập năm 1995), Việt Nam cũng hướng đến đẩy mạnh quan hệ hợp tác mọi mặt với các nước tư bản Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản hay thậm chí với các nước ngoài khu vực như Mỹ để tìm giải pháp kinh tế, tăng sức mạnh nội tại để chủ động hơn thì việc gia nhập ASEAN thời điểm này cũng không hẳn là muộn. Nhưng điều này có thể sẽ tạo một mặt trái khác: việc hợp tác khu vực sẽ bị hạn chế, quan hệ Việt Nam với khu vực không thực sự vững chắc và sâu sắc; liên minh khu vực lỏng lẻo thì không đủ để có thể là một “cỗ xe nhỏ kéo một cỗ xe lớn” được. Sau năm 1995, Việt Nam có đủ điều kiện hoàn cảnh, chính trị,… để gia nhập ASEAN. Nhưng liệu việc trì hoãn thời điểm năm 1995 là có nên làm khi mà bản thân Việt Nam còn đang gặp khó khăn từ nhiều phía? Việt Nam gia nhập ASEAN là một quá trình. Quá trình này không chỉ dựa vào một phía để giải quyết mà là tác động hai chiều, các nhu cầu của cả hai bên phải gặp nhau đúng thời điểm đồng thời cũng có các nhân tố bên ngoài khác tác động (sự ảnh hưởng của các nước lớn, tình hình khu vực và thế giới qua từng giai đoạn). Muốn nhận định đâu là khoảng thời gian phù hợp nhất, cần xem xét giai đoạn nào có lợi ích to lớn và lâu dài hơn đối với Việt Nam.

Sớm, hay là muộn? Đánh giá giai đoạn 1975-1977 so với năm 1995: Hai giai đoạn này đều có hoàn cảnh hòa bình cả trong nước, khu vực và thế giới. Việt Nam cơ bản đã có quan hệ ngoại giao với một số nước nhưng về kinh tế thì đang gặp rất nhiều khó khăn. Giai đoạn 1975-1977 là thời điểm sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, xu hướng liên kết, nhất thể hoá song song cùng với sự phát triển độc lập của mỗi quốc gia trở nên phổ biến trên thế giới. Trong nước, nhân dân đặt niềm tin lớn lao vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu vẫn bị ý thức hệ chi phối nên hầu như chỉ tập trung mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô (thời kỳ này Liên Xô vẫn là hậu thuẫn lớn về chính trị, an ninh và kinh tế của Việt Nam) và quay lưng lại với các nước tư bản chủ nghĩa (từ chối lời mời của ASEAN và mong muốn bình thường hóa quan hệ của Mỹ. Bị ý thức hệ chi phối, tư

11

duy trong chính sách của Việt Nam đã không thay đổi kịp thời để bắt kịp với biến chuyển của thời thế. Nếu Việt Nam chấp nhận gia nhập ASEAN vào năm 1975-1976 thì sẽ thu được những cái lợi hơn năm 1995. Thứ nhất, các nước trong ASEAN đang phát triể`n theo đường lối tư bản với nền kinh tế thị trường (mang tiềm năng phát triển kinh tế mạnh). Đến khoảng những năm 90, các nước ASEAN “đủ long đủ cánh”, đầy đủ điều kiện để thực sự phát triển kinh tế. Việt Nam có thể có cơ hội áp dụng nền kinh tế thị trường để phát triển một cách nhanh chóng, bắt kịp với nhịp độ và trình độ của các nước trong khu vực, góp phần giải quyết khó khăn trong nước. Chưa kể tốc độ phục hồi và phát triển của Việt Nam cũng khá nhanh mặc dù xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn các nước khu vực. Tuy nhiên có thể có trường hợp các nước tư bản lớn sẽ tranh thủ ảnh hưởng chính trị của mình vào Việt Nam (trong nước còn tồn tại tàn dư cũ của chính quyền Sài Gòn, chính quyền miền Bắc còn chưa kịp củng cố lại sau chiến tranh). Nhưng vào thời điểm này, tư tưởng chủ yếu của ASEAN và nước lớn Mỹ là muốn vừa hợp tác vừa cạnh tranh, chưa kể dư âm của cuộc chiến vẫn còn nên vấn đề trên không quá đáng ngại. Thứ hai, vấn đề Campuchia cũng sẽ được nhìn nhận dưới góc độ có lợi hơn cho Việt Nam hoặc thậm chí chúng ta có thể không vướng vào vấn đề này. Việt Nam có thể giữ được hình ảnh và tạo niềm tin đối với các nước khu vực và thế giới trước sự kiện này: không phải là một nước hiếu chiến như luận điệu của Trung Quốc mà là một nước tích cưc và yêu chuộng hòa bình. Thậm chí Việt Nam còn có thể tránh được cấm vận và những vấn đề gây bất lợi khác. Thứ ba là việc có thể chống lại được sự bá quyền của Trung Quốc ở khu vực và dần dần phát triển độc lập với các nước lớn xã hội chủ nghĩa. Việc gia nhập vào lúc này có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên Xô, nhưng nếu Đảng và Nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu phát triển lên trên mục tiêu an ninh cũng như chuyển biến cái nhìn mới phù hợp về thế giới thì sẽ giữ được quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, việc này đòi hỏi sự khéo léo, nhay bén trong chính sách đối ngoại để nắm thế chủ động và có khả năng Việt Nam sẽ không còn quá phụ thuộc vào Liên Xô, Trung Quốc, từng bước phát triển độc lập hơn. Ngoài ra Việt Nam còn có cơ hội tham gia được nhiều tổ chức khu vực và quốc tế từ rất sớm. Đặc biệt là các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã tiếp nhận ghế thành viên từ những năm 76 trở đi. 12

Đánh giá giai đoạn sau năm 1995 so với năm 1995: Từ năm 1995 trở đi, tình hình khu vực hòa bình, ổn định, Việt Nam có quan hệ mạnh mẽ với các nước; có thành tựu về kinh tế, văn hóa, giáo dục,… ; chính quyền được củng cố hơn, tư duy đối ngoại đổi mới; hình ảnh đất nước được cải thiện trong mắt bạn bè thế giới. Nhưng các vấn đề khó khăn trong nước vẫn còn tồn tại, Việt Nam không có một liên minh khu vực bảo trợ. Nếu đến sau năm 1995 Việt Nam mới gia nhập ASEAN, sợ rằng Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế năm 19971998 vào thời điểm gia nhập. Cơn bão khủng hoảng đi qua khi Việt Nam chưa kịp có sự liên kết chặt chẽ với các nước trong khu vực khiến cho việc gia nhập trở nên khó khăn nhiều lần. Gia nhập muộn cũng đồng nghĩa với việc chưa có một tổ chức khu vực nào có thể đứng ra bao bọc, hỗ trợ cho Việt Nam trước sự đe dọa an ninh. Trung Quốc có thể vẫn thực hiện việc bành trướng lãnh thổ, thi hành những âm mưu nhằm chia rẽ các nước Đông Nam Á để dễ kiềm chế và chi phối khu vực này. Ngoài ra, mở rộng quan hệ với bên ngoài cũng như gia nhập các tổ chức quốc tế khác như APEC, ASEM,WTO,… đều bị hạn chế. Nói cách khác Việt Nam đang cần một liên minh khu vực chặt chẽ để giảm bớt sự ảnh hưởng của các nước lớn, tạo môi trường và điều kiện cho ổn định và phát triển. Thực ra việc liên kết khu vực rất quan trọng, vì khu vực là nơi có vị trí địa-chính trị thuận lợi nhất với một quốc gia, dễ dàng tạo liên kết, cùng chung chí hướng. Thực tiễn lịch sử chứng minh một khu vực phát triển và có liên kết chặt chẽ bao giờ cũng ổn định hơn và an toàn hơn: những bất ổn ở Trung đông dẫn đến những nước phát triển như Isarel hay chậm phát triển như Palestine đều phải quan tâm đến chiến tranh và khó mà dốc sức cho việc phát triển kinh tế. Do đó, việc trì hoãn lại thời điểm gia nhập ASEAN là không cần thiết. Điều ta cần là tham gia liên kết đó càng sớm càng tốt, nhất là một liên kết khu vực để phát huy được sự tương đồng về văn hoá, địa lí, khí hậu và trình độ phát triển để có một môi trường hoà bình, ổn định và có nhiều thuận lợi hơn để phát triển.

13

Kết luận Trong 15 năm gia nhập ASEAN , Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến quan trọng làm thay đổi bộ mặt của đất nước theo chiều hướng tích cực. Lật ngược lịch sử, chúng ta có thể thấy quyết định tham gia vào ASEAN năm 1995 của Việt Nam là quyết định chính xác, phù hợp với thời điểm hiện tại. Nhưng giả thiết nếu chúng ta tham gia vào ASEAN sớm (khoảng 1975-1976) thì biết đâu bây giờ Việt Nam lại có những kết quả khả quan hơn? Thời điểm 1975-1976 là thời điểm phù hợp nhất để Việt Nam gia nhập ASEAN. Với động thái này, cách nhìn lịch sử sẽ có nhiều biến chuyển: Việt Nam có thể có được mối quan hệ tốt đẹp với các nước khu vực và trên thế giới trong hoàn cảnh thế giới bắt đầu hòa dịu; vị thế của Việt Nam sẽ trở nên ngang hàng về mọi mặt với các nước ASEAN, bình đẳng hơn, chủ động hơn cả trước và sau khi gia nhập chứ không bị động như thực tiễn của lịch sử. Lịch sử đã đi qua, tuy không thể thay đổi được lịch sử nhưng bài học từ lịch sử qua việc chúng ta gia nhập ASEAN vẫn còn đó. Đó là bài học phải biết đặt lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên hàng đầu và chính sách đối ngoại nào cũng cần phải nắm bắt đúng thời điểm mới phát huy được hết hiệu quả của nó.

14

Phạm Đức Thành – Trần Khánh (2006), Việt Nam & ASEAN: Nhìn lại và hướng tới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Hội thảo Quan hệ Việt Nam-Thái Lan hướng tới tương lại, Hà Nội.

PGS.TS Vũ Dương Huân (2003), Quan hệ đặc biệt Viêt – Lào, Hà Nội.

Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1999), Xây dựng ASEAN thành cộng đồng các quốc gai phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác, Hà Nội.

Ban tư tưởng-văn hóa Trung ương – Vụ tuyên truyền và hợp tác quốc tế (2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

(1991), Đảng Công sản Việt Nam – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật.

Trường Chinh (1979), Về vấn đề Campuchia, NXB Sự thật, Hà Nội

Vũ Dương Ninh (2004), Việt Nam – ASEAN Quan hệ đa phương và song phương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1995), Viêt Nam – Đông Nam Á: quan hệ lịch sử văn hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tạp chí “Nghiên cứu Đông Nam Á”, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia-Viện nghiên cứu Đông Nam Á.

ThS.Vũ Đoàn Kết, Chính sách đối ngoại Việt Nam Tập II, NXB Thế giới, Hà Nội. TS.Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975-2000), Hà Nội.

15

Ngày Việt Nam gia nhập ASEAN 28-7-1995, http://tinhdoanbinhthuan.vn/index.php? option=com_content&view=article&id=287:ngay-vit-nam-gia-nhpasian&catid=139:nhng-ngay-l-ln-trong-nm&Itemid=253

Những tác động của việc mở rộng ASEAN-7 lên ASEAN-10, http://www.hocvienngoaigiao.org.vn/nr040730095659/nr040730100743/nr050517172 414/ns050523150037

16

Cộng Đồng Kinh Tế Asean – Cơ Hội Và Thách Thức Với Việt Nam

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lâp AEC luôn là một trong những ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

I. Tổng quan về Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC):

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức vào tháng 2 năm 2009 tại Thái Lan, các Nhà Lãnh đạo đã đưa ra Tuyên bố Cha-am Hua Hin về Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015) với 3 trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Cộng đồng Chính trị – An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN.   

Hội nghị cũng thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN với các biện pháp và lịch trình cụ thể thực hiện AEC, bao gồm các nội dung:

(i)  Xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông qua các biện pháp dỡ bỏ các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng cũng như tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển tự do hơn của dòng vốn, các biện pháp về các lĩnh vực ưu tiên hội nhập.

(ii) Đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao trên cơ sở thực thi chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thương mại điện tử.

(iii) Phát triển kinh tế đồng đều thông qua thực hiện các biện pháp về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Sáng kiến Hội nhập ASEAN nhằm giúp các nước CLMV (Cam-pu-chia, Lào, My-an-ma và Việt Nam) nâng cao năng lực.

(iv) Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu trên cơ sở tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA), tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. 

II. Sự chuẩn bị của Việt Nam cho AEC 

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lâp AEC luôn là một trong những ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với ASEAN, Việt Nam quyết tâm và dành nỗ lực cao nhất để triển khai các cam kết, chương trình, sáng kiến hướng tới mục tiêu thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, đặc biệt là các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.     

Theo Báo cáo gần đây nhất của Ban Thư ký ASEAN về tỷ lệ thực hiện các biện pháp trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), ASEAN đã thực hiện được 91,5% các biện pháp ưu tiên có tác động lớn đối với thương mại và đầu tư. Việt Nam là một trong các nước đứng đầu về tỷ lệ thực hiện (tỷ lệ thực hiện các biện pháp ưu tiên đạt 94,5%). Để tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp xây dựng AEC, các nước ASEAN nhất trí về một số định hướng, bên cạnh các biện pháp khác, như sau: đánh giá các biện pháp chưa hoàn thành nhằm xác định lý do chưa hoàn thành là vấn đề kỹ thuật hay vấn đề chính sách; tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp còn lại trong Lộ trình tổng thể xây dựng AEC.

Thực hiện chỉ đạo của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về việc xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác hoàn tất dự thảo Lộ trình tổng thể xây dựng AEC sau năm 2015 tới 2025, dự kiến sẽ được các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị cấp cao vào tháng 11 sắp tới tại Ma-lai-xia. Nội dung chủ yếu của tài liệu này là các biện pháp chiến lược xây dựng một nền kinh tế ASEAN hội nhập, cạnh tranh, năng động, lấy con người làm trung tâm, phát triển các ngành có lợi thế và hướng ra toàn cầu. Đây cũng sẽ là khuôn khổ để tất cả các cơ quan chuyên ngành trong trụ cột AEC xây dựng kế hoạch hành động chuyên ngành tới năm 2025.

Mức độ sẵn sàng của Việt Nam trước việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015 cũng được thể hiện thông qua việc thực hiện các cam kết cụ thể của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực với một số kết quả nổi bật như sau:

Trong nước:  

Về mặt chủ trương:

– Thuận lợi chính của Việt Nam trong việc xây dựng AEC là sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế khu vực và tích cực tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do nhằm mở cửa thị trường cho các hàng hóa xuất khẩu mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, tận dụng các nguồn lực nhập khẩu có chi phí thấp hơn; đồng thời tạo ra các sức ép từ bên ngoài để đẩy mạnh cải cách trong nước theo hướng minh bạch, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh và đầu tư.

– Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về AEC năm 2015 nhằm nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về những lợi ích và thách thức của AEC.

– Phối hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế ASEAN với hội nhập kinh tế các khu vực khác (như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU, Việt Nam-Liên minh châu Âu … đang đàm phán và sẽ được ký kết trong tương lai gần) để doanh nghiệp, người dân Việt Nam được hưởng lợi tối đa từ tiến trình hội nhập kinh tế cho giai đoạn hội nhập kinh tế sau năm 2015.

– Đẩy mạnh việc cải cách cơ cấu kinh tế trong nước với tốc độ phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế ASEAN. – Tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành tham gia AEC của Việt Nam thông qua vai trò điều phối của Bộ Công Thương.

Về mặt thực hiện cam kết, Việt Nam thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng hạn:

– Ban hành văn bản pháp lý thực hiện cắt giảm thuế.

– Nỗ lực đơn giản hoá hệ thống các giấy phép, giấy chứng nhận bao gồm giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), giấy chứng nhận vệ sinh kiểm dịch, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm. Ví dụ như việc thực hiện hệ thống eCoSys (hệ thống xin cấp C/O qua mạng), cấp phép nhập khẩu tự động. 

– Sửa đổi và ban hành mới các chính sách để thực hiện các cam kết trong từng ngành cụ thể, điển hình là trong các ngành dịch vụ phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông để phù hợp với các cam kết trong Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) cũng như GATS. 

– Hiện tại, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có Luật cạnh tranh khá toàn diện áp dụng cho cả nền kinh tế và có các cơ quan giám sát thực hiện luật này cùng với In-đô-nê-xia, Xinh-ga-po và Thái Lan…

Về mặt phối hợp với doanh nghiệp:

– Đàm phán cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình chuyển đổi phù hợp để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị trong các FTA nội khối ASEAN và ASEAN+1 với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân.

– Đàm phán thúc đẩy việc mở cửa thị trường ASEAN và các đối tác cho doanh nghiệp của Việt Nam.

– Phối hợp tích cực với doanh nghiệp giải quyết các biện pháp hạn chế thương mại mới tại các thị trường xuất khẩu, kể cả các biện pháp như hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ. 

– Chủ động vận dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá để đối phó với hàng hóa nhập khẩu ảnh hưởng tiêu cực hoặc cạnh tranh không bình đẳng đối với hàng hóa sản xuất trong nước.

– Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các kênh hợp tác kinh tế, xúc tiến thương mại và đầu tư để tìm hiểu, thâm nhập và phát triển thị trường.

– Triển khai việc tuyên truyền, quảng bá cho doanh nghiệp và người dân ở các địa phương trong cả nước về các cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế, đặc biệt là về Cộng đồng Kinh tế ASEAN.

– Khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để góp phần thu hút đầu tư, đảm bảo hiệu ứng lan tỏa của đầu tư, mang lại lợi ích trực tiếp và thiết thực cho doanh nghiệp và người dân địa phương, đồng thời xây dựng năng lực dài hạn cho hội nhập kinh tế trong tương lai.

– Cuối cùng và không kém phần quan trọng là việc đàm phán mở cửa các thị trường mới, vừa nhằm mục đích đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc sâu vào các thị trường khu vực, vừa tính đến tính chất bổ trợ cho nền kinh tế Việt Nam, mà ví dụ nổi bật là thị trường EU, thông qua đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU.

Cùng với các nước thành viên ASEAN khác:

Trên lĩnh vực thương mại hàng hóa

Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc Lộ trình cắt giảm thuế thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa trong ASEAN (ATIGA) được kế thừa từ Chương trình CEPT/AFTA. Tính đến năm 2015, Việt Nam đã hoàn thành giảm thuế nhập khẩu xuống mức 0-5% đối với 97% biểu thuế, trong đó khoảng 90% số dòng thuế đã ở mức 0%. Đến năm 2018, Việt Nam sẽ phải xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 97% biểu thuế và xóa bỏ hạn ngạch thuế quan đối với các mặt hàng trứng gia cầm, đường, muối. Về thuận lợi hóa thương mại, Việt Nam cùng các nước ASEAN tích cực triển khai các sáng kiến và nội dung trong Chương trình làm việc về Thuận lợi hóa thương mại giai đoạn 2007-2015 được các nước Bộ trưởng Kinh tế ASEAN thông qua, nổi bật là:

– Việt Nam đã xây dựng cơ chế một cửa quốc gia và là một trong số các nước ASEAN đi đầu kết nối với cơ chế một cửa ASEAN.

- Việt Nam cùng một số nước ASEAN đã tham gia dự án thí điểm Tự chứng nhận xuất xứ thứ 2.

Trên lĩnh vực thương mại dịch vụ

Việt Nam cùng các nước ASEAN đã hoàn tất Gói cam kết thứ 9 và đang tích cực xây dựng Gói cam kết thứ 10 trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS). Mặc dù nội dung Gói 10 đặt yêu cầu cam kết mở cửa khá cao, Việt Nam vẫn thể hiện sự nỗ lực, tích cực giải quyết các vướng mắc để sớm cùng các nước thành viên ASEAN hoàn thành nội dung cam kết trong Gói 10. 

Trên lĩnh vực đầu tư

Trong lĩnh vực xúc tiến và tự do hóa đầu tư, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN đạt được những kết quả nhất định như xuất bản Sách hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp, Báo cáo đầu tư ASEAN hàng năm; tổ chức các hội thảo, diễn đàn về xúc tiến đầu tư; xây dựng trang thông tin ASEAN về đầu tư v.v. 

Các nội dung khác

Việt Nam cũng chủ động cùng các nước ASEAN triển khai các hoạt động trong các lĩnh vực, nổi bật là:

- Sáng kiến kết nối ASEAN được thông qua tại Hội nghị Cấp cao (HNCC)-15 năm 2009 với mục tiêu củng cố kết nối cơ sở hạ tầng (cả phần cứng và phần mềm) nhằm thu hẹp khoảng cách về kinh tế trong khu vực và Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC) tại HNCC-17 năm 2010 tại Hà Nội để triển khai Sáng kiến Kết nối. MPAC tập trung vào 3 lĩnh vực: kết nối phần cứng, kết nối về thể chế và kết nối về con người. 

– Hợp tác tài chính: các nước ASEAN đã đàm phán được 6 Gói tự do hóa dịch vụ tài chính trong khuôn khổ AFAS và hiện đang chuẩn bị đàm phán Gói 7. Ủy ban công tác về tự do hóa tài khoản vốn đang xây dựng khung tự do hóa tài khoản vốn để đánh giá mức độ tự do hóa của từng quốc gia, là cơ sở để các nước thành viên cập nhật về lộ trình tự do hóa tài khoản vốn của nước mình. Bên cạnh đó, các nước cũng triển khai đối thoại chính sách về cơ chế phòng vệ cho tự do hóa tài khoản vốn để theo dõi xu thế biến động của các dòng vốn trong ASEAN nhằm xác định các rủi ro tiềm ẩn, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính và tiền tệ.

– Ngoài ra, Việt Nam đã và đang tích cực cùng các nước ASEAN triển khai hợp tác trong một số nội dung khác như cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, v.v.              III. Vai trò và vị trí của Việt Nam trong quá trình xây dựng AEC:

Trong bối cảnh xây dựng AEC, vị trí và vai trò của nền kinh tế Việt Nam cần được xem cả trong khuôn khổ nội khối ASEAN và hội nhập nền kinh tế toàn cầu như sau:

Trong khuôn khổ nội khối:

– ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. 

– Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nâng cấp cả về chất lượng và giá trị. Xuất khẩu của ta sang ASEAN chiếm 11,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong 9 tháng đầu năm 2015. Từ những mặt hàng truyền thống mà ta có thế mạnh như nông sản sơ chế và nguyên nhiên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, thời gian qua Việt Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến với giá trị cao và ổn định. Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng gia nhập các câu lạc bộ các nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới về gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hàng dệt may. 

– Việt Nam là điểm đến đầu tư khá hấp dẫn của các nhà đầu tư ASEAN và và các nhà đầu tư khác đóng trụ sở tại ASEAN. Tính đến hết năm 2014, Xinh-ga-po, Ma-lay-xia, Thái Lan là ba nước thành viên ASEAN nằm trong danh sách 10 đối tác có vốn đăng ký FDI lớn nhất vào Việt Nam.

Trong khuôn khổ hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu:

– Trọng tâm của Cộng đồng Kinh tế ASEAN là sáng kiến phát triển thị trường và cơ sở sản xuất ASEAN chung dựa trên sự kết nối sức mạnh của thị trường 10 nước ASEAN với hơn 600 triệu người tiêu dùng và tổng GDP gần 3.000 tỷ đô la Mỹ/năm. 

– Việt Nam có quy mô dân số 90 triệu người dân, với tỷ lệ dân số trẻ ở mức cao, tổng GDP 184 tỷ đô la Mỹ năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,9% năm 2014 và 6,3% nửa đầu năm 2015. Vì thế, Việt Nam đóng góp đáng kể cho ASEAN cả về ý nghĩa thị trường và cơ sở sản xuất. 

– Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN hợp tác sâu rộng với nhiều đối tác quan trọng, đặc biệt trên cơ sở các FTA giữa ASEAN với Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ôt-xtrây-lia, Niu Di-lân và Trung Quốc, tích cực thúc đẩy việc đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Các nội dung hợp tác này đặt ASEAN vào vị trí trung tâm trong cấu trúc hội nhập kinh tế khu vực đang nổi lên và trở thành một trung tâm sản xuất và thị trường quan trọng của thế giới.

– Việt Nam cũng đồng thời tham gia nhiều các FTA với các đối tác ngoài khối như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, FTA với EU, với Liên minh Kinh tế Á-Âu, v.v. càng mở rộng khả năng tiếp cận thị trường và nâng cao tính ổn định, bền vững của thương mại và đầu tư thông qua các cam kết về môi trường kinh doanh, thương mại và đầu tư. 

– Bởi vậy, Việt Nam đóng vai trò là một điểm đến quan trọng cho đầu tư nước ngoài để sản xuất cho khu vực ASEAN và nhiều thị trường quan trọng. Đi cùng với đầu tư là dòng hàng hóa, dịch vụ và lao động có kỹ năng mà Việt Nam cần để nâng cao khả năng sản xuất của mình. Việt Nam cần hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng chất lượng cao, công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

– Do đó, dự kiến Việt Nam sẽ tận dụng tốt nền tảng hội nhập kinh tế khu vực ASEAN để tăng cường liên kết và hội nhập kinh tế với nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của thế giới trong tương lai.

IV. Đánh giá tác động tổng thể của AEC đối với Việt Nam 

– Quyết định gia nhập ASEAN là một bước đi chiến lược đúng đắn, mang lại lợi ích quan trọng và thiết thực cho Việt Nam. Đây là dấu mốc quan trọng, điểm đột phá đầu tiên trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, góp phần triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước.

– Sau 20 năm gia nhập ASEAN (28/7/1995-28/7/2015), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Hiệp hội với việc thúc đẩy tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015 và xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng 2025, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức trong quá trình tham gia hợp tác ASEAN, cụ thể:

Cơ hội:

– Sau khi hình thành vào cuối năm nay, AEC cơ bản sẽ trở thành một thị trường chung gồm khoảng 600 triệu người tiêu dùng với tổng GDP gần 3.000 tỷ USD, một không gian sản xuất thống nhất, giúp phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên. 

– Việt Nam sẽ có cơ hội dễ dàng tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua đó mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu, từ đó, góp phần cải cách quản lý, dịch chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.

Từ trước tới nay, ASEAN luôn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Tính đến 9 tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với thị trường ASEAN đạt 31,3 tỷ USD. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa sang khu vực thị trường ASEAN đạt trị giá 13,7 tỷ USD và chiếm 11,4% kim ngạch xuất khẩu của cả nước ra thế giới. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu xấp xỉ 17,6 tỷ USD hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN, chiếm 14,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ tất cả các thị trường. Tính đến tháng 9 năm 2015, ASEAN đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Trung Quốc và Hàn Quốc.

– Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường thu hút FDI cũng như mở rộng cơ hội đầu tư sang các nước ASEAN và cơ hội kinh doanh từ bên ngoài; tiếp cận các nguồn hỗ trợ về khoa học-công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tính đến hết tháng 10 năm 2015, ASEAN có 2.629 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 56,55 tỷ USD, bình quân 1 dự án là 21,51 triệu USD/dự án cao hơn so với bình quân đầu tư 1 dự án nước ngoài đầu tư tại Việt Nam là 13,9 triệu USD/dự án.

Xinh-ga-po dẫn đầu với 1.469 dự án, tổng vốn đầu tư là 33,9 tỷ USD, chiếm 60% tổng vốn đăng ký. Đứng thứ 2 là Ma-lai-xia với 510 dự án,  tổng vốn đăng ký là 13,36 tỷ USD, chiếm 24% tổng vốn đầu tư. Thái Lan  đứng thứ 3 với 406 dự án, tổng vốn đầu tư là 7,03 tỷ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư.

– Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi lớn nhờ phát huy hiệu quả từ quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh. Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào tăng trưởng và thịnh vượng chung của khu vực. Bên cạnh đó, định hướng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho thương mại mà ASEAN đang đặt ra cho giai đoạn sau 2015 sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp. 

– Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Thương mại và đầu tư nội khối có cơ hội phát triển nhanh chóng.

– Những tác động tích cực từ AEC sẽ góp phần tạo chuyển biến trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước, phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế. 

– Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN tạo nền tảng để Việt Nam tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam.

– Ngoài ra, tham gia hợp tác kinh tế ASEAN tạo cơ hội để các doanh nghiệp cải thiện năng lực cạnh tranh; tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng giá trị gia tăng (từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang mặt hàng có chất lượng cao); nâng cao năng lực và hiệu quả của nguồn nhân lực Việt Nam….

Thách thức: 

Ngoài ra, việc tuân thủ luật chơi chung và thực hiện các cam kết, thỏa thuận chung của ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác, đòi hỏi đầu tư nguồn lực và điều chỉnh chính sách, pháp luật phù hợp. 

Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, AEC sẽ đem lại nhiều cơ hội và lợi ích thiết thực cho nền kinh tế, đặc biệt là cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và doanh nghiệp ASEAN nói chung./.

Nguồn: Vụ chính sách thương mại đa biên – Bộ Công Thương

   

Gia Nhập Asean Giúp Kinh Tế Việt Nam Hội Nhập Sân Chơi Khu Vực Và Toàn Cầu

Việt Nam rất tích cực đưa ra những định hướng, quyết sách cho việc phát triển ASEAN.

Theo PGS.,TS. Nguyễn Huy Hoàng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), kể từ khi gia nhập ASEAN (năm 1995), ASEAN được coi là bệ phóng giúp Việt Nam hội nhập sân chơi khu vực và toàn cầu. Từ đó, Việt Nam tham gia rất nhiều cơ chế hợp tác khu vực, từ ASEAN+ đến các hiệp định thương mại tự do (FTA) khu vực mà ASEAN là trung tâm… Đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới, có độ mở kinh tế rất lớn với tỷ lệ kim ngạch thương mại/GDP hơn 200%.

Gia nhập ASEAN cũng là bệ phóng giúp Việt Nam hiện thực hóa mong muốn hội nhập khu vực và thế giới, mở rộng quan hệ thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, từ đó phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện cuộc sống người dân. Những cơ chế hợp tác này có lợi cho Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng quan hệ thương mại. Bằng chứng là, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình hơn 10 năm nay và thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.000 USD. Bên cạnh đó, Việt Nam luôn thể hiện sự tích cực thúc đẩy cơ chế hợp tác chung.

Cùng với chính sách mở cửa thu hút đầu tư, sau khi gia nhập ASEAN, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt từ ASEAN vào Việt Nam cũng đã tăng mạnh.

Trong 25 năm qua, Cộng đồng ASEAN đã ghi nhận những đóng góp của Việt Nam vào sự phát triển chung của Khối. Điển hình như: Việt Nam rất tích cực đưa ra những định hướng, quyết sách cho việc phát triển ASEAN, chỉ mới gia nhập ASEAN được 3 năm, vào năm 1998, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VI. Hội nghị đã đưa ra Chương trình Hành động Hà Nội với những nội dung rất quan trọng để triển khai Tầm nhìn 2020, tạo nền tảng cho việc thành lập Cộng đồng ASEAN sau này.

Đồng thời, Việt Nam đã đảm nhiệm rất thành công các nhiệm vụ luân phiên; tham gia rất nhiều đề xuất sáng kiến hợp tác thiết thực hướng tới người dân. Khi đề xuất thành lập Cộng đồng ASEAN, các quan chức ASEAN ban đầu chủ yếu tập trung cho việc xây dựng 2 cộng đồng chính, gồm Cộng đồng An ninh – Chính trị và Cộng đồng Kinh tế, còn Cộng đồng Văn hóa – Xã hội về sau mới được xây dựng với đóng góp lớn từ Việt Nam, bởi Việt Nam đề xuất nhiều sáng kiến về phúc lợi xã hội, giáo dục, y tế và gắn kết người dân ASEAN.

Đến nay, Việt Nam là một trong 2 quốc gia thành viên có tỷ lệ thực hiện cam kết cao nhất (chỉ sau Singapore), thực hiện trên 95,5% cam kết trong kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.

GS. Yasuhiro Yamada, trợ lý đặc biệt của Chủ tịch Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA) về vấn đề Campuchia – Lào – Myanmar – Việt Nam Vốn FDI từ các nước ASEAN chảy vào Việt Nam trong 25 năm qua đã khẳng định, Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn của khu vực. Những dòng vốn FDI vào các khu công nghiệp tại Việt Nam là xung lực đưa kinh tế Việt Nam đi lên, đồng thời giúp thu hẹp khoảng cách phát triển với các quốc gia trong khu vực.

25 Năm Việt Nam Tham Gia Asean: Chung Tay Vì Một Cộng Đồng Asean Gắn Kết Và Thích Ứng

Ngày 28/7/2020 đánh dấu 1/4 thế kỷ Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Đặc biệt năm nay, lễ kỷ niệm sự kiện đáng nhớ này trùng với thời điểm Việt Nam đảm nhiệm trọng trách Chủ tịch luân phiên lần thứ hai của Hiệp hội.

Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 là một trong những mốc quan trọng nhất trong lịch sử đối ngoại của Việt Nam kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng như trong quá trình phát triển của ASEAN. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa quan trọng, đưa khu vực Đông Nam Á từ đối đầu sang đối thoại, từ nghi kỵ sang tin cậy, từ chia rẽ sang đoàn kết. Với ASEAN, việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 giúp đẩy nhanh quá trình mở rộng Hiệp hội ra cả 10 nước trong khu vực, qua đó củng cố hòa bình, ổn định ở một khu vực có tầm quan trọng đặc biệt về địa – chính trị và địa – kinh tế, là trung tâm kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Khi Việt Nam gia nhập ASEAN, khu vực mới bước ra khỏi Chiến tranh Lạnh, vị thế, vai trò và quy mô kinh tế của ASEAN vẫn còn khiêm tốn. Song 25 năm qua đã chứng kiến sự đổi thay mạnh mẽ của Hiệp hội. Để đến nay, cả 10 nước Đông Nam Á trở thành một Cộng đồng thống nhất với uy tín ngày càng cao ở châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới.

Trên nền tảng các cơ chế Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), với sự hình thành Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), ASEAN dần trở thành một khu vực hòa bình, ổn định với vị thế từng bước được khẳng định. Việc thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) cùng với việc ký kết các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa ASEAN với hàng loạt các nền kinh tế chủ chốt trên thế giới đã góp phần tạo nên phồn vinh cho ASEAN, đưa ASEAN trở thành một trong những khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Năm 2019, ASEAN đã là mái nhà chung của khoảng 650 triệu người dân, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt hơn 3.200 tỉ USD và kim ngạch thương mại đạt 2.800 tỉ USD.

Đặc biệt, Cộng đồng ASEAN hình thành ngày 31/12/2015, đã đưa ASEAN trở thành một Cộng đồng gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và sẻ chia trách nhiệm xã hội. ASEAN ngày nay được coi là hình mẫu thành công về hợp tác khu vực. Các diễn đàn do ASEAN khởi xướng đã quy tụ được nhiều quốc gia, được tất cả các nước lớn coi trọng.

Không chỉ gắn kết, liên kết về nội khối, ASEAN còn tích cực mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, trở thành một đối tác quan trọng của các nước lớn trong và ngoài khu vực. Trên cơ sở quan hệ đối ngoại rộng mở bao gồm 10 đối tác đối thoại, trong đó có tất cả các nước lớn, tiếng nói ASEAN được lắng nghe và vai trò trung tâm của ASEAN ngày càng được củng cố.

Trên thực tế, vai trò trung tâm của ASEAN đã được khẳng định thông qua việc ASEAN thúc đẩy sự ra đời và dẫn dắt Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Mở rộng (ADMM Plus), đóng góp ngày càng quan trọng vào việc giải quyết những vấn đề chung của khu vực. Tiêu biểu là việc ASEAN đã bày tỏ lập trường kiên định trong việc duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông và khu vực, như Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) đang được kỳ vọng sớm hoàn tất, cùng nhiều tiến triển quan trọng khác.

Với Việt Nam, ngày 28 tháng 7 của 25 năm trước đồng thời là cột mốc quan trọng đánh dấu bước tiến rất quan trọng của Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế. Chúng ta đã từng bước hội nhập với tâm thế ngày càng tự tin, ngày càng tích cực, chủ động, không ngừng phát huy vai trò là một đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng các nước Đông Nam Á nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung.

Trong quá trình hội nhập của đất nước, ngành ngoại giao luôn đóng vai trò tiên phong đột phá, mở đường ra thế giới. Trong nhiệm vụ thuở ban đầu đưa đất nước phá thế bao vây, cô lập, ASEAN được xem là đột phá khẩu đầu tiên của Việt Nam trong hội nhập. Ở những giai đoạn sau, hội nhập và tham gia của Việt Nam trong ASEAN gắn liền với quá trình Đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước. Chúng ta đã có những bước tiến mạnh mẽ trong đổi mới tư duy đối ngoại, từ chủ trương “thêm bạn, bớt thù” tới trở thành “thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm” trong ASEAN và nay là phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh” 1, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, “chuyển từ đối đầu sang đối thoại” 2 .

Việt Nam từng bước khẳng định là một phần không thể tách rời của ASEAN và khu vực Đông Nam Á, gắn sự phát triển của đất nước với ASEAN và mong muốn gánh vác công việc chung của ASEAN. Chính sách đối với ASEAN đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Điều này được nhấn mạnh trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng về đối ngoại, đặc biệt là Chỉ thị 25-CT/TW ngày 8/8/2018 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.

Ngay sau khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy để các nước ở Đông Nam Á còn lại gia nhập ASEAN. Các nước Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia đã tham gia ASEAN lần lượt các năm 1997 và 1999. Qua đó, giấc mơ về một ASEAN gồm toàn bộ 10 nước Đông Nam Á đã trở thành hiện thực. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực, và có trách nhiệm khi tham gia vào các công việc của ASEAN trong đó có xây dựng thể chế cho ASEAN như Hiến chương ASEAN (2008), Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015), Kế hoạch Tổng thể 2009, 2015, và 2025, Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2015, 2025 và xa hơn …và triển khai toàn diện cả ba trụ cột Cộng đồng ASEAN. Việt Nam đã tổ chức tốt Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6, đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN (ASC) khóa 34 (7/2000-7/2001), Chủ tịch ASEAN 2010, và hiện đang nỗ lực hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2020. Với nhiều sáng kiến và đóng góp quan trọng như mở rộng EAS hay thành lập cơ chế ADMM cộng, Việt Nam tích cực cùng các thành viên ASEAN duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.

Thứ hai , tham gia ASEAN giúp chúng ta hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, huy động các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao sức mạnh tổng hợp. Tiếp sau quá trình tham gia ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các FTAs thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) giúp Việt Nam đẩy mạnh cải cách, mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu, thu hút đầu tư, ODA, qua đó giúp cho kinh tế tăng trưởng cao trong nhiều năm.

Thứ ba , hội nhập ASEAN giúp Việt Nam từng bước nâng tầm đối ngoại giao đa phương, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Thành công trong tham gia ASEAN đã và đang giúp Việt Nam thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ đối ngoại đa phương quan trọng như Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009, 2020-2021), đăng cai Cấp cao APEC (năm 2006, năm 2017), tích cực tham gia xây dựng các “luật chơi” quốc tế, hợp tác đối phó với các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, đối phó với đại dịch Covid-19…

Thứ tư , quá trình tham gia ASEAN 25 năm qua đã rèn luyện, đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đối ngoại, nhất là cán bộ làm công tác đa phương của Việt Nam; giúp chúng ta ngày càng vững vàng hơn khi “vươn ra biển lớn” – hội nhập toàn cầu.

Cái cách mà ASEAN vượt qua những sóng gió bất ngờ và không có tiền lệ mà đại dịch Covid-19 gây ra minh chứng cho một ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng, kiên định và không khuất phục trước nghịch cảnh. Hơn bao giờ hết, chúng ta thấu hiểu tầm quan trọng của tư duy Cộng đồng và hành động Cộng đồng. Như Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh “…các nỗ lực đơn lẻ cần được gắn kết lại, vượt tầm quốc gia, trở thành hành động chung của cả Cộng đồng ASEAN”./.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội Đảng VII , Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 154