Theo phương pháp cổ điển, bệnh viêm gan vàng da chia làm 2 loại Âm hoàng và Dương hoàng. Tuy nhiên, phương pháp phân loại này chỉ có tính chất tổng quát, chưa nói hết được tình trạng bệnh tật. Theo đà phát triển của Đông y, các nhà y học sau này thường phân loại theo các hình chứng bệnh tật như: Cốc đản, Tửu đản, Lao đản, Hắc đản, bệnh viêm gan cấp tính, viêm gan mạn tính, viêm gan vàng da, viêm gan không vàng da, viêm gan nặng…
I. Phân loại chứng trạng theo Hoàng đản (vàng da)Màu vàng là sắc chính của tỳ thổ. Bệnh vàng da nói ở đây cần phải hội đủ các triệu chứng: mắt vàng, mình vàng và tiểu tiện vàng. Tựu trung triệu chứng mắt vàng là đặc điểm quan trọng để phân biệt vàng da hay không. Sách Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc – Chư đản nguyên lưu có nói: “Thường nói mắt vàng là nói chứng vàng da (Hoàng đản), bởi vì mắt là nơi tụ hội của tông mạch, cái nhiệt của các kinh đều dồn lên mắt, cho nên mắt vàng. Có thể hiểu chắc chắn đây là chứng vàng da (Hoàng đản)”.
Xưa nay, đối với chứng vàng da (Hoàng đản) phân loại rất nhiều nhưng tất cả đều dựa trên màu sắc để quy nạp. Da vàng, sắc vàng tươi thuộc Dương hoàng, sắc vàng tối trệ không tươi thuộc Âm hoàng.
Dương hoàng gồm các trường hợp sau: vàng da do thấp nhiệt, vàng da do ôn dịch độc. Đặc điểm là bệnh phát nhanh, gấp, triệu chứng nặng và bệnh trình khá ngắn.
Âm hoàng gồm các trường hợp sau: vàng da do hàn thấp, vàng da do ứ huyết và vàng da do tỳ hư huyết suy. Đặc điểm của chứng Âm hoàng là bệnh khỏi từ từ, triệu chứng hơi nhẹ và bệnh tình kéo dài.
Trên lâm sàng biện chứng có thể căn cứ vào đặc điểm khởi bệnh, biểu hiện chứng hậu phân biệt sẽ không khó. Nhưng Dương hoàng lâu ngày không khỏi làm cho khí huyết suy tổn hoặc ứ trệ cũng có thể dẫn đến chứng Âm hoàng. Khi biện luận triệu chứng cần phải nắm vững và linh hoạt xem xét triệu chứng, tìm nguyên nhân mới không dẫn đến nhầm lẫn.
Nguyên nhân bệnh do thấp nhiệt uất kết ở trung tiêu hun đốt can đởm, đởm dịch tiết ra ngoài, thấm ra da thịt mà phát vàng da. Thông thường trên lâm sàng phân biệt qua ba loại hình chứng:
a. Trường hợp nhiệt nặng hơn thấp: Do nhiệt uất nặng hơn nên có triệu chứng phát nhiệt, miệng khát, tâm phiền muốn mửa, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện khô kết, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền sắc.
Phương pháp điều trị là dùng phép thanh nhiệt lợi thấp kiêm thông đại tiểu tiện.
b. Trường hợp thấp nặng hơn nhiệt: Do thấp uất trệ nặng hơn nên có các chứng đầu mình nặng nề, bụng trướng đầy, kém ăn, miệng khát nhưng không uống nhiều, tiểu tiện không lợi, đại tiện lỏng loãng, rêu lưỡi vàng nhầy nhớt, mạch hoạt hơi sác hoặc nhu hoãn.
Điều trị phải dùng phép lợi thấp hóa trọc kèm theo thuốc thanh nhiệt.
c. Trường hợp thấp nhiệt đều nặng: Triệu chứng chủ yếu phát nhiệt phiền khát, đầu nặng, thân thể khốn đốn, bụng trướng đầy, tiểu tiện vàng đỏ, đại tiện khô kết hoặc dính trệ khó đi, rêu lưỡi vàng dầy và nhớt, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.
Điều trị dùng phép thanh lợi thấp nhiệt kèm theo thuốc giải độc hóa trọc khiến cho thấp nhiệt theo đường đại, tiểu tiện phân lợi mà bài tiết ra ngoài.
2. Chứng vàng da do dịch độc: Chứng này thuộc Dương hoàng, còn gọi là Cấp hoàng. Ôn hoàng, thuộc loại cảm nhiễm dịch lệ lưu hành gây nên.
Chứng vàng da do dịch độc gây nên bệnh tình khá nặng, mặt, mắt, thân mình có màu vàng sẫm, kiêm chứng sốt cao, khát, muốn uống nước nhiều, phiền táo không yên hoặc có các chứng hôn mê nói sảng, tà vào doanh huyết, lưỡi đỏ tía, rêu lưỡi vàng sẫm, cũng có thể thấy chảy máu mũi, chảy máu răng, nôn ra máu, tiểu tiện ra máu, thân thể phát ban chẩn… Bệnh nặng thì tinh thần sa sút rất nhanh, dẫn đến hôn mê. Thấp nhiệt kiêm dịch độc bị uất hóa hỏa thúc ép làm cho đởm trấp trào ra ngoài da thịt cho nên xuất hiện chứng nhiệt độc quá thịnh.
Điều trị nên dùng phép thanh nhiệt giải độc, mát máu, khai khiếu.
3. Chứng vàng da do hàn thấp: Chứng này thuộc Âm hoàng, nguyên nhân là do hàn thấp uất trệ ở trung tiêu, dịch mật không theo đường bình thường mà tràn ra ngoài gây vàng da, sắc tối như hun khói, bệnh trình hơi dài, có các triệu chứng cơ thể sợ lạnh, tay chân lạnh, kém ăn, bụng trướng, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch trầm trì hoặc nhu tế. Nguyên nhân do hàn thấp ngăn trở ở trung tiêu, làm tổn hại dương khí của tỳ vị.
Phương pháp điều trị là dùng phép ôn hòa hàn thấp là chủ yếu, kèm theo thuốc kiện tỳ hòa vị.
4. Chứng vàng da do tỳ hư huyết suy: Nguyên nhân thường do mệt nhọc nội thương hoặc do ốm lâu khiến cho tỳ vị hư yếu, khí huyết suy tổn, can mất sự nuôi dưỡng, mất chức năng sơ tiết, dịch mật chảy trào ra ngoài gây nên vàng da, nên còn gọi là Hư hoàng. Đặc điểm của chứng vàng da do tỳ hư huyết suy là da toàn thân phát vàng sắc sẫm không tươi, kèm theo các chững trạng của khí huyết suy hư như đầu choàng, hồi hộp, mất ngủ, lưỡi nhạt.
Phương pháp điều trị là dùng phép kiện tỳ bổ khí, dưỡng huyết.
5. Vàng da do ứ huyết: Loại hình chứng này thuộc chứng Âm hoàng, bệnh khởi phát từ từ, sắc vàng tối không tươi.
Vàng da do ứ huyết nguyên nhân thường vì can uất khó trệ lâu ngày thành ứ, hoặc vì vàng da do thấp nhiệt lâu ngày dai dẳng không khỏi, thấp uất làm cho khí cơ không thông lợi, ứ tích trệ ở can đởm, dịch mật mất chức năng sơ tiết cho nên phát bệnh vàng da. Đặc điểm lâm sàng là vàng da sắc tối, sắc mặt đen sẫm, da thịt có tia màng nhện hoặc có nốt ứ huyết, dưới sườn có triệu chứng hòn khối đau do ứ huyết ngăn trở bên trong. Bệnh tình ngoan cố dai dẳng khó mà khỏi nhanh.
Phương pháp điều trị nên dùng phép hoạt huyết hành ứ, làm mềm khối u cứng (nhuyễn kiên) tán kết là chủ yếu.
II. Phân loại chứng trạng theo hiếp thống1. Thấp khốn tỳ vị: Nguyên nhân là do ăn uống không điều độ, ăn nhiều thức ăn dầu mỡ, thức ăn béo bổ, uống nhiều bia, lao động quá sức làm tổn thương tỳ vị, thấp tà xâm nhập tỳ vị ứ lại ở trung tiêu làm cho chức năng vận hóa của tỳ vị bị trở ngại, dần ảnh hưởng đến can.
2. Can uất khí trệ: Nguyên nhân là do tình chí không được thư thái, hay cáu giận đột ngột làm hại can; can không được điều đạt, mất chức năng sơ tiết dẫn đến can khí uất trệ ngăn trở đường lạc ở sườn dẫn đến sườn trướng đau.
3. Can âm bất túc: Nguyên nhân hoặc là do can uất hóa hỏa làm tổn thương âm hoặc là do thận âm bất túc ảnh hưởng đến can âm, hoặc là do huyết hư không nuôi được can, can âm bất túc, can không được nuôi dưỡng làm cho vùng sườn đau.
Theo Healthplus.vn