Tục Ngữ – Ca Dao – Mối liên hệ giữa Ca Dao và Dân Ca Ðịnh Nghĩa Tục Ngữ – Ca Dao (bài do Julia Nguyễn cung cấp)
Ngâm Kiều: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau… vân vân…Ru Con: Cái ngủ mày ngủ y y y cho à lâu Mẹ mày đi cấy ý y a ruộng sâu Chưa à về …
Hò Làm Việc Bước tiến thứ hai là từ dân ca của lúc ngồi hay lúc nằm trong nhà tiến tới dân ca dùng trong công việc hàng ngày (tức là loại hò làm việc) như “hò dô ta”, “hò đẩy xe”, “hò chèo thuyền”, “hò cấy lúa”, “hò đạp nước”, “hò giã gạo” , “hò nện” v.v… Ở đây, dân ca không còn là bài hát tâm tình mà trở thành bài hát trợ sức làm việc, người hò (hò = hô to lên) bắt buộc phải tạo ra nhịp điệu (tiết tấu) của công việc. Dân ca không còn tính chất cá nhân mà mang tính chất tập thể, có giọng chính, giọng phụ, có hò cái, hò con. Ví dụ :
Hò Dô Ta: Giọng chính (Hò cái) : Ta dô ta Giọng phụ (Hò con) : Dô Giọng chính (Hò cái) : Ta kéo gỗ Giọng phụ (Hò con) : Dô Giọng chính (Hò cái) : Gỗ làm đình Giọng phụ (Hò con) : Dô v.v…Hò Nện (công việc nện đất làm nền xây nhà) Hò cái : Mời bạn hò khoan này Hò con : Hụ là khoan Hò cái : A lá khoan hò khoan là Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Biết răng chừ Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Cho tới tháng hai Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Con gái làm ruộng Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Con trai be bờ Hò con : Hụ là khoan Hò cái : A lá khoan hò khoan là Hò con : Hụ là khoan… v.v…
Hò Nghỉ Ngơi Hò của người Việt Nam khi xưa không hẳn chỉ là “hò làm việc” (work song) mà còn là “hò nghỉ ngơi” (rest song) nữa. Làm việc đầu tắt mặt tối đến mấy thì cũng có lúc phải ngưng tay chứ. Ðây là lúc trai gái trao tình với nhau, và khi trao đổi câu hát như thế thì họ cũng gọi luôn là hò. Và chúng ta có “hò giao duyên”, “hát huê tình”, “hò chơi”, “hò đối đáp” v.v…
Hò Giao Duyên: Gặp nhau đây mới đầu trăng gió Hỏi một lời : đã có chồng chưa ?
mang tính chất địa phương và huê tình thì có : Hò Chơi Ghe anh nhỏ mũi trảng lườn Ở trên Gia Ðịnh xuống vườn thăm em…
(Xin chú ý: Hò Nghỉ Ngơi không giàu tiết tấu bằng Hò Làm Việc).
Hò Hội hay Hát Hội Sau giai đoạn hát tâm tình, hát làm việc, hát nghỉ ngơi… dân ca Việt Nam bước tới giai đoạn hát đám, hát hội. Người dân đem nhau ra trước công chúng để thi hát với nhau trong những hội hè đình đám. Trước tiên là hình thức “hát soan” (túc là hát trong hội mùa xuân), “hát đúm” (túc là hát đám), “hát ví” v.v… Rồi có bàn tay nghệ sĩ (nghệ nhân) nhúng vào một loại hát cần phải phong phú hơn các loại chỉ có tính cách tự phát của người dân. Phải có tổ chức trong Hát Hội, ví dụ : “hát trống quân” cần cái trống đất để đệm cho người hát. Và tổ chức cao nhất của hát hội phải là “hát quan họ” vì người ta cần phải phát minh ra rất nhiều lối hát, điệu hát khác nhau.
Trong Dân Ca Cổ Việt Nam, tổ chức Hát Quan Họ được coi là hình thức nghệ thuật cao nhất của lớp nông dân, phát sinh từ vùng Bắc Ninh, Bắc Việt. Nó không còn là loại ca hát giản dị hằng ngày dành riêng cho từng người mà trở thành trò tiêu khiển của đám đông và luôn luôn cần có bàn tay nghệ thuật làm cho nó thêm phong phú.
Hát Ví (trong Hát Quan Họ) Cô cả cô hai đó ơi ! Ở nhà tôi mới tới đây Lạ thung lạ thổ tôi nay lạ nhà Ba cô tôi lạ cả ba Bốn cô lạ bốn biết là quen ai? Ðến đây lạ cả bạn trai Lạ cả bạn gái biết ai mà chào Bây giờ biết nói làm sao Biết ai quen thuộc mà vào trình thưa Cô cả cô hai đó ơi !
Hát Trống Quân : Trên trời (mà) có đám mây xanh Dưới đất (thì) mây trắng Chung quanh mây vàng Thình thùng thình… Ước gì (mà) anh lấy được nàng Thì anh mua gạch Bát Tràng đem về xây Thình thùng thình..
.
Hát Quan Họ Mở đầu cuộc hát thi là những câu hát giản dị như bài Hát Mời Trầu : Mời cô sơi miếng trầu nầy Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng Dù chẳng nên đạo vợ chồng Ăn dăm ba miếng cho lòng anh vui
Rồi cuộc thi hát trở nên phứt tạp hơn với những bài hát có rất nhiều tính chất nghệ thuật như Ngồi Tựa Mạn Thuyền hay là Se Chỉ Luồn Kim…
Hát Thờ Dân ca có mặt trong đời sống tình cảm, đời sống xã hội và có mặt luôn trong đời sống tâm linh của người dân nữa. Do đó ta có “Hát Chầu Văn”, “Hát Bóng”… là loại hát thờ. Không cần nói thì ta cũng thấy về phần nhạc thuật, người đàn, hát (cung văn), người đánh trống phải làm sao để người hầu bóng có thể bị thôi miên và lên đồng được.
Giọng Cờn (Hát Bóng Cô) : Ðằng vân giá võ về nơi Thủy Tề Các quan vui trên ngàn dưới địa Vui đền thờ qúy địa danh lam Quần thần văn võ bá quan Công đồng yến ẩm thạch bàn còn ghi…
Hát Rong Dân Ca khi xưa còn là những tờ báo truyền miệng, đem chuyện vùng này tới vùng kia qua hình thức hát rong với lối “hát vè”, “hát xẩm”…
Vè Kể Chuyện Con Gái Mê Hát Bội Nghe giống trống kỳ Rủ nhau ra đi Ðến làm chật chỗ Lúc này không ngộ (hay) Mới đánh đầu tuồng Chạy thẳng vô buồng Thấy hai chú tướng Tướng này không sướng Không bằng tướng kia Ai về thì về Tôi coi tới sáng..
Tục ngữ là câu nói có ý nghĩa, dễ nhớ vì có vần có điệu, lưu hành bằng cách truyền khẩu Ca dao là dân ca tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy. Dân ca là ca dao đã trở thành câu hát, bài hát, điệu hát.
Trích “Khái Quát về Dân Nhạc Dân Ca Việt Nam” – tác giả Phạm Duy