Vì Sao Nước Biển Mặn / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Vì Sao Nước Biển Mặn?

Chuyện kể cho bé

Ngày xưa ở bờ biển nọ, có một ông lão đánh cá rất nghèo. Ngày ngày, ông ra biển đánh cá rồi đem cá ra chợ đổi lấy bánh mì và muối để sống qua ngày.

Một hôm, như thường lệ, ông lão cũng mang lưới ra biển đánh cá. Khi kéo lưới lên, ông chỉ thấy một con cá nhỏ, vảy và đuôi vàng óng. Con cá van nài:

– Ông lão ơi, ông đừng giết tôi, ông muốn gì, tôi xin giúp.

Nghe nói, ông lão thở dài:

– Lão nghèo lắm, cả đời đến muối cũng chẳng có mà ăn. Ta chỉ mong trong nhà lúc nào cũng có muối mà thôi.

– Thế thì tôi sẽ cho ông một cái cối xay muối. Khi cần ông chỉ việc nói: “Cối ơi, hãy xay muối đi!”. Lúc nào ông muốn nó dừng lại thì nói: “Cối ơi. thôi đủ rồi”.

Nói rồi con cá biến mất. Trước mặt ông lão hiện ra một chiếc cối nhỏ. Ông trở về với chiếc cối xay trong tay. Ông mang ra xem và thử nói:

– Cối ơi, hãy xay muối đi.

Tức thì, từ chiếc cối, những hạt muối trắng tinh óng ánh chảy ra. Ông lão sung sướng hứng muối cho mình. Khi thấy đủ, ông nói:

– Cối ơi, thôi đủ rồi!

Sau đó ông đem muối chia cho dân làng, nhà ai cần ông cũng mang cho. Từ đó dân làng rất mừng vì có đủ muối ăn.

Dần dần tiếng đồn về chiếc cối đến tai một lão nhà giàu ở làng bên. Hắn rắp tâm ăn trộm chiếc cối của ông lão nghèo. Một hôm khi hàng xóm đã ngủ say, ông lão cũng nằm ngủ dưới bếp, bên cạnh chiếc cối đang làm việc, nó xay muối để sáng mai ông kịp phân phát cho dân làng. Tên nhà giàu chèo thuyền sang nhà ông, hắn lẻn vào đánh cắp chiếc cối rồi nhanh chóng trở ra thuyền

Đặt chiếc cối vào khoang, hắn vội vàng chèo thuyền ra biển. Chiếc cối thì vẫn đang xay muối. Muối trong thuyến đầy dần. Ra đến giữa biển, chiếc thuyền nặng nề, chòng chành. Tên nhà giàu ra sức chèo. Lúc đó trời bổng nhiên nổi gió, rồi gió bão mỗi lúc một to. Lúc này, lão nhà giàu thấy cần phải bắt chiếc cối dừng lại, nhưng hắn không biết làm thế nào trong khi muối thì đã đầy. Gió bão dữ dội, mấy lần chiếc thuyền suýt bị lật. Hoảng quá cuối cùng tên nhà giàu phải kêu cứu. Nhưng khi dân làng chạy ra đến bờ biển thì cũng là lúc mọi người trông thấy một cơn sóng lớn chồm lên nhận chìm cả tên nhà giàu lẫn chiếc thuyền chở đầy muối.

Cho đến ngày nay chiếc cối vẫn còn đang ở dưới đáy biển và vẫn tiếp tục xay ra những hạt muối làm cho nuớc biển trở nên mặn.

Biển Nào Mặn Nhất Thế Giới? Tại Sao Nước Biển Lại Mặn

Tại sao nước biển lại có vị mặn?

Trên thế giới có 5 đại dương công nhận, đó là: Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương, Đại Tây Dương và Nam Đại Dương. Nước biển chứa đựng nhiều hợp chất hỗn hợp phức tạp từ các loại muối khoáng và từ các xác sinh vật biển bị phân hủy. Khi núi được hình thành, các khoáng chất từ trên đất liền bị nước mưa và các dòng suối cuốn trôi ra biển và tích tụ dần thành lượng nước lớn như bây giờ. Theo Cục Hải Dương và khí quyển Mỹ (NOAA), muối này có nguồn gốc từ đá trên đất liền. Axit trong nước mưa phá vỡ đá, thu giữ ion trong đá và mang chúng ra biển. Phần lớn các ion này là natri và clo, hai loại ion kết hợp với nhau tạo thành muối trong đại dương.

Một phần nữa khiến nước biển mặn là bởi vì đá và các trầm tích dưới đáy biển tạo ra một lượng muối trong đại dương. Hơn nữa, muối trong nước biển còn đến từ các loại chất khí và rắn bên trong lòng Trái Đất thoát ra từ các miệng núi lửa dưới đại dương.

Đại dương mặn đến mức nào?

Theo các nhà khoa học ước tính, có hơn 50 tiệu tỷ tấn chất hòa tan trong các đại dương trên thế giới. Chúng ta hãy tưởng tượng, nếu có thể tách muối trong nước biển ra rồi mang lên mặt đất và trải đều khắp lục địa, lượng muối đấy sẽ tạo ra một lớp dày tới 153m.

Các nhà khoa học tính toán rằng, trong 28 lít nước biển có chưa khoảng 1kg muối. Đem ra so sánh nước biển mặn hơn nước ngọt trong hồ khoảng 220 lần.

Tuy nhiên độ mặn của nước biển ở các khu vực không giống nhau. Đều này phụ thuộc vào các yếu tố lượng mưa, mức độ bay hơi, mức độ băng tan, lượng chảy của sông suối, tuyết rơi,,,vào các dòng hải lưu.

Biển nào mặn nhất thế giới?

Bạn có biết, biển chất cực mặn, nhưng vẫn còn nơi khác mặn hơn nó. Biển Chết là một phần của vết nứt dài Đại Thung lũng với 6.000km từ dãy Taures (Thỗ Nhĩ Kỳ) đến thung lũng Zambezi (nam Châu Phi).  Khu vực này trũng nhất Trái Đất, thấp hơn 429m so với mực nước biển. Một loại hồ từng xuất hiện ở thung lũng này nhưng sau đó biến mất 15.000 năm trước, chỉ còn lại Biển Chết. Chính vì thế, vùng biển này được xem như một hồ siêu mặn. Biển Chết dài khoảng 75km, nơi sâu nhất và rộng nhất là 400m và 18km. Bề mặt nằm ở 417,5m dưới mực nước biển.

Trãi qua nhiều thời gian, hồ nước này tích tụ nhiều muối từ các dòng sông đổ về, tích tụ dần vượt qua cả độ mặn của đại dương. Quá trình này được gọi là phong hóa lục địa.

Nước ngọt từ sông Jordan là nguồn duy nhất chảy vào Biển Chết. Tuy nhiên, ở đây lại không có con kênh hay dòng chảy nào dẫn nước từ hồ ra đại dương. Nước tích tụ trong Biển Chết và bốc hơi nhanh hơn tốc độ của nước biển trong đại dương, khiến nồng độ muối Biển Chết cao hơn các đại dương.

Vùng biển có độ mặn nhết trên Trái Đất thuộc về biển Đỏ và khu vực vịnh Ba Tư. Đây là 2 khu vực được ghi nhận có tốc độ bay hơi của nước biển cao nhất, với 40 0/00 (đơn vị phần nghìn o/oo để đo lường độ mặn).

Nước biển nhạt nhất thuộc về khu vực Bắc Cực và nam Cực. Điều này cũng dễ hiểu, đây là 2 khu vực có nhiệt độ thấp và lượng mưa và băng tan liên tục.

Có thể bạn muốn biết: Đại dương nào lớn nhất trên trái đất

4.9

/

5

(

11

bình chọn

)

Tại Sao Nước Biển Có Vị Mặn?

là vì nước biển có muối hòa tan trong đó.

là nước từ các biển hay đại dương. Về trung bình, nước biển của các đại dương trên thế giới có độ mặn khoảng 3,5%. Điều này có nghĩa là cứ mỗi lít (1.000 mL) nước biển chứa khoảng 35 gam muối, phần lớn (nhưng không phải toàn bộ) là clorua natri (NaCl) hòa tan trong đó dưới dạng các ion Na+ và Cl-. Nó có thể được biểu diễn như là 0,6 M NaCl. Nước với mức độ thẩm thấu như thế tất nhiên không thể uống được.

Độ mặn trung bình năm của nước biển bề mặt đối với các đại dương. Dữ liệu lấy theo 2001 World Ocean Atlas

Độ mặn và các tính chất khác của nước biển có độ mặn không đồng đều trên toàn thế giới mặc dù phần lớn có độ mặn nằm trong khoảng từ 3,1% tới 3,8%. Khi sự pha trộn với nước ngọt đổ ra từ các con sông hay gần các sông băng đang tan chảy thì nước biển nhạt hơn một cách đáng kể. Nước biển nhạt nhất có tại vịnh Phần Lan, một phần của biển Baltic. Biển hở mặn nhất (nồng độ muối cao nhất) là biển Đỏ (Hồng Hải), do nhiệt độ cao và sự tuần hoàn bị hạn chế đã tạo ra tỷ lệ bốc hơi cao của nước bề mặt cũng như có rất ít nước ngọt từ các cửa sông đổ vào và lượng giáng thủy nhỏ. Độ mặn cao nhất của nước biển trong các biển cô lập (biển kín) như biển Chết cao hơn một cách đáng kể.

Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng 1.020 tới 1.030 kg/m³ tại bề mặt còn sâu trong lòng đại dương, dưới áp suất cao, nước biển có thể đạt tỷ trọng riêng tới 1.050 kg/m³hay cao hơn. Như thế nước biển nặng hơn nước ngọt (nước ngọt tinh khiết đạt tỷ trọng riêng tối đa là 1.000 g/ml ở nhiệt độ 4 °C) do trọng lượng bổ sung của các muối và hiện tượng điện giải. Điểm đóng băng của nước biển giảm xuống khi độ mặn tăng lên và nó là khoảng -2 °C (28,4 °F) ở nồng độ 35‰. Do đệm hóa học, độ pH của nước biển bị giới hạn trong khoảng 7,5 tới 8,4. Vận tốc âm thanh trong nước biển là khoảng 1.500 m*s−1 và dao động theo nhiệt độ của nước cùng áp suất.

Thành phần của nước biển trên Trái Đất theo các nguyên tố

Khác biệt thành phầnNước biển giàu các ion hơn so với nước ngọt. Tuy nhiên, tỷ lệ các chất hòa tan khác nhau rất lớn. Chẳng hạn, mặc dầu nước biển khoảng 2,8 lần nhiều các bicacbonat hơn so với nước sông dựa trên nồng độ phân tử gam, nhưng tỷ lệ phần trăm của bicacbonat trong nước biển trên tỷ lệ toàn bộ các ion lại thấp hơn so với tỷ lệ phần trăm tương ứng của nước sông do các ion bicacbonat chiếm tới 48% các ion có trong nước sông trong khi chỉ chiếm khoảng 0,41% các ion của nước biển. Các khác biệt như vậy là do thời gian cư trú khác nhau của các chất hòa tan trong nước biển; các ion natri và clorua có thời gian cư trú lâu hơn, trong khi các ion canxi (thiết yếu cho sự hình thành cacbonat) có xu hướng trầm lắng nhanh hơn.

Giải thích địa hóa họcCác giả thuyết khoa học về nguồn gốc của muối trong nước biển đã bắt đầu có từ thời Edmond Halley vào năm 1715, người cho rằng muối và các khoáng chất khác đã được đưa ra biển bởi các con sông, do chúng được lọc qua các lớp đất nhờ mưa. Khi ra tới biển, các muối này có thể được giữ lại và cô đặc hơn nhờ quá trình bay hơi của nước (xem Chu trình thủy học). Halley cũng lưu ý rằng một lượng nhỏ các hồ trên thế giới mà không có các lối thoát ra đại dương (như biển Chết và biển Caspi) phần lớn đều có độ chứa muối cao. Halley đặt tên cho quá trình này là “phong hóa lục địa”.

Thành phần hóa học của nước biển

Giả thuyết của Halley là đúng một phần. Ngoài ra, natri cũng đã được lọc qua lớp đáy của các đại dương khi chúng được hình thành. Sự hiện diện của nguyên tố còn lại chiếm đa số trong muối (clo) được tạo ra nhờ quá trình “thải khí” của clo (như axít clohiđric) với các khí khác từ lớp vỏ Trái Đất thông qua các núi lửa và các miệng phun thủy nhiệt. Natri và clo do đó trở thành các thành phần phổ biến nhất của muối biển.

Độ mặn của nước biển đã ổn định trong nhiều triệu năm, phần lớn có lẽ là do hệ quả của các hệ thống hóa học/kiến tạo làm cho muối bị trầm lắng, chẳng hạn các trầm lắng natri và clorua bao gồm các trầm tích evaporit và các phản ứng với bazan đáy biển. Kể từ khi các đại dương hình thành thì natri không còn được lọc ra từ đáy đại dương mà nó bị giữ lại trong các lớp trầm tích che phủ lên trên đáy đại dương. Một giả thuyết khác cho rằng các mảng kiến tạo đã làm cho muối bị giam hãm phía dưới các khối đất của lục địa và ở đó nó một lần nữa lại được thấm lọc dần tới bề mặt.

Thành phần mol tổng cộng của nước biển (Độ mặn = 35)

Tiêu thụ nước biển của con ngườiTiêu thụ ngẫu nhiên một lượng nhỏ nước biển sạch thì không nguy hại, nếu như nó được sử dụng cùng một lượng lớn nước ngọt. Tuy nhiên, tiêu thụ nước biển để duy trì sự hydrat hóa là phản tác dụng; khi sử dụng dài lâu hơn thì phải tiêu tốn nhiều nước hơn để loại bỏ muối có trong nước biển (thông qua bài tiết dưới dạng nước tiểu hay mồ hôi) so với lượng nước thu được từ việc uống nước biển.

Điều này xảy ra do lượng clorua natri trong máu người luôn được thận điều tiết và duy trì trong một khoảng hẹp chỉ khoảng 9 g/L (0,9% theo trọng lượng). Uống nước biển với nồng độ khoảng 3,5% các ion clorua và natri hòa tan) nhất thời gia tăng nồng độ các ion này trong máu. Điều này kích thích thận gia tăng hoạt động bài tiết natri, nhưng nồng độ natri của nước biển là cao hơn khả năng cô tối đa của thận. Cuối cùng, với lượng gia tăng thêm nữa của nước biển thì nồng độ natri trong máu sẽ vượt ngưỡng gây ngộ độc, nó loại bỏ nước từ mọi tế bào và gây trở ngại cho truyền dẫn tín hiệu thần kinh; gây ra ngập máu và loạn nhịp tim, có thể gây tử vong.

Cũng cần lưu ý là một số loài động vật thích nghi được với các điều kiện sống khắc nghiệt. Chẳng hạn, thận của chuột sa mạc có khả năng cô natri hiệu quả hơn so với thận người và vì thế chúng có thể sống sót kể cả khi buộc phải uống nước biển.

Các cẩm nang sinh tồn đều đưa ra các tư vấn chống lại việc uống nước biển một cách kiên quyết. Chẳng hạn, sách “Medical Aspects of Harsh Environments” (Chương 29 – Shipboard Medicine) đưa ra tổng quan của 163 trường hợp phải sống trên bè mảng trên biển. Rủi ro tử vong ở những người uống nước biển là 39% so với rủi ro 3% ở những người không uống nước biển. Tác động của uống nước biển cũng được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trên chuột. Nghiên cứu này xác nhận các tác động tiêu cực của uống nước biển khi khử hydrat.

Nước biển để rửa nhà vệ sinhHồng Kông đang sử dụng một cách tích cực nước biển để dội rửa nhà vệ sinh trên phạm vi cả thành phố. Hơn 90% các nhà vệ sinh ở Hồng Kông được dội rửa bằng nước biển, như là một biện pháp để bảo tồn các nguồn nước ngọt. Sự phát triển của ý tưởng này đã bắt đầu từ những năm thập niên 1960 và 1970 khi sự thiếu nước ngọt đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng do dân số của thuộc địa này của Anh (thời điểm đó) tăng lên. Một khía cạnh thú vị của ý tưởng này là xử lý nước thải như thế nào. Nước mặn không thể xử lý (trong các xí nghiệp xử lý nước thải) bằng các phương pháp thông thường.

Khía cạnh văn hóaThậm chí trên tàu thuyền hay đảo ở giữa đại dương vẫn có hiện tượng “thiếu nước”, Tất nhiên, ở đây là thiếu nước ngọt. Nước biển chỉ có thể trở thành nước uống được nhờ các quy trình khử muối như sử dụng các công nghệ của thiết bị bốc hơi chân không, thiết bị bốc hơi flash hay công nghệ thẩm thấu ngược. Tuy nhiên, các công nghệ đó rất tiêu tốn năng lượng và nó gần như không thực tế và không thể trong thời đại thuyền buồm trong giai đoạn thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Ngoài ra, nó không thể dùng để uống do nồng độ của các khoáng chất hòa tan trong nó là rất cao.

Sự quyến rũ của việc uống nước biển luôn là lớn nhất đối với các thủy thủ khi đã cạn nước ngọt dự phòng trong khi lại hoàn toàn không có mưa để lấy nước uống. Sự thất vọng này được miêu tả trong các dòng trong trường ca The Rime of the Ancient Mariner của Samuel Taylor Coleridge (1772-1834):

“Water, water, every where,Nor any drop to drink.”

Mặc dù một điều rõ ràng là con người không thể sống sót chỉ dựa vào mỗi nước biển, nhưng một số người lại tuyên bố rằng người ta có thể uống tới 2 cốc mỗi ngày, nếu trộn nó với nước ngọt theo tỷ lệ 2:3, mà không thấy xuất hiện các triệu chứng bệnh tật. Bác sĩ người Pháp Alain Bombard (1924-2005) tuyên bố rằng ông đã sống sót sau chuyến vượt đại dương trên một bè mảng nhỏ chỉ sử dụng nước biển và các sản vật khác thu được từ đại dương, nhưng tính chân thực trong các khám phá của ông là đáng ngờ. Trên bè Kon-Tiki năm 1947, Thor Heyerdahl (1914-2002) thông báo rằng việc uống nước biển trộn lẫn với nước ngọt theo tỷ lệ 40/60%. Năm 1954, một nhà thám hiểm khác là William Willis (1897-1968) đã tuyên bố rằng ông đã uống 2 cốc nước biển và một cốc nước ngọt mỗi ngày trong vòng 70 ngày mà không thấy các triệu chứng bệnh tật khi ông mất nguồn cung cấp nước ngọt.

Sự Tích Nước Biển Mặn

Sự tích nước biển mặn – Truyện cổ tích đã giải thích tại sao biển mênh mông vô tận như thế mà nước biển lại mặn? Biển lấy đâu ra nhiều muối vậy các em nhỉ?

Sự tích nước biển mặn – Truyện cổ tích Việt Nam chọn lọc cho bé

Ngày xưa, ở làng bên có hai anh em ruột. Hai người cùng cha mẹ mà tính nết khác biệt nhau hoàn toàn. Cuộc sống cũng khác biệt nhau một trời một vực.

Người anh giàu có sống trong một ngôi nhà lớn có của chìm, của nổi, tha hồ ăn chơi phè phỡn. Người em thì nghèo khó cùng vợ con sống trong một túp lều nhỏ. Tuy nghèo nhưng anh được mọi người quý mến vì tính hay thương người, còn người anh thì chẳng mấy ai ưa vì tính keo kiệt, tham lam và ích kỷ.

Có lần đúng vào ngày lễ hội, gia đình người em chẳng có gì để ăn, đến một cái bánh mốc hay bát cháo loãng cũng không có. Thương vợ, thương con, người em bấm bụng đánh liều đến cầu xin người anh giàu có giúp đỡ. Vừa thấy bóng người em xuất hiện ở cửa, người anh keo kiệt bủn xỉn cất giọng thô bạo hỏi:

– Mày đến xin gì vậy?

Người em van:

– Bác hãy thương lấy các cháu, xin bác cho chúng một ít gì để ăn vì hôm nay là ngày lễ lớn.

Người anh ném cho em một cái bánh mốc meo:

Mặc dù bị xỉ nhục nhưng người em vẫn không quên cảm ơn anh mình. Trên đường về nhà, bỗng người em gặp một cụ già phúc hậu. Cụ già bảo anh:

– Ta biết con rất nghèo nên muốn giúp con. Ta biết con rất cần chiếc bánh này nhưng con hãy làm theo lời ta. Con hãy đi vào rừng, góc rừng phía Tây ấy. Ở đó có cây cổ thụ rất to là nơi trú ngụ của quỷ. Trong hốc cây có một cái nồi bằng đá. Khi nhìn thấy chiếc bánh của con, bọn quỷ sẽ thèm và lấy vàng bạc gạ đổi nhưng con chỉ đổi bánh cho quỷ lấy chiếc nồi bằng đá. Chiếc nồi đó là chiếc nồi thần, sẽ cho con cuộc sống đầy đủ và còn có thể giúp những người nghèo khổ nữa.

Nghe lời cụ già, người em đi thẳng tới gốc cây. Ở đó, bọn quỷ đông nhung nhúc, đứa đứng, đứa ngồi, mặt mày đứa nào trông cũng dữ tợn. Nhìn chiếc bánh, lũ quỷ gào thét:

– Này, thằng người kia! Hãy đưa chiếc bánh cho chúng ta, chúng ta sẽ cho nhiều vàng bạc châu báu.

– Không, tôi không lấy vàng đâu, tôi chỉ lấy chiếc nồi bằng đá ở trong hốc cây thôi.

Lũ quỷ đói đổi ngay chiếc nồi bằng đá lấy cái bánh mốc. Người em ôm chiếc nồi về nhà, về đến nhà thì trời cũng vừa nhá nhem tối. Người vợ và những đứa con tội nghiệp chạy ùa ra đón anh. Vì hy vọng là có cái gì để ăn nên khi thấy cái nồi bằng đá thì họ thở dài buồn bã:

– Hãy lại đây và đừng buồn nữa. Chúng ta được no đủ rồi.

Anh đặt chiếc nồi giữa nhà, cầu xin nồi cho cả nhà một bữa ăn ngon, ăn no vì đã bao ngày nay vợ chồng con cái anh chỉ có rau cháo qua ngày. Anh vừa dứt lời thì một mâm cỗ đầy đủ sơn hào hải vị hiện ra, toả mùi thơm ngào ngạt. Nhìn vợ con ăn uống ngon lành, anh thấy lòng mình thật sung sướng. Ăn xong, anh xin thần cho anh một ngôi nhà đẹp, quần áo vàng bạc và đồ trang sức. Tức thì mọi thứ xuất hiện ngay.

Sáng hôm sau, dân làng kinh ngạc thấy chỗ túp lều tồi tàn của anh hôm qua nay dã mọc lên một ngôi nhà nguy nga tráng lệ. Tin về chiếc nồi đá diệu kỳ bay khắp nơi. Tin ấy đến tai cả những người buôn bán lớn ở vùng xa. Họ mang đủ thứ quý giá xin đổi lấy chiếc nồi đá nhưng người em không đổi.

Thế rồi một hôm, có người buôn muối lấy cắp chiếc nồi đem lên thuyền chuồn ra biển. Khi tới giữa biển, người ấy xin nồi cho mình muối. Tức thì chiếc nồi tuôn ra bao nhiêu là muối, muối tuôn mãi, tuôn mãi không ngừng. Chiếc thuyền đầy ắp muối bị đắm giữa biển sâu đem theo cả chiếc nồi đá xuống đáy biển. Thế là từ ngày đó, chiếc nồi cứ tiếp tục tuôn ra muối và muối lại hoà vào nước biển. Vì thế mà nước biển mặn cho đến tận bây giờ.

– Truyện cổ tích nàng tiên ốc – Bài học ý nghĩa từ truyện cổ tích giúp bé biết sống yêu thương, giúp đỡ mọi người xung quanh

– Ý nghĩa câu thành ngữ vịt hóa thiên nga từ truyện cổ tích vịt con xấu xí của nhà văn Andersen

– Bài học đầu tiên của Gấu con – Truyện ngắn ý nghĩa giúp bé biết nói lời cảm ơn và nói xin lỗi