Vì Sao Nói Thế Giới Rộng Lớn Đa Dạng / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Cách Dạy Trẻ Chậm Nói Như Thế Nào? Vì Sao Trẻ Bị Chậm Nói?

Vì sao trẻ chậm nói?

Có hai group tác nhân khiến trẻ em chậm nói bao gồm: tác nhân tâm lý và tác nhân thực thể:

Nguyên nhân thực thể: đến từ những vấn đề tại các phòng ban, cơ quan trong cơ thể đảm trách nhiệm phát âm như tai, mũi, họng, lưỡi..hoặc cơ quan giữ vai trò chỉ huy ngôn ngữ ví dụ như não hoặc các trục trặc tại não ( khiếm khuyến trong sự tăng trưởng não bộ, viêm màng não, dị tật bẩm sinh…)

Nguyên nhân tâm lý: Do trẻ bị cú sốc tâm lý, hoặc do gia đình bỏ bê, không quan tâm đến trẻ. Quá cưng chiều cũng có khả năng trở thành tác nhân khiến trẻ chậm nói, lười nói.

Khi mà đã hiểu được nguyên nhân, cha mẹ hay người chăm sóc bé luôn phải chủ động thúc đẩy cho quá trình học nói của bé phù hợp với lứa tuổi sao cho đạt mốc triển ngôn ngữ tự nhiên. Bởi não của trẻ tăng trưởng nhanh nhất là ở giai đoạn trước 3 tuổi sau đấy chậm hơn từ 3 – 6 tuổi. Sau 6 tuổi các can thiệp tập nói sẽ có hậu quả hạn chế nhất định.

Khi nào cần dạy trẻ chậm nói?

Cha mẹ cần phải nắm được các mốc phát triển ngôn ngữ của trẻ và kịp thời phát hiện các dấu hiệu bất thường trong quá trình tăng trưởng ngôn ngữ của con mình để dạy trẻ chậm nói sớm. Các biểu hiện bất thường về phát triển ngôn ngữ ở trẻ:

Trẻ không giận dữ lại với giọng nói hay âm thanh to khi trẻ từ sáu đến 8 tuần tuổi.

Cha mẹ cười đùa với trẻ nhưng trẻ không có bức xúc mặc dù đã 2 tháng tuổi

Thờ ơ với người và mọi vật xung quanh khi 3 tháng tuổi.

Không quay đầu khi nghe thấy các âm thanh phát ra lúc trẻ 4 tháng.

Không biết tự cười mặc dù đã 6 tháng tuổi.

Không bập bẹ, ê a được từ nào lúc 8 tháng.

Chưa nói được các từ đơn khi đã 2 tuổi.

Trẻ ăn nói kém, không thể nói được những câu đơn giản khi đã 3 tuổi.

Cách giải pháp dạy trẻ bị chậm nói cực hiệu quả

Trò chuyện với trẻ nhiều hơn

Trẻ lớn hơn chút khi trò chuyện với trẻ, bạn cần phải cố gắng nói thật chậm và rõ ràng từng từ một. Cha mẹ không nói ngọng kiểu “nựng” bé sẽ khiến bé khó phát âm khi bắt chước. Khi nói, bạn có khả năng kết hợp sử dụng các động tác tay, chẳng hạn như vẫy tay chào khi tạm biệt, nhận quà bằng 2 tay… Hãy trò chuyện với trẻ mọi lúc mọi nơi, khi cho trẻ ăn, khi tắm cho trẻ, khi ru trẻ ngủ… Sau một thời gian, bạn sẽ thấy sự tốt lên rõ nét.

Khuyến khích trẻ tự xử lý vấn đề

Tạo môi trường để trẻ phát huy khả năng nói của mình

Đọc sách, đọc truyện cho trẻ nghe

Sách luôn là liều thuốc thần kỳ đối với trẻ chậm nói. Khi ôm con trong lòng, cầm trên tay cuốn truyện tranh, đọc cho con nghe những vần thơ ngộ nghĩnh, bạn sẽ giúp con làm quen được với những từ mới, những vần điệu mới, để con có thể hiểu một cách rõ ràng hơn về cách mà mọi người nói. Khi đọc sách cho con, bạn cần phải chọn những quyển có hình ảnh và màu sắc tươi sáng để trẻ cảm nhận thấy.

Không bắt chước ngôn ngữ của trẻ

Lúc trẻ mới tiếp tục tập nói, thường trẻ sẽ phát âm không chuẩn, đôi khi còn nói ngọng, nói líu lưỡi. Vì thế, bạn đừng bắt chước cách nói của trẻ trong quá trình dạy con. Việc làm này có khả năng hình thành những thói quen khó sửa, khiến trẻ nói sai, nói ngọng nhiều và lâu hơn.

Hồng Quyên – Tổng hợp Tham khảo ( chúng tôi trungtamphuchoichucnang.com,… )

Tại Sao Tính Đa Dạng Sinh Học Lại Quan Trọng ?

Môi trường sống của sinh vật đang ngày càng thu hẹp. Ảnh: Guardian

Đa dạng sinh học là gì?

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự đa dạng đời sống trên Trái đất ở mọi cấp độ: từ gien cho đến các loài động thực vật và hệ sinh thái. Ví dụ, táo không chỉ có một loại mà rất nhiều loại khác nhau, đó chính là tính ĐDSH. Tuy nhiên, trước nay khi nói đến tính ĐDSH chúng ta chỉ mới xoay quanh các loài.

ĐDSH mang lại những lợi ích gì?

Nghiên cứu chứng minh hệ sinh thái đa dạng thể hiện tính ưu việt hơn trong việc cung cấp những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống như thực phẩm và nước sạch. Chưa kể, hệ sinh thái đa dạng cũng phục hồi nhanh hơn sau những biến cố thiên nhiên như bão tố.

Tính ĐDSH cũng có nghĩa là những sự chọn lựa. Lâu nay động thực vật luôn đóng vai trò khơi gợi cảm hứng, giúp các nhà khoa học nảy ra nhiều ý tưởng làm tiền đề cho sự ra đời của vô số sáng chế phục vụ đời sống con người, từ dược phẩm cho đến công nghệ. Nói cách khác, thế giới tự nhiên là kho chứa khổng lồ những thông tin, ý tưởng có tiềm năng làm lợi cho nhân loại. Điều này cũng bao hàm cả lương thực – thực phẩm. Hiện tại, trên Trái đất có khoảng 20 ngàn loại lương thực – thực phẩm phục vụ nhân loại. Trước thực trạng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng khó kiểm soát, giải pháp tối ưu để bảo đảm an ninh lương thực cho nhân loại là đa dạng hóa các giống cây trồng đang canh tác.

Tính ĐDSH có phải đang lâm nguy?

Nhiều nhà khoa học cho rằng Trái đất đang trải qua thời kỳ đại tuyệt chủng lần thứ 6 mà thủ phạm không ai khác chính là con người. Tuyệt chủng là quy luật tất yếu của tự nhiên. Tuy nhiên, giới khoa học ước tính tốc độ tuyệt chủng của các loài động thực vật hiện nay cao hơn so với mức trung bình đến 100-1.000%. Khoảng 1/3 số loài được các nhà nghiên cứu khảo sát trên thế giới đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Sự đa dạng của hệ sinh thái cũng bị tác động ít nhiều. Chẳng hạn: các vùng đất có nhiều cây bụi thuộc miền khí hậu Địa Trung Hải đang lâm nguy với mức độ nghiêm trọng hơn so với các khu rừng nhiệt đới.

Làm sao biết tính ĐDSH đang suy giảm?

Việc cân đo đong đếm tính ĐDSH không phải là chuyện dễ. Thực tế, các nhà khoa học không thể biết đích xác có bao nhiêu loài động thực vật đang hiện hữu trên Trái đất – ước tính dao động từ 5 đến 30 triệu loài. Trong số 2 triệu loài đã nhận dạng đặt tên, giới nghiên cứu chỉ mới theo dõi được khoảng 50.000 loài. Để nắm diễn biến ĐDSH, các nhà bảo tồn đã phát triển Chỉ số Hành tinh Sống (Living Planet Index – LPI) để theo dõi số cá thể của 1.686 loài chỉ thị trên khắp hành tinh, cũng giống như chỉ số chứng khoán. Và trong 35 năm qua, LPI đã tụt 28%, và điều này cho thấy “sức khỏe” ĐDSH không thật sự tốt.

Đâu là những hiểm họa đe dọa tính ĐDSH?

Mối đe dọa lớn nhất hiện nay chính là môi trường sống của các loài ngày càng bị mất dần. Sản xuất nông nghiệp, chăn thả gia súc, phát triển đô thị đã và đang làm manh mún và hủy hoại môi trường sống của động thực vật trên cạn.

Tình hình ở dưới nước cũng chẳng sáng sủa hơn. Tình trạng đánh bắt, khai thác quá mức để phục vụ nhu cầu thực phẩm, thuốc men… cũng tiếp tay nhấn chìm tính ĐDSH. Đánh bắt cá đã hủy diệt 80% trữ lượng thủy sản tự nhiên trong khi nạn phá rừng và săn bắt động vật hoang dã ở các vùng nhiệt đới đang đẩy nhiều loài sống trong rừng đến bờ vực tuyệt chủng.

Theo báo cáo của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), thị trường buôn lậu các loài động thực vật hoang dã không ngừng bành trướng với khoản lợi nhuận khổng lồ thu vào chỉ thua mỗi “hàng trắng”.

Ô nhiễm có tác động đến tính ĐDSH?

Những hiểm họa do ô nhiễm rất đa dạng từ “không thể nhìn thấy” – thuốc bảo vệ thực vật và chất thải công nghiệp “đầu độc” các con sông và tích tụ trong hệ sinh vật – cho đến “không thể ăn được”: mỗi năm hàng nghìn con chim và rùa biển chết do ăn phải bọc ni-lông. Phân hóa học và nước thải sinh hoạt thâm nhập nguồn nước và tạo điều kiện cho tảo sinh sôi và các vùng biển chết (do không có ôxy) hình thành. Khí CO2 gây hiện tượng ấm nóng toàn cầu cũng là một chất gây ô nhiễm, gây acid hóa các đại dương và có nguy cơ xóa sổ các rặng san hô giàu tính ĐDSH.

Thế còn tình trạng biến đổi khí hậu?

Trong những thập niên tới, tình trạng biến đổi khí hậu sẽ ngày càng đe dọa tính ĐDSH. Khi thiết lập mạng lưới các khu bảo tồn tự nhiên trên toàn cầu hiện nay, các nhà bảo vệ môi trường cũng lưu tâm đến diễn biến khí hậu.

Làm thế nào để đánh giá đúng giá trị ĐDSH?

Liên Hiệp Quốc đang kêu gọi các nước tham gia một nỗ lực toàn cầu nhằm tính toán giá trị ĐDSH – từ thụ phấn cho cây trồng cho đến doanh thu từ phát triển du lịch – để đưa vào quá trình đề ra chính sách của các quốc gia. Tính ĐDSH không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích hữu hình cho nhân loại dù nó đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì nguồn nước, bầu không khí và thực phẩm sạch và những “dịch vụ” khác nữa. Một số cho rằng những lợi ích của tính ĐDSH đang được thổi phồng, và rằng chỉ nên bảo vệ tính ĐDSH vì lợi ích của chính nó. Tuy nhiên, các nhà kinh tế cho rằng việc am hiểu tính ĐDSH cũng mang lại một lợi ích, đó là “giá trị hiện hữu”.

Các tổ chức nào hiện đang bảo vệ tính ĐDSH?

Giữ vai trò chủ xị là Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (WWF) đóng ở Thụy Sĩ – hiện đang điều phối 1.300 dự án tại 40 quốc gia trên thế giới. Một tổ chức quan trọng khác là tổ chức Bảo Tồn Quốc tế, đi tiên phong trong việc sử dụng khái niệm “những điểm nóng ĐDSH” – những khu vực có nhiều loài quí hiếm đang bị đe dọa – để xác định những loài nào cần bảo vệ trước.

Hiện nay thế giới có nhiều hiệp ước bảo vệ tính ĐDSH như Công ước về cấm mua bán các loài có nguy cơ tuyệt chủng và Công ước về bảo tồn tính ĐDSH. Năm nay cũng là năm khép lại nỗ lực thực hiện sáng kiến của Hiệp hội Quốc tế bảo tồn tự nhiên (tiền thân của WWF) về hạn chế tình trạng suy thoái ĐDSH đến năm 2010. Liên Hiệp Quốc tuyên bố 2010 là Năm quốc tế về ĐDSH, và ngày 22-5 được chọn là Ngày quốc tế về bảo tồn ĐDSH. Bất chấp các nỗ lực của cộng đồng thế giới, có một điều gần như chắc chắn rằng tình trạng suy giảm tính ĐDSH sẽ không thể cải thiện trong một sớm một chiều, chứ nói gì là vào cuối năm nay.

DUYÊN MAI (Theo Guardian)

Đa Dạng Hóa Hình Thức Tuyên Truyền Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới

Phần thi tự giới thiệu của đơn vị Ban VSTB của phụ nữ quận Bình Thủy.

Trong phần thi tự giới thiệu, các đội xây dựng kịch bản với nội dung phong phú; trình bày hợp lý, thuyết phục. Ban VSTB của phụ nữ quận Cái Răng mang đến thông điệp “Hãy hành động vì mục tiêu: Gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” thông qua những tiếng hò ngọt ngào, có đội múa minh họa trên nền nhạc, thể hiện được hoạt động truyền thông về BĐG của từng địa phương… Thời gian qua, Đội tuyên truyền- Ban VSTB của phụ nữ quận Cái Răng, đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực: tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về BĐG, bạo lực gia đình; Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011-2020 và Chương trình hành động quốc gia về BĐG giai đoạn 2016-2020… Qua đó, tại địa phương, đã thành lập Câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình, nhóm gia đình phát triển bền vững, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình… giúp nhau nâng cao ý thức, trách nhiệm về BĐG và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới.

Các tiểu phẩm “Điều mẹ muốn” của quận Cái Răng, “Mê con trai” của quận Ninh Kiều, “Gia đình tôi” của huyện Thới Lai… được các đội chuẩn bị rất chu đáo, nội dung kịch bản rõ ràng, dàn dựng công phu, diễn xuất sáng tạo, thu hút người xem. Tiểu phẩm “Mê con trai” của đơn vị quận Ninh Kiều nêu thực trạng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại. Gia đình ông Tư đã có 2 cô con gái, nhưng ngày đêm ông Tư vẫn khấn nguyện cho vợ ông sinh cho ông thêm 1 đứa con trai để nối dõi tông đường. Tin lời bói toán, ông Tư rước thầy lang về nhà khấn nguyện để vợ ông sinh con trai. May mà cán bộ khu vực xuất hiện kịp thời, nếu không, gia đình ông Tư vướng vào cảnh tiền mất tật mang. Thức tỉnh, ông Tư tình nguyện tham gia vào đội tuyên truyền pháp luật về BĐG và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới.

Bà Ngô Thanh Lưu Li Thảo, Chuyên viên Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội quận Cái Răng- đơn vị xuất sắc giành giải Nhất toàn đoàn- cho biết: “Mặc dù là diễn viên không chuyên nhưng với sự quyết tâm, các bạn đã sắp xếp thời gian học kịch bản, tập dợt nghiêm túc với mục tiêu mang lại kết quả tốt nhất. Nhờ lãnh đạo UBND quận, các ngành và các thành viên trong đoàn có những ý kiến đóng góp thiết thực, điều chỉnh kịp thời một số chi tiết nhỏ trong các tiết mục… đã giúp đội mang lại kết quả cao góp phần vào thành công của hội diễn”.

Bà Trần Thị Xuân Mai, Giám đốc Lao động- Thương binh và Xã hội TP Cần Thơ, cho biết: “Hội thi là dịp để các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trên địa bàn thành phố có dịp giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, kiến thức giữa các Ban VSTB của phụ nữ các quận, huyện trong thành phố. Qua đó, Ban tổ chức mong muốn tất cả các thí sinh tham gia hội thi này sẽ là những tuyên truyền viên tích cực đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về BĐG và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới tại địa phương, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011-2020”.

XUÂN ĐÀO

Đọc Để Nhận Thức Một Thế Giới Đa Chiều

Trích từ bộ sách Phân tâm học căn bản.

Mua trọn bộ trên Hang Cáo tại ĐÂY.

Trong phần dẫn nhập này, tôi không có điều gì mới để nói cả, và tôi cũng khó tránh khỏi việc nhắc lại những gì từng có dịp nói trước đây.

Việc phân chia thế giới tâm trí thành thế giới tâm trí ý thức và vô thức chính là tiền đề căn bản của phân tâm học, không có sự phân chia này phân tâm học hẳn không có khả năng hiểu được các tiến trình bệnh lí, thường hay gặp và thường nghiêm trọng, của đời sống tâm trí, đồng thời cũng không thể đưa chúng vào khuôn khổ của khoa học. Một lần nữa, nói cách khác: phân tâm học từ chối việc coi ý thức là yếu tố tạo nên nền tảng của đời sống tâm trí, mà nhìn nhận ý thức chỉ đơn giản là một thành tố của đời sống tâm trí, có thể cùng tồn tại với các thành tố khác và thậm chí đôi lúc còn có thể bị thiếu.

Nhưng chúng tôi đã thu được thuật ngữ và khái niệm vô thức bằng cách đi theo một con đường khác, và nhất là bằng cách sử dụng những tình huống trong đó có sự can thiệp của tâm trí động. Chúng tôi đã học được, hay nói đúng hơn, chúng tôi đã buộc phải công nhận rằng có tồn tại các quá trình tâm trí mãnh liệt, hoặc các biểu tượng (ở đây chúng tôi chủ yếu tính đến nhân tố định lượng, tức là kinh tế) – có khả năng biểu hiện bằng các hiệu ứng giống như những hiệu ứng do các biểu tượng khác tạo ra, thậm chí bằng những hiệu ứng cũng mang hình thức của biểu tượng – có thể trở thành ý thức chứ không phải bản thân các quá trình tạo ra chúng. Thật vô ích khi nhắc lại chi tiết ở đây những điều đã được đề cập nhiều lần. Chỉ cần nhớ lại rằng chính ở điểm này lý thuyết phân tâm can thiệp vào, nhằm khẳng định rằng nếu như một số biểu tượng không có khả năng trở thành ý thức là do có một sức mạnh đối kháng với nó, và nếu không có sức mạnh ấy, các biểu tượng này có lẽ có thể trở thành ý thức, điều này sẽ giúp chúng ta nhận ra rằng chúng ít khu biệt với các yếu tố tâm trí khác biết nhường nào , những yếu tố được chính thức thừa nhận như là chính nó. Điều làm cho lí thuyết này trở nên không thể bác bỏ, đó là nó đã tìm thấy trong kĩ thuật phân tích tâm lí một phương cách có thể cho phép thắng được cái sức mạnh đối kháng ấy và đưa các biểu tượng vô thức về miền ý thức. Chúng tôi đã đặt tên cho trạng thái mà các biểu tượng nằm trong đó, trước khi chúng được đưa về miền ý thức, là sự dồn nén , còn đối với sức mạnh tạo ra và duy trì sự dồn nén đó, chúng tôi nói rằng trong quá trình phân tích tâm lí, chúng tôi cảm nhận rõ như một sự kháng cự .

Trong khi đó ba thuật ngữ của chúng tôi: ý thức, tiền ý thức và vô thức dễ sử dụng và cho chúng ta rất nhiều tự do, với điều kiện là không quên rằng nếu theo quan điểm mô tả, chúng ta có hai dạng vô thức, còn theo quan điểm động học, chúng ta chỉ có một dạng. Trong một số trường hợp, chúng ta có thể thực hiện một bài thuyết trình mà không tính đến sự phân định này, nhưng trong các trường hợp khác, sự phân định này là điều không thể thiếu. Dù sao chăng nữa, chúng tôi đã khá quen với nghĩa kép của vô thức , và chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy quá phiên toái vì điều đó. Trong mọi trường hợp, tôi cho rằng đây là điều không thể tránh khỏi. Còn đối với việc phân định giữa ý thức và vô thức, nó chỉ giới hạn ở vấn đề thuần túy về nhận thức, vấn đề chứa đựng câu trả lời là có hay không bởi bản thân hành vi nhận thức không cung cấp cho chúng ta một thông tin nhỏ nhoi nào về lí do vì sao một sự việc được nhận thức hay không. Chúng ta hẳn sẽ sai lầm khi chê trách về việc tâm trí động luôn biểu hiện ở một khía cạnh kép (ý thức và vô thức)4

Bằng cách thừa nhận rằng lí lẽ có thể đóng một vai trò nào đó trong việc giải cho một vấn đề, cái vấn đề phụ thuộc chặt chẽ vào các thỏa ước hoặc các yếu tố cảm xúc như là vấn đề chúng tôi đang quan tâm hiện nay, chúng tôi nói điều này: kết luận về sự không tồn tại của cái vô thức bằng cách nói rằng ý thức có các mức khác nhau về độ rõ ràng tương đương với việc khẳng định sự không tồn tại của bóng tối, bởi vì ánh sáng thể hiện tất cả mọi cấp độ, từ sáng chói nhất cho đến những tia sáng lờ mờ, gần như không cảm nhận được, hoặc rút ra từ vô vàn các cấp độ của sức sống một luận cứ khẳng định sự không tồn tại của cái chết. Những lập luận này, đến một mức độ nào đó, có thể rất xác đáng nhưng chúng không có chút giá trị thực hành nào, điều mà chúng ta sớm nhận ra ngay muốn rút ra một vài hệ quả, kiểu như: vì bóng tối không tồn tại chúng ta chẳng cần phải bật đèn; vì cái chết không tồn tại, mọi sự vật đều bất tử. Ngoài ra, bằng cách đưa cái không cảm nhận được về miền ý thức, chúng ta đánh mất điều xác thực duy nhất, trực tiếp và tức thì, gắn liền với đời sống tâm trí. Và lại, một cái ý thức mà chúng ta chẳng biết gì về nó, với tôi dường như là một giả thuyết phi lí hơn rất nhiều cái  giả thuyết về một đời sống tâm trí vô thức. Cuối cùng, những người tìm cách đồng nhất cái vô thức với cái không thể cảm nhận thấy đã không tính đến những điều kiện động mà ở đó quan niệm phân tâm, ngược lại, gán cho những điều kiện đó một tầm quan trọng hàng đầu. Quả nhiên, các tác giả nói trên không chú ý đến hai điều: thứ nhất, họ quên rằng việc tập trung chú ý đủ đến những gì không cảm nhận được là khó khăn biết nhường nào và cần cố gắng biết bao nhiêu để đạt được điều đó; thứ hai, họ không cần biết rằng ngay cả khi những cố gắng đó được vây quanh bởi thành công thì ý thức cũng không thừa nhận những gì cho đến thời điểm đó đã từng là điều không cảm nhận được đối với nó, và ý thức sẽ chối bỏ điều đó.

Những nghiên cứu của phân tâm học sau này đã chỉ ra rằng sự phân biệt này, bản thân nó cũng là không đủ và không thỏa đáng. Trong số các tình huống mà ở đó vấn đề này xuất hiện dặc biệt rõ nét, chúng tôi sẽ dẫn ra một tình huống mà chúng tôi cho là mang tính quyết định. Chúng tôi hiểu các quá trình tâm trí của một người như là một tổ chức gắn bó chặt chẽ, và chúng tôi nói rằng chính cái tổ chức gắn kết đó đã tạo nên cái Tôi của người đó. Đúng như chúng tôi nghĩ, chính với cái Tôi này mà ý thức gắn kết, chính cái Tôi kiểm tra và giám sát việc tham gia vào năng lực vận động, tức là thể hiện các kích thích ra bên ngoài. Chúng tôi nhìn thấy trong cái Tôi một cấp tâm trí kiểm soát mọi quá trình bán phần này. Ban đêm nó ngủ yên, nhưng trong khi ngủ nó vẫn kiểm soát các giấc mơ. Sự dồn nén cũng xuất phát từ chính cái Tôi này, nhờ có chúng một số xu hướng tâm lí không những bị xóa bỏ khỏi ý thức mà còn bị đặt trong tình trạng không có khả năng biểu lộ. Trong quá trình phân tích, các xu hướng này bị sự dồn nén loại bỏ đứng lên chống lại cái Tôi , và phân tích tâm lí có nhiệm vụ xóa bỏ những lực cản mà cái Tôi dựng lên để chống lại chúng ta khi chúng ta nỗ lực tiếp cận các xu hướng bị dồn nén. Thế nhưng, trong quá trình phân tích, chúng ta nhận thấy rằng bệnh nhân hết sức bối rối khi bị áp đặt một số yêu cầu, và bệnh nhân không thể tạo ra các liên tưởng mỗi khi họ đến những gì bị dồn nén. Trong trường hợp đó, chúng tôi nói với bệnh nhân rằng họ đang chịu sự tác động của lực cản, nhưng bản thân họ không biết gì về lực cản đó; và ngay cả khi cảm giác khó chịu mà họ đang trải qua buộc họ phải thừa nhận rằng họ đang bị thống trị bởi một lực cản, họ cũng không có khả năng nói xem lực cản đó là cái gì và từ đâu đến. Nhưng vì cái lực cản này có cội rễ từ chính cái Tôi của bệnh nhân và là một phần của cái Tôi đó, chúng tôi đứng trước một tình huống bất ngờ. Chúng tôi đã tìm thấy trong bản thân cái Tôi một cái gì đó cũng vô thức như các xu hướng bị dồn nén và hoạt động như các xu hướng đó, tức là sản sinh ra các hiệu ứng rất rõ ràng, nhưng không trở thành ý thức và sẽ chỉ có thể được làm cho trở thành ý thức sau một quá trình làm việc đặc biệt. Vì điều này, trong công việc phân tích tâm lí, chúng tôi vấp phải vô vàn khó khăn và sự mịt mờ khó hiểu, khi muốn tạm bằng lòng với các định nghĩa quen thuộc, ví dụ như khi rút gọn khái niệm nhiều tâm ở một xung đột giữa ý thức và vô thức. Do cách chúng ta nhận thức về cấu trúc tâm lí, chúng ta cần thay thế đối lập này (giữa cái ý thức và cái vô thức) bằng một sự đối lập khác: giữa cái Tôi chặt chẽ và các yếu tố tách ra từ cái Tôi và bị dồn nén.

Nhưng điều mà chúng ta vừa nếu ra vẫn sẽ còn mang lại nhiều hệ quả mới hơn nữa đối với quan niệm về vô thức của chúng tôi. Quan điểm động học từng buộc chúng tôi phải sửa chữa một lần, quan điểm cấu trúc khiến chúng tôi phải sửa chữa một lần nữa. Chúng tôi đã phải thừa nhận rằng vô thức không trùng khớp với các yêu tố bị dồn nén. Vẫn luôn đúng nếu nói rằng tất cả những gì bị dồn nén đều là vô thức, nhưng cũng có những yếu tố là vô thức nhưng không bị dồn nén. Một phần của cái Tôi và trời ơi, phần đó quan trọng biết nhường nào, cũng có thể là vô thức, và không có gì đáng nghi ngờ cả. Và cái phần vô thức của cái Tôi ấy không ẩn tàng như là cái tiền vô thức, bởi nếu như ẩn tàng, nó sẽ có khả năng trở thành ý thức nếu được kích hoạt, và chúng ta sẽ không vấp phải nhiều khó khăn mỗi khi muốn đưa nó về miền ý thức. Như vậy chúng tôi buộc phải chấp nhận sự tồn tại của một cái vô thức thứ ba, không bị dồn nén5 ; nhưng chúng tôi cũng thú nhận rằng, do tình huống này, bản chất của cái vô thức mất hết nghĩa chính xác của nó đối với chúng tôi. Vô thức trở thành một đặc tính đa nghĩa, và giờ thì những khái quát hóa và diễn dịch nghiêm ngặt mà chúng ta từng sử dụng không còn đủ nữa. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ sai lầm nếu như không coi trọng đặc tính này, bởi xét cho cùng, đặc tính “ý thức” hoặc “vô thức” chính là ánh sáng le lói duy nhất có thể dẫn đường cho chúng ta trong bóng tối của chiều sâu tâm lí.

Bộ sách Phân tâm học căn bản hiện đã có trên Hang Cáo.

Mời bạn mua sách tại ĐÂY.

Chú giải:

1 Từ Do Thái trong sách của Freud. Một schibboleth là một câu hoặc một từ, chỉ được sử dụng – hoặc phát âm đúng với các thành viên trong một nhóm. Nó thể hiện việc một người thuộc về một nhóm nào đó : quốc gia, xã hội, nghề nghiệp …( ND).

2 Bởi chúng có thể được gợi lại ở miền ý thức ( ND).

3 Psychoide là cái có vẻ bề ngoài của một hiện tượng tâm lí nhưng không hẳn là như vậy ( ND).

5 Hai cái vô thức đầu tiên mà Freud đã nhận diện trước đây là cái tiền đề ý thức (nội dung của nó có thể được gợi lại trong trí nhớ) và cái vô thức (nội dung của nó do cái dồn nén tạo thành và không thể gợi lại ở miền ý thức do cái ba- ri- e kiểm duyệt) (ND).

Share