Vì Sao Nhà Nước Liên Xô Sụp Đổ / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Vì Sao Liên Bang Xô Viết Sụp Đổ?

Mikhail Gorbachev (phải) và Boris Yeltsin (trái) là 2 nhân vật đóng vai trò tối quan trọng trong sự kiện Liên Xô sụp đổ

Hai nhân vật đóng vai trò tối quan trọng tạo nên thảm họa này là “kiến trúc sư” cải tổ Mikhail Gorbachev và “Sa hoàng Nga thời hiện đại” Boris Yeltsin.

Sai nhiều ly, đi muôn dặm

Cuộc chính biến tháng 8-1991 là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi lệch hướng công cuộc cải tổ và công khai hóa, từng được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev khởi xướng từ tháng 3-1985. Được “khua chiêng gióng trống” ầm ĩ, công cuộc cải tổ không những không chữa được những căn bệnh trầm kha của xã hội Xôviết mà cuối cùng còn giúp cho thế lực hữu khuynh, những kẻ thù giai cấp và đầy tham vọng cá nhân tận dụng triệt để trong việc kích động lực lượng phản kháng tác động đến phần lớn quần chúng đang mất dần niềm tin vào thể chế.

Kể từ khi trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1985, Gorbachev đã theo đuổi và tiến hành nhiều cải cách toàn diện trong hệ thống Xô viết. Thoạt đầu, Gorbachev chỉ muốn cải cách chế độ Xô viết lúc đó đang mắc chứng bệnh trì trệ khá trầm trọng do những nguyên nhân phần nhiều mang tính chủ quan. Không vượt lên trên được các đối thủ phương Tây trong Chiến tranh lạnh về hiệu suất cũng như thành quả lao động, không kiên quyết đấu tranh bài trừ những căn bệnh vốn bắt rễ và âm thầm lây lan trong giới cầm quyền như nạn tham nhũng, bè phái, hưởng nhiều đặc lợi vượt giới hạn, sùng bái chủ nghĩa hình thức, xa rời hay diễn giải sai lệch theo kiểu xu thời những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Gorbachev cũng không có phương án nào khả dĩ để đối phó với trào lưu dân tộc chủ nghĩa đang sinh sôi nảy nở và biến tướng từng ngày hay các vụ tranh chấp lãnh thổ giữa các nước cộng hòa… Đó chính là những nguyên nhân chính khiến Nhà nước Xô viết suy giảm tiềm lực và vị trí của mình trên trường quốc tế.

Đại diện cho phe cải cách như Yeltsin cho rằng nghị trình cải cách của Gorbachev quá chậm chạp, còn những người theo phe bảo thủ lại chỉ trích chính sách và hành động của Gorbachev là xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác. Trong nỗ lực thúc đẩy chương trình cải cách của mình, Gorbachev đã dẫn đầu một phong trào sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, bao gồm việc thiết lập một vị trí tổng thống mới tập trung nhiều quyền lực hơn. Những nỗ lực ấy đã tạo điều kiện cho một số lực lượng và phong trào mà Gorbachev không hề ngờ tới xuất hiện, đặc biệt là sự kích động và phát triển của chủ nghĩa dân tộc quốc gia từ phía các nước cộng hòa bên trong Liên bang Xô viết mà dân tộc Nga chỉ chiếm thiểu số, làm nảy sinh xu hướng ly khai khỏi thể chế trung ương tập quyền.

Ngày 15-3-1990, Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô bầu Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev làm tổng thống đầu tiên của Liên bang Xô viết với nhiệm kỳ 5 năm.

Liên bang Nga – chủ thể quan trọng nhất trong Liên bang Xô viết tuyên bố chủ quyền vào ngày 12-6-1990 và sau đó giới hạn áp dụng luật Xô viết, đặc biệt các luật lệ liên hệ tới tài chính và kinh tế, trên lãnh thổ Nga. Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao đề nghị tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý trên toàn liên bang. Trong khi các nước cộng hòa vùng Baltic và các nước Armenia, Gruzia, Moldova tẩy chay thì đa số công dân của tất cả các nước cộng hòa khác trong liên bang đều thể hiện mong muốn gìn giữ Liên bang Xô viết. Sau nhiều cuộc đàm phán, 8 trong số 9 nước cộng hòa còn lại (ngoại trừ Ukraine) đã thông qua Hiệp ước Liên bang mới với mục tiêu biến Liên Xô thành một liên bang của những nước cộng hòa độc lập với một vị tổng thống, có chính sách đối ngoại và quân đội chung. Liên bang Nga, Kazakhstan và Uzbekistan dự định sẽ ký kết hiệp ước tại Moscow ngày 20-8-1991.

Như một sự an bài

Quân đội được triển khai tại Thủ đô Moscow trong những ngày xảy ra đảo chính ở Liên Xô

Yeltsin trở thành Tổng thống Nga thông qua cuộc bầu cử trực tiếp với chiến thắng vang dội. Theo thỏa thuận giữa Tổng thống Liên Xô Gorbachev với Tổng thống Liên bang Nga Yeltsin, Hiệp ước Liên bang mới phải được ký vào ngày 20-8. Tình thế này khiến cho nguyên soái Dmitri Yazov, lúc đó đang giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô cũng như nhiều đảng viên cộng sản Liên Xô đang ở những vị trí cao trong bộ máy liên bang chợt hiểu ra rằng bằng cách đó, sự tan vỡ của Liên bang Xô viết đã có thể đếm từng ngày. Trước nguy cơ Liên Xô tan rã nếu Hiệp định Liên bang mới được ký kết đúng vào ngày 20-8, Chủ tịch KGB Kriuchkov đã đứng ra tập hợp lực lượng để “tìm cách giải nguy”. Chiều tối ngày 18-8, vào cuối buổi làm việc, ông Kriuchkov đã gọi điện cho một số người thân cận, mời tới một căn cứ quân sự tại Moscow bàn chuyện đại sự. Sau cuộc họp kín, họ quyết định cử một phái đoàn tới Crimea, nơi Gorbachev cùng gia đình đang đi nghỉ dưỡng. Họ đã cố gắng thuyết phục Tổng thống Liên Xô đứng về phía họ và hủy bỏ việc ký Hiệp định Liên bang mới, nhưng đã không thành công.

Đúng 6 giờ 5 ngày 19-8 tại Moscow, Phó Tổng thống Liên Xô Gennady Yanayev đã công bố sắc lệnh bất thường về việc Tổng thống Gorbachev do tình trạng sức khỏe suy yếu nên không thể đảm đương được chức trách của mình và bắt đầu từ ngày 19-8, ông Yanayev sẽ đảm nhận cương vị quyền Tổng thống Liên Xô. Lúc này, tại biệt thự nghỉ dưỡng của mình ở Crimea, Gorbachev và gia đình bị quản thúc. Khi bị ép phải tuyên bố từ chức, ông ta thẳng thừng từ chối.

6 giờ 15 phút, ban lãnh đạo mới của Liên Xô ban bố lệnh áp dụng tình trạng khẩn cấp ở một số khu vực trong thời hạn 6 tháng. Một ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp (GKCHP) đã được thành lập, đứng đầu là quyền Tổng thống Liên Xô Yanayev; các thành viên còn lại của ủy ban gồm Chủ tịch KGB Vladimir Kriuchkov, Bộ trưởng Nội vụ Boris Pugo, Bộ trưởng Quốc phòng Dmitri Yazov, Thủ tướng Valentin Pavlov… 9 phút sau, GKCHP đã ra lời kêu gọi quốc dân đồng bào và nhận trách nhiệm nắm giữ vận mệnh Liên Xô.

Quyền Tổng thống Yanayev cùng các thành viên GKCHP ngay lập tức lên Đài Truyền hình và Phát thanh quốc gia đưa ra một tuyên bố đanh thép buộc tội chính quyền Gorbachev, nhưng giọng điệu yếu ớt và bàn tay run rẩy của Yanayev không giấu nổi trước ống kính máy quay khi đang phát biểu ngay lập tức khiến mọi người có cảm giác ông này không phải là người có thể vãn hồi được trật tự xã hội.

Vì Sao Liên Xô Sụp Đổ: I. Đường Lối Cải Tổ Sai Lầm Và Sự Phản Bội Của Gorbachev

Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô , rồi Tổng thống Cộng hòa Liên bang Xô viết (ảnh tư liệu)

Gần 20 năm sau khi Liên Xô sụp đổ đã có nhiều người viết về nguyên nhân vì sao Liên Xô sụp đổ một cách có hệ thống, nhiều công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận sự sụp đổ của Liên Xô có nguyên nhân sâu xa là do những sai lầm, khuyết tật của mô hình XHCN Xô viết, một chế độ xã hội đã đạt những thành tựu vĩ đại, đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại, góp phần quyết định cứu loài người khỏi thảm họa phát – xít, nhưng đã trở nên trì trệ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Cuộc cải tổ sai lầm ở Liên Xô do M. S. Gorbachev đề xướng là nhân tố trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Liên Xô.

Loạt bài này khai thác những tư liệu được công bố gần đây (chủ yếu là công trình “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô – lịch sử những âm mưu và phản bội 1945 – 1991” của tác giả A. P. Seviakin nhằm giúp bạn đọc hiểu thêm những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Nhà nước Xô viết vào năm 1991.

Vào những năm tháng cuối cùng của thời Xô viết, có 7 nhân vật tên tuổi đã tạo nên công cuộc cải tổ để rồi chính họ phá tan Đảng Cộng sản Liên Xô, phá tan nhà nước Xô viết, làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô. Nhưng trước hết và quan trọng nhất là M. Gorbachev.

1. Đích nhắm của phương Tây

Vào đầu thập kỷ 1970 tại Sicily (Italia) diễn ra cuộc gặp mặt “những chính khách trẻ”, có M. S. Gorbachev tham dự. Ông ta lúc đó là cán bộ đoàn, thủ lĩnh đảng của Stavropol. Chính vào thời điểm này mối liên lạc của “người cải tổ số 1” trong tương lai với giới lãnh đạo chính trị phương Tây được thiết lập. Những cuộc tiếp xúc này đã khởi đầu một đường lối “Tư duy mới” và điểm kết thúc là sự biến mất hoàn toàn của Liên Xô.

M. S. Gorbachev khi là Bí thư Trung ương Đảng phụ trách nông nghiệp đã tiếp xúc công khai với người Mỹ là những nhà “hoạt động xã hội” khoác áo chuyên gia về nông nghiệp. Thông qua con đường công khai và không công khai, M. S. Gorbachev đã từng tiếp xúc với RAND Coporatinon là tổ chức chuyên nghiên cứu thông tin tình báo để chống phá Liên Xô. Trong những tài liệu thu thập gần đây cho thấy phía Mỹ đã có ý kiến thiết lập mối quan hệ với M. S. Gorbachev trước khi khởi động công cuộc cải tổ không lâu. Năm 1984, một năm trước khi Gorbachev lên nắm chức Tổng Bí thư, tại Geneva, diễn ra hội nghị về giải trừ quân bị, đại sứ Liên Xô V. Israelian – Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô đã nhận lời mời của Đại sứ Mỹ tại Hội nghị Geneva Lewis Fields tới gặp xã giao ở một nhà hàng ngoại ô thành phố. Khi ăn cơm, người Mỹ không thông báo gì đặc biệt. Lúc chia tay, Fields đề nghị hai người đi bộ một lát và ông bạn Mỹ nói Mỹ muốn thiết lập mối tiếp xúc công việc nghiêm túc với Ban lãnh đạo Liên Xô và Phó Tổng thống Bush sẵn sàng gặp lãnh đạo Xô viết trong thời gian công cán tại Geneva. Cuộc gặp cần mang tính riêng tư, kín đáo nhất – Fields nói thẳng rằng Phó Tổng thống muốn được gặp M. S. Gorbachev với tư cách là một lãnh tụ chắc chắn trong tương lai của Liên Xô.

Đại sứ Liên Xô Israelian kể lại, đúng thời gian đó Bush đã có mặt tại Geneva, ngày 18-4-1984. Còn hôm trước đó, cố vấn Tổng Thư ký Liên Hợp quốc Xadrudnin Aga Han đã gọi điện thoại bí mật thông báo cho tôi rằng chiều 17 ông ta muốn cùng tôi gặp “một người bạn chung của chúng ta”. Chúng tôi cùng trò chuyện ba người. Bush đề cập đến mục đích chuyến đi Geneva là đưa ra dự thảo Hiệp ước về cấm vũ khí hóa học. Khi chuyển sang nói chuyện khác thì Aga Han bỏ đi, chỉ còn lại tôi và Bush. Ông lập tức chuyển cuộc nói chuyện sang khả năng tiến hành cuộc gặp Xô – Mỹ không chính thức. Bush nói thêm đã ủy nhiệm cho Fields thu xếp, còn địa điểm, thời gian cuộc gặp sẽ xác định theo nguyện vọng và khả năng của hai bên. Nội dung cuộc gặp mỗi bên có thể tùy ý đề cập tới bất cứ đề tài nào. Nhưng chỉ với yêu cầu người cùng nói chuyện với mình, về phía Liên Xô phải là lãnh tụ Xô viết tương lai. Ông ta chỉ nói tên một người ”lãnh tụ sau đây của các ngài sẽ là Gorbachev”. Ông tuyên bố rất tin tưởng.

Chuyến thăm nổi tiếng tới London mà Gorbachev và phu nhân gặp bà M. Thatcher cũng là một đuờng nét vẽ nên mối quan hệ giữa M. S. Gorbachev với phương Tây. Sau cái chết của K. V. Chernenko thì Thatcher đã chấp nhận chuyến thăm đối với M. S. Gorbachev, họ ngồi với nhau cả hàng giờ liền “mắt trong mắt”, nhưng vì gặp đông người phía Liên Xô nên chẳng nói gì được nhiều. Trở về nhà, Gorbachev làm báo cáo gửi Bộ Chính trị với nội dung mù mờ, không dám báo cáo rõ ràng những gì mà ”bà đầm thép” đã nói, đã khuyên ông ta. Còn trong thực tế, từ đó mối quan hệ bất bình thường giữa Thatcher và Gorbachev đã trở nên bền chặt. Bà ta tuyên bố “có thể làm việc với con người này”. Có lần Thatcher thổ lộ “chúng tôi đã làm cho Gorbachev thành Tổng Bí thư”.

Theo thời gian, M . S. Gorbachev có nhiều cơ hội gặp gỡ lãnh đạo các nước phuơng Tây hơn, và ông ta sớm được phương Tây tâng bốc là ngôi sao mới và họ bắt tay thiết lập địa vị chính trị cho ông ta. Trong mọi trường hợp Gorbachev đều muốn tiếp xúc riêng với các nhà lãnh đạo phương Tây. Năm 1991, trong chuyến thăm của Tổng thống Bush, M. S. Gorbachev đã kéo theo nhiều người tin cậy cùng nói chuyện với Bush. Tuy nhiên, trong toàn bộ cuộc nói chuyện, họ mặt nhìn mặt, cố xa lánh mọi người. Sau bữa ăn, M. S. Gorbachev mời Bush đi dạo theo lối cửa sau cùng người phiên dịch. Bước ra quảng trường Ivanov, hai người đã thiết lập được mối quan hệ tin cậy và lúc này họ đang nói chuyện công khai.

Bất chấp nguyên tắc của Đảng, người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô đã gặp trực tiếp với giáo hoàng Roma John Paul II không có phiên dịch, gặp tay đôi với Bush cha trên khoang chỉ huy của một tàu chiến Mỹ tại Malta không có người thứ ba dự.

Trên thế giới các cuộc gặp gỡ quan chức các nước với nhau bao giờ cũng được ghi biên bản chi tiết, người tham gia là người chính thức hay quan chức chính phủ, hai bên đưa ra những vấn đề gì, v.v. nhưng người đầu tiên vi phạm điều này là Gorbachev. Họ thường xuyên tiến hành các cuộc đàm phán mà nội dung không được ghi vào biên bản. Họ cũng không sử dụng phiên dịch người mình. Không ai ở Liên Xô biết được nội dung các cuộc trò chuyện của họ.

Tuy việc đăng tải những tin tức như thế bị cấm nhưng vẫn có vài tư liệu đã được làm rõ như trong thời gian Gorbachev ở Đại sứ quán Mỹ thường có một số trí thức theo khuynh hướng tự do, những cốt cán tương lai của cuộc “cải cách” cũng được mời dự.

Sau này vào tháng 5-1993, sau khi Liên Xô sụp đổ, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo “Le Figaro” nội dung bài phỏng vấn có câu về hỏi về khả năng “hỗ trợ bên ngoài” trong việc xóa sổ Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Reagan tại Reykjavik, ông đã trao Liên Xô vào tay Mỹ. Nguyên văn trả lời của Gorbachev như sau: Reykiavik thực sự là một vở kịch, vở kịch lớn. Bạn sẽ nhanh chóng hiểu vì sao. Tôi cho rằng không có một cá tính mạnh mẽ như Reagan thì tiến trình sẽ không thay đổi. Trong cuộc gặp cấp cao này chúng tôi, các bạn có biết chăng, đã tiến xa tới mức không thể quay trở lại…”. Về sau, trong hồi ký của mình nhắc lại sự kiện này, Reagan đã kể lại rằng ông ta đã thực sự bị sốc vì vui mừng. Thực ra ông ta đến cuộc gặp ấy mà không tin rằng tại Reykjavik, Gorbachev đã báo tin một bộ phận chống Xô viết trong giới thượng lưu Matxcova chấp thuận việc phá tan Liên Xô.

Điều này làm nhiều người nhớ lại trước đó vào tháng 6 năm 1993, dự lễ tang Tổng Bí thư Enriko Belinguer của Đảng Cộng sản Italia, M. S. Gorbachev trong bài phát biểu của mình đã nói: Enriko thân mến, chúng tôi sẽ không bao giờ quên những lời khuyên của anh về sự cần thiết dân chủ hóa đất nước chúng tôi!

2. Gorbachev chống phá Liên Xô

M. S. Gorbachev sinh ngày 2-3-1931 trong một gia đình nông dân tại làng Privolnoe Stavropol, Bắc Capcadơ. Đến nay mọi người đã có thể biết rõ gốc rễ gia đình Gorbachev, dưới thời Stalin, ông ngoại – Panteluy Efimovich đã bị ngồi tù, còn ông nội, Andray Moi Xeievich từng bị đi cải tạo lưu đày ở Siberia. Người ông đằng vợ bị xử bắn năm 1937 như một kẻ troskit chính hiệu, bố vợ cũng bị ngồi tù 4 năm vì chống lại nhà nước Xô viết. “Sự việc đó thực sự là một cú sốc ghê gớm, hằn sâu vào ký ức của tôi từ lúc đó” M . S. Gorbachev nói.

Đến cuối năm 1984, đầu năm 1985, ở cương vị lãnh đạo của mình,V. Andropop đã tiếp tục phê phán vấn đề này. “Trong điều kiện, nếu các bí thư thứ nhất trao cho các nhà kinh tế quyền làm gì thì làm, thì mọi thứ của chúng ta sẽ tan nát hết. Trong trường hợp đó thì phương án Ba Lan sẽ dành cho chúng ta”.

Rõ ràng, trước khi giành được chức Tổng Bí thư, không phải tình cờ khi Gorbachev đã tiến hành việc tách và gạt bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô khỏi vai trò lãnh đạo đời sống kinh tế của đất nước.

Raisa Makximovna Gorbachev – phu nhân của Gorbachev là người đã tham gia một cách bình đẳng vào việc thông qua các quyết định ở cấp cao nhất. Theo những đề nghị của bà, người ta đã hạ bệ nhiều quan chức cao cấp, nhiều chuyên gia giỏi để dành những vị trí đó cho những kẻ không hề hình dung nổi nhiệm vụ được giao phó, những người không hợp với bà ta không hề có giới hạn. Quan điểm, tính cách của bà vợ đã đóng một vai trò nhất định trong số phận của Gorbachev thậm chí là cả trong số phận của Đảng, của toàn bộ đất nước. Trong mọi trường hợp bà ta nhanh hơn cả việc Gorbachev cảm nhận được mình thực sự là Tổng Bí thư của Đảng và nguyên thủ quốc gia. Không hề e ngại, bà ta đã gọi điện thoại và giao việc cho các trợ lý Tổng Bí thư và một số thành viên lãnh đạo đất nước, đặc biệt là cho những người bà ta từng biết đến. Nói chung suốt nhiều năm dài “đệ nhất phu nhân ấy đã quản lý không chỉ công việc nội trợ mà cả vũ hội cải tổ. Bà ta đã tham gia vào việc hình thành đường lối, thậm chí nếu có thể, vào việc bố trí nhân sự. Nhưng điều chủ yếu nhất, đó là bà ta đã định hình nên tính cách của một vị Tổng Bí thư – Tổng thống đã giúp cho chồng tìm kiếm đường đi trong biển bão của những dòng chảy chính trị”.

Gorbachev từ Ủy viên dự khuyết trở thành Ủy viên chính thức Bộ Chính trị BCHTƯ ĐCS Liên Xô thật đơn giản. Có thời Kim Nhật Thành không muốn tiếp đoàn đại biểu ĐCS Liên Xô do M. S. Gorbachev, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị BCHTƯ ĐCS Liên Xô cầm đầu sang tham dự Đại hội Đảng Lao động Triều Tiên năm 1980. Kim Nhật Thành cho rằng đoàn đại biểu của ĐCS Liên Xô phải do một Ủy viên Bộ Chính trị dẫn đầu. Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Khu ủy Matxcơva V. V. Grisin sau khi đi thay chỗ của Gorbachev từ Triều Tiên về, đã đề nghị chuyển Gorbachev làm Ủy viên chính thức Bộ Chính trị do anh ấy còn trẻ, sẽ dễ dàng đi lại bằng máy bay. Đã nói là làm. Hội nghị toàn thể lần thứ nhất BCH TƯ Đảng đã thông qua đề nghị này.

Những âm mưu phản động và cơ hội đã đóng vai trò to lớn đưa Gorbachev lên vị trí Tổng Bí thư của Đảng. Các nhà Kremli học đã áp dụng nước cờ “biến con tốt thành hoàng hậu” trong trường hợp Gorbachev và một số Ủy viên Bộ Chính trị phe cánh Gorbachev. Các “Trung ương thần kinh” chống Nhà nước Xô viết đã triệt để lợi dụng được tình hình để kết hợp động cơ muốn lên lắm quyền của M. S. Gorbachev và ý định được điều hành từ nước ngoài. Trong khi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đang lúng túng bầu Tổng bí thư mới ra sao thì phương Tây đã có những tác động đúng lúc, thực hiện nhanh chóng âm mưu tạo dựng vị thế xấu đối với G. V. Romanov và thuận lợi cho M. S. Gorbachev cùng ekip của ông ta khai thác thông tin định hướng biết trước về vị thế nội bộ của các Ủy viên Bộ Chính trị khác, cho thấy đâu là những lợi ích trùng hợp với người khác trước hết là với những Ủy viên Bộ Chính trị già và Ủy viên Bộ Chính trị có uy tín trong Đảng. Phiên họp Bộ Chính trị hoàn toàn có thể cần một sự lựa chọn những thủ lĩnh khác như G. V. Romanov hay V. V. Grisin. Hình như tất cả đã được sắp xếp một cách có ý đồ. Theo lời đề nghị của ai đó, họ đã làm chậm chuyến bay từ Mỹ trở về của Ủy viên Bộ Chính trị Xerbitxk – người biểu quyết loại bỏ Gorbachev. Họ cũng không thông báo việc bầu cử này cho Ủy viên Bộ Chính trị Romanov đang đi nghỉ dưỡng. Nếu thêm hai phiếu chống này, Gorbachev đã không thể trở thành Tổng Bí thư. Ông ta đã đạt do hơn đúng một lá phiếu.

Việc đăng quang của Gorbachev đã được chuẩn bị từ lâu. Trong quá trình leo lên ngôi vị cao nhất, Gorbachev đã áp dụng nhiều chiến thuật loại bỏ những ai không ăn cánh có khi loại bỏ hoàn toàn, có khi phải cách ly tạm thời. Như với D. F. Uxtinov bằng mọi cách phải loại bỏ hoàn toàn. Hồ sơ sau này đã tiết lộ chính Uxtinov đã phải chấp nhận lùi xuống vị trí thứ 2 trong Đảng sau Chernenko. Điều này có một mục tiêu duy nhất là chặn đứng con đường thăng tiến chính trị đối với Romanov – người chống quyết liệt việc bầu Gorbachev giữ chức Tổng Bí thư.

Phương Tây đã sớm biết về việc M. S. Gorbachev sẵn sàng lên nắm chức vụ cao nhất trong Đảng. Tiểu sử của M. S. Gorbachev đã xuất hiện ở New York vào đúng ngày ông ta được bầu làm Tổng Bí thư BCH TƯ ĐCS Liên Xô. Mỹ đã vội vã tạo dựng uy tín cho “Gorby” mà không để chậm trễ một phút nào khi cho xuất bản cuốn sách đó. Hơn nữa, trong con mắt của phương Tây ông ta đã ngay lập tức thực sự trở thành ”người bạn tốt nhất”. Và cũng như phép thần thông biến hóa, mọi tổ chức chống Xô viết, đặc biệt là Liên minh Bảo vệ người Do Thái lập tức im bặt mọi lời chống đối ông ta.

M. S. Gorbachev ở cương vị Tổng Bí thư đã sử dụng hết khả năng nghệ sĩ của mình. Ông ta đã thể hiện cùng một lúc vài vai diễn trước mọi tầng lớp dân chúng, và trước một số người cần thiết đến mức không ai có thể phê phán ông ta. Ông ta càng bị những người “dân chủ” phê phán mạnh bao nhiêu thì cán bộ cao cấp của Đảng càng lúng túng bấy nhiêu, càng bảo vệ Gorbachev vì họ cảm thấy Gorbachev đang cùng họ bảo vệ đất nước. Đây chính là thảm kịch của những người cộng sản và của nhân dân Xô viết. Gorbachev luồn lách như con lươn để tiếp tục đường lối phản bội của mình, phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô, song lại làm ra vẻ như mình phải nhượng bộ do áp lực mạnh mẽ của “những người dân chủ”, nhằm đánh lạc hướng dư luận.

Gorbachev tìm mọi cách thủ tiêu những dấu vết sai lầm trước đó của mình. Chính M. S. Gorbachev là người đầu tiên thủ tiêu vai trò của KGB để tránh hiểm họa cho sự phản bội Đảng, phản bội Tổ quốc của ông ta. M. S. Gorbachev khi còn ở cương vị Tổng Bí thư đã nói: “Tôi đã buộc phải hành động. Tôi có lo sợ KGB không à? Không, tôi không sợ. Nếu như tôi sợ họ thì tôi chẳng thể làm được gì. Nhưng tôi biết sức mạnh của họ. Và bây giờ tôi đã có thể nói những gì mà trước đây tôi không thể nói ra. Tôi phải chơi trên cơ họ”.

Liệu Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TƯ Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó nhất là sau khi Gorbachev vô hiệu hóa KGB, có biết gì về những nguy cơ của “thời kỳ Gorbachev” không? Nhờ tài năng nghệ sĩ tuyệt vời và cách biết thực hiện khẩu hiệu “dậu đổ bìm leo” mà cho mãi đến nay, các công trình nghiên cứu mới có thể nói rằng Gorbachev đã có ý đồ phá hoại Liên Xô từ lâu. Đến thời điểm nhất định Gorbachev đã hành động theo những kế hoạch phá hoại được vạch ra từ trước ngay từ trong nước. Chỉ đến sau này vào giai đoạn cuối các kế hoạch phá bỏ Liên Xô đó mới bám rễ vào các kế hoạch của phương Tây. Đó là lúcGorbachev công khai cầu cứu nước ngoài và từ phương Tây đã kê sẵn đơn thuốc đưa vào giết chết CNXH ở Liên Xô nhanh hơn mong đợi.

3. Sự lươn lẹo của Gorbachev

Sau khi M. S. Gorbachev giữ được vị trí cao nhất trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, ông ta đã dốc hết sức thực hiện vai trò hai mặt. Là Tổng bí thư nhưng cũng là một kẻ phản bội làm theo những gì mà phương Tây giao phó. Những gì mà vây cánh của ông ta nhận thấy được chỉ mới là phần tồi tệ nhất của trò chơi quyền lực. Trên thực tế, đã thành sự phản bội.

Sự “sáng tạo” đặc biệt của M. S. Gorbachev trong lĩnh vực điều hành là bề ngoài tỏ ra hành động theo đường lối “cải tổ” đã được lựa chọn đúng đắn, song thực chất, ông ta thường thông qua những quyết định nước đôi và rất khéo léo, những quyết định đó thường có lợi cho những kẻ phá hoại. Còn bản thân ông ta, trong những tình huống căng thẳng, bị dồn ép lại rất biết cách phòng thủ và lảng tránh.

Liên Xô là quốc gia đa dân tộc. Thế lực chống cộng phương Tây, nhất là Mỹ luôn có âm mưu chia rẽ các dân tộc trong Liên bang Xô viết. Trong những năm tháng cải tổ, M. S. Gorbachev lập lờ trước tình trạng mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc bùng lên dẫn đến phong trào ly khai đòi độc lập ở một số nước cộng hòa. Chính thái độ của M. S. Gorbachev đã dẫn đến hậu quả đẩy nhanh sự sụp đổ của thể chế chính trị Xô viết.

Chẳng những thế, trong thời kỳ diễn ra “cuộc cách mạng nhung” ở Tiệp Khắc, Gorbachev đã gọi điện thoại yêu cầu Thủ tướng Tiệp Khắc Adamets không được áp dụng những biện pháp trấn áp. Vì sự can thiện của Gorbachev mà có các cuộc đàm phán của đảng cầm quyền với phe đối lập ở Tiệp Khắc để rồi kết cục bằng sự đầu hàng vô điều kiện của những người cộng sản.

Sau này, nhận xét về thái độ của Gorbachev về các sự kiện nêu trên, John Poidekster (người Mỹ) đã nhận xét rằng, “thật ngu xuẩn khi cho rằng Moscow nói chung đã đoán ra việc chúng ta làm. Họ đã từng phản đối chính sách của mình”.

4. Chống phá Đảng từ bên trong

Bất kỳ một âm mưu nào nhằm vào Đảng thì nhất định sẽ ảnh hưởng xấu đến vận mệnh quốc gia. M. S. Gorbachev và Yakovlev cùng bộ sậu của họ biết rõ điều đó khi chúng phá hoại Đảng từ bên trong.

Sự phản bội lớn nhất của M. S. Gorbachev là thủ tiêu vai trò của ĐCS Liên Xô đối với xã hội, cổ vũ hình thành các tổ chức chính trị đối lập, thực hiện đa nguyên, đa đảng.

Vào đầu thời kỳ cải tổ, việc đầu tiên mà Gorbachev và êkíp của ông ta làm là đẩy hệ thống điều hành vào trạng thái bất ổn định. Rối loạn hệ thống sẽ có những hậu quả khôn lường. Cú đột phá đầu tiên là hút nguồn lực quốc gia vào lĩnh vực chế tạo máy do Gorbachev đề xướng vào năm 1985. Với chương trình hào nhoáng này, Liên Xô đã “đốt” 60 tỷ rúp, do đó các lĩnh vực kinh tế quốc dân khác bị suy thoái, xã hội bất ổn, xuất hiện tình trạng tổ chức đảng không kiểm soát được các hoạt động kinh tế.

Cái gọi là cải tổ kinh tế ngay từ đầu đã thất bại, tiêu cực xã hội ngày càng tăng cao, được lý giải như là một thứ học phí của quá trình cải tổ. Nhân cơ hội này, M. S. Gorbachev làm phức tạp hoá tình hình và tiếp tục sai lầm, đẩy mạnh cải cách chính trị với khẩu hiệu công khai hoá, dân chủ hóa.

Dư luận xã hội và trong nội bộ ĐCS Liên Xô đã không ít người nhận rõ những sai lầm rõ rệt có tính tổ chức của cái gọi là cải tổ do Gorbachev khởi xướng và điều hành. Trong bối cảnh hỗn loạn, thông tin chính thức lên Ban lãnh đạo cấp cao bị vô hiệu hoá, trong nội bộ đảng vẫn còn luồng ý kiến cảnh báo: “Chúng ta đã bắt đầu nhận ra khuynh hướng nguy hiểm của việc các nhà lãnh đạo chính trị thiếu quan tâm tới công tác tình báo, những nhiệm vụ chính trị trở nên ít hơn, mối quan hệ ngược đã hoàn toàn bị cắt đứt”.

Còn người có trách nhiệm cao nhất, M. S. Gorbachev lúc đó như thế nào? Về điều này, M. S. Gorbachev đã có lần bày tỏ một cách lấp lửng với phóng viên truyền hình vào tháng 3-1991: “Tình hình càng phức tạp thì tôi càng thích làm việc hơn. Thật tuyệt vời”.

Trong hơn sáu năm trên cương vị Tổng Bí thư, M. S. Gorbachev đã thay đổi hoàn toàn Bộ Chính trị và bộ phận chủ yếu của BCH T.Ư. Chỉ trong năm đầu tiên cầm quyền, ông ta thay 14 trong 23 lãnh đạo trong Ban Bí thư, 39 trong 101 bộ trưởng. 5. Cái gọi là tư duy chính trị mới

Cải tổ làm xã hội bất ổn. Nhằm thích ứng với cải tổ hơn nữa, M. S. Gorbachev tiếp tục phạm sai lầm nguy hiểm khi tung ra cái gọi là “tư duy chính trị mới” thực chất là xoá nhoà ý thức hệ tư tưởng, tạo ra cuộc “diễn biến hoà bình” ngay trong lòng xã hội Xô viết và ĐCS Liên Xô.

Các nhân tố của “tư duy chính trị mới” đã trở thành nền tảng để cải tổ chính sách quân sự và đối ngoại. Những quan điểm sai lầm đó được phương Tây chào đón nhiệt thành. Có thể thấy rõ, trong “tư duy chính trị mới” này, bao hàm những nguồn gốc phá hoại nền quốc phòng và nền an ninh, đối ngoại của Nhà nước Xô viết, phá hoại về chính trị và tư tưởng. “Tư duy chính trị mới chỉ là ẩn danh, song không quá khó khăn để phát giác những dấu vết của những cố vấn bí mật cho Gorbachev. Những kẻ đó hàng chục năm ròng được nuôi dưỡng từ nhà bếp chính trị học phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Những sản phẩm đó chỉ cung cấp cho nơi đặt hàng là Lầu Năm góc và CIA.

Những người trong “đội quân thứ năm” cố vấn đặc biệt cho Gorbachev có thể kể trước hết Yakovlev. Shevardnadze, Primakov, Arbatov, Amlaski, G. Sakhnadarov…Những cộng sự đắc lực đó của Gorbachev đều đã từng nhận những chỉ dẫn của Mỹ và đã cùng với Gorbachev thực hiện thành công đường lối phản bội nhân danh cải tổ để tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.

Liên Xô sụp đổ. Tháng 2 năm 1992, phát biểu tại Nghị viện Israel, M. S. Gorbachev tuyên bố: Tất cả những gì tôi làm với Liên Xô tôi đã làm!

Cũng trong năm đó, tại Quốc hội Mỹ, ông ta đã báo cáo thần tượng của chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ.

(Theo Thời nay)

Nguyên Nhân Sụp Đổ Của Chế Độ Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Liên Xô Và Đông Âu?

-Một là, mô hình chủ nghĩa xã hội đã xây dựng có nhiều khuyết tật và thiếu sót : đường lối lãnh đạo mang tính chủ quan, duy ý chí, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu cao cấp làm cho sản xuất trì trệ, thiếu dân chủ và công bằng xã hội.

– Hai là, không bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại, đưa tới sự trì trệ, khủng hoảng về kinh tế – xã hội.

– Ba là, chậm thay đổi trước những biến động lớn cuả tình hình thế giới (Liên Xô bị khủng hoảng từ lâu nhưng mãi đến năm 1985 mới bắt đầu cải tổ và các nhà lãnh đạo Đông Âu cho rằng chủ nghĩa xã hội là ưu việt không có gì sai sót mà sửa chữa). Sau khi sửa chữa lại tiến hành cải tổ mắt nhiều sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng càng thêm nặng nề.

– Bốn là, hoạt động chống phá cuả các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước liên tục phát triển…có tác động không nhỉ làm cho tình hình càng thêm rối loạn.

2. Liên bang Nga (1991 – 2000)

– Sau khi Liên Xô tan rã, Liên Bang Nga là nước kế thừa chủ yếu của Liên Xô, từ địa vị pháp lí của Liên Xô tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các các cơ quan ngoại giao của Liên Xô ở nước ngoài.

– Tình hình Liên bang Nga :

+ Kinh tế: t hực hiện chính sách tư nhân hoá nền kinh tế nước Nga với tốc độ nhanh, xây dựng nền kinh tế thị trường tự do. Tuy nhiên tình hình nước Nga vẫn không được cải thiện, tiếp tục rơi vào khủng hoảng trầm trọng hơn. Các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đều giảm sút mạnh.

+ Chính trị: Tháng 12 – 1993, Hiến pháp Liên bang Nga được ban hành, quy định thể chế Tổng thống Liên bang.

+ Xã hội : xuất hiện tầng lớp tư sản mới khá đông đảo. Tuy nhiên, đại bộ phận các tầng lớp nhân dân đều rơi vào tình cách khó khăn. Các vấn đề sắc tộc nổi lên gay gắt làm xuất hiện phong trào ly khai và các vụ khủng bố, nổi bật là phong trào ly khai ở Trécnia.

– Từ năm 2000, Khi Tổng thống V. Putin lên làm tổng thống, nước Nga có nhiều chuyển biến khả quan: Kinh tế hồi phục và phát triển tăng trưởng. Chính trị và xã hội tương đối ổn định. Vị thế quốc tế được nâng cao.

Tuy nhiên, nước Nga vẫn phải đương đầu với nhiều thách thức: nạn khủng bố do các phần tử li khai gây ra, đồng thời tiếp tục khắc phục những trở ngại trên con đường phát triển để giữ vững địa vị của một cường quốc Âu – Á.

Bài Học Từ Sự Sụp Đổ Của Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Liên Xô Và Đông Âu

Xét trên phương diện lực lượng, đây là tổn thất to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Thành trì của chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã sụp đổ, chỗ dựa vững chắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã không còn, các nước XHCN còn lại đứng trước thử thách khốc liệt do hệ quả của sự tổn thất đó để lại. Song, khi thời gian đã qua đi, những nguyên nhân về sự sụp đổ của mô hình CNXH Xô viết đã được tổng kết, các nước XHCN còn lại trên thế giới cũng từng bước vượt qua được khủng hoảng, tìm ra những con đường mới để tiếp tục kiên định đi tới lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Sự kiện Liên Xô và Đông Âu tan vỡ có lẽ cũng cần được nhìn nhận dưới một góc độ ngày càng đầy đủ hơn, không chỉ là một tổn thất, mà còn là một sự kiện mang lại những bài học quý báu cho các nước XHCN. Sự phủ định biện chứng một mô hình sai lầm, nhiều khiếm khuyết là cần thiết cho sự phát triển trong tương lai của CNXH. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ sự kiện lịch sử đau đớn ngoài ý muốn của những người cộng sản chân chính đã có ý nghĩa to lớn đối với các nước XHCN, trong đó có Việt Nam để tiếp tục đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Từ sự sụp đổ và tan rã của CNXH ở Liên Xô, chúng ta có thể rút ra được những bài học bổ ích sau đây:

Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng, bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với nhân dân. Xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân.

Đảng lãnh đạo bằng đường lối, có đường lối lãnh đạo đúng đắn nhưng đường lối đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi quần chúng nhân dân hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Do vậy, đòi hỏi mỗi đảng cộng sản phải trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo các nguyên lý cách mạng để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. Để lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước có hiệu quả, Đảng cầm quyền, bộ máy chính quyền phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được lòng dân, nắm chắc dân và quy tụ được sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi Đảng và chính quyền bị tha hóa biến chất, xa dân và sách nhiễu dân, mối quan hệ với nhân dân bị rạn vỡ cũng đồng nghĩa với Đảng sẽ mất quần chúng, nhà nước và chế độ sẽ đánh mất cơ sở xã hội chính trị thì tất yếu bị lật đổ.

Đảng luôn luôn phải giữ vai trò cầm quyền, có nghĩa là Đảng Cộng sản phải thể hiện quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo về chính trị và không bao giờ chia sẻ quyền lực đó cho bất kỳ lực lượng nào khác. Đảng mất là mất hết, vì Đảng lãnh đạo toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân sự cán bộ… Lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt chức năng, cụ thể hóa đường lối của Đảng, quản lý tốt xã hội, kiến tạo xã hội mới, định ra chính sách xã hội đúng đắn đáp ứng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực sự dân chủ, lắng nghe và tôn trọng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và bộ máy chính quyền là “xương sống” của chế độ nên phải vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự vì nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân thì mới bảo đảm cho sự tồn tại của chế độ xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Hai là, vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến lược công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận, kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong công tác tổ chức sắp xếp cán bộ, nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng những người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân dân và được tín nhiệm, bảo đảm sự vững vàng về chính trị. Kiên quyết loại khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng và cơ quan Nhà nước những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính trị tư tưởng và đạo đức, lối sống, sách nhiễu dân và xa dân, không được tín nhiệm. Thực hiện tốt công tác quản lý cán bộ, đánh giá và sử dụng cán bộ vì đó là gốc của mọi công việc, không để mất cảnh giác để các thế lực thù địch cài cắm các phần tử cơ hội, phần tử chống đối phản bội chui sâu, leo cao trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Ba là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển vững chắc của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái, đất nước dễ lâm vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lôi kéo, kích động nhân dân chống lại Đảng và chính quyền, làm chuyển hóa chế độ xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia, không để cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh tế. Cần duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực nội sinh, tạo được nhiều việc làm để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công bằng xã hội, an sinh xã hội, tạo cơ sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển bền vững. Mở rộng hội nhập quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa, đặc biệt là hợp tác về kinh tế là xu thế khách quan mà các nước XHCN phải tham gia, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển được. Vấn đề đặt ra là các nước XHCN mở rộng hội nhập quốc tế để tận dụng được những thành tựu khoa học cộng nghệ, tận dụng được nguồn lực tài chính của các nước phát triển làm cho sản xuất của đất nước ngày càng lớn mạnh đủ sức canh tranh, lợi ích quốc gia – dân tộc và cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.

Bốn là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phòng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác tư tưởng, lý luận phải trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước hết phải quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những người nắm vững bản chất các nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới trở thành những người tiên phong. Nhận thức sâu sắc nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và Đông Âu, với những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Giáo dục mục tiêu, lý tưởng của Đảng, quán triệt kịp thời những nghị quyết đến cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Củng cố niềm tin có cơ sở khoa học của cán bộ, đảng viên, của nhân dân vào con đường đi lên CNXH trong giai đoạn hiện nay. Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong tiến hành công tác chính trị tư tưởng, đặc biệt là phải phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở.