Vì Sao Chúa Jesus Bị Đóng Đinh / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Nghi Vấn Về Hình Phạt Chúa Jesus Bị Đóng Đinh Trên Cây Thánh Giá

Chúa Jesus chịu khổ hình trên cây thánh giá. Ảnh: Kabir Bakie.

Theo International Business Times, cảnh Chúa Jesus chịu khổ hình đóng đinh trên cây thánh giá là một trong những hình ảnh quen thuộc trong Cơ Đốc giáo. Đóng đinh là một hình phạt thời La Mã. Bị treo trên một giá chữ thập lớn, nạn nhân cuối cùng sẽ chết do ngạt thở hoặc kiệt sức. Quá trình này kéo dài và hết sức đau đớn.

Hình phạt được sử dụng để làm nhục công khai nô lệ hoặc tội nhân mà không giết họ dành cho những cá nhân có địa vị thấp hoặc phạm tội chống lại giới cầm quyền. Chúa Jesus phải chịu phạt đóng đinh vì ông thách thức quyền lực tối cao của đế chế La Mã khi trở thành vua người Do Thái.

Theo Meredith J C Warren, giảng viên khoa Nghiên cứu Tôn giáo và Kinh Thánh tại Đại học Sheffield, việc đóng đinh có thể tiến hành theo một số cách. Theo truyền thống Cơ Đốc giáo, tứ chi được đóng vào giá chữ thập bằng gỗ nhưng chưa rõ phần đóng đinh là bàn tay hay cổ tay. Tuy nhiên, người La Mã không thường xuyên đóng đinh nạn nhân. Thay vào đó, đôi khi họ trói nạn nhân bằng dây thừng. Bằng chứng khảo cổ duy nhất chỉ ra hình phạt đóng đinh nạn nhân là một đoạn xương mắt cá chân từ ngôi mộ của Jehohanan, người đàn ông bị hành quyết vào thế kỷ 1.

Viên đá Constanza khắc hình Chúa Jesus. Ảnh: Bảo tàng Anh.

Một số sách phúc âm đầu tiên như sách phúc âm Thánh Thomas không tường thuật khổ hình của Chúa Jesus mà tập trung vào quá trình truyền đạo của ông. Tuy nhiên, 4 cuốn sách phúc âm chuẩn mực khác về Thánh Matthew, Mark, Luke, và John đều đề cập tới cái chết của Chúa Jesus sau khi chịu phạt đóng đinh.

Không cuốn sách phúc âm nào trong kinh Tân Ước nhắc tới Chúa Jesus bị đóng đinh hay bị trói vào cây thánh giá. Sách phúc âm thánh John nói về những vết thương trên cánh tay nâng lên của Chúa Jesus, dẫn tới niềm tin phổ biến rằng cả bàn tay và bàn chân ông đều bị đóng đinh.

Trong hình khắc trên viên đá Constanza tìm thấy ở khu vực nay là Cộng hòa Dominica có niên đại từ thế kỷ 4, bàn tay của Chúa Jesus dường như không bị đóng đinh vào cây thánh giá với tư thế buông thõng tự nhiên, giống với bị trói ở cổ tay.

Chúa Giêsu Có Bị Đóng Đinh Và Chết Không?

14/06/2021 09:34

Cả bốn Phúc Âm đều cho biết rằng Chúa Giêsu thực sự bị đóng đinh và chết trên Thập giá. Chứng cớ đó có đủ bảo đảm để kết luận rằng tường trình Phúc Âm là chính xác? Trước khi tìm câu trả lời, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của câu hỏi này. Cái chết cứu độ và sự phục sinh của Chúa Giêsu là giáo lý chủ yếu của Kitô giáo.

Nếu một trong hai điều đó không xảy ra, việc rao giảng của các tông đồ về Kitô giáo đều vô ích. Vì nếu Chúa Giêsu không chết trên Thập giá thì không có cái chết hy sinh vì tội lỗi của chúng ta để cứu chuộc chúng ta như Phúc Âm truyền dạy. Hơn nữa, vì thuật ngữ “phục sinh” nói đến sự biến đổi thân xác thành thể xác bất tử, nếu Chúa Giêsu không chết thì không có thi thể nào được biến đổi nhờ sự phục sinh.

Không có sự phục sinh thì Kitô giáo là giả tạo, như Thánh Phaolô dạy: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17). Các Phúc Âm cho biết rằng Chúa Giêsu xác định “sự phục sinh của Ngài là chứng cớ của những lời tuyên bố về chính Ngài là thật” (x. Mt 12:39-40; Ga 2:18-22). Như vậy, theo Chúa Giêsu và Thánh Phaolô, nếu Chúa Giêsu không phục sinh, chúng ta phải tìm một thế giới khác. Do đó, vì sự phục sinh đòi hỏi có sự chết, chính cái chết của Chúa Giêsu do bị đóng đinh thực sự là mối liên kết không thể phá vỡ nếu Kitô giáo được coi là đúng thật.

Đây là 4 lý do củng cố niềm tin về việc Chúa Giêsu chịu chết do bị đóng đinh:

Thứ nhất, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu được các văn bản cổ kể lại: Kitô giáo và ngoài Kitô giáo. Ngoài 4 Phúc Âm và một số Thánh Thư trong Tân ước, các văn bản đều được viết từ thế kỷ I, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cũng được tường thuật bởi các văn bản cổ ngoài Kitô giáo. Josephus (cuối thế kỷ I), Tacitus (đầu thế kỷ II), Lucian (giữa thế kỷ II), và Mara bar Serapion (thế kỷ II và III) cũng tường thuật sự kiện này. Sự thật là các văn bản ngoài Kitô giáo này nói đến Chúa Giêsu và cho thấy rằng cái chết của Chúa Giêsu cũng được người ngoại giáo biết chứ không phải Kitô giáo bịa đặt.

Thứ nhì, rất khó có thể sống sót sau khi bị đóng đinh. Việc đóng đinh và hành hạ nhiều lần là cách tồi tệ nhất thời xưa. Nhiều người trong chúng ta đã xem phim “The Passion of the Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Mel Gibson (*) thì thấy rõ cách hành hạ rất dã man. Nhiều bản văn cổ cũng mô tả như vậy, chẳng hạn Josephus, một sử gia Do Thái hồi thế kỷ I, đã kể về một đàn ông bị đánh đập bằng roi da rất dã man đến nỗi lòi xương ra (1). Ông còn nói về một nhóm người bị đánh đập đến lòi ruột (2). Trong bản văn hồi thế kỷ II là “The Martyrdom of Polycarp” (Cuộc Tử Đạo của Thánh Pô-ly-ca-pô), lính La Mã đánh người đến đứt cả động mạch (3). Nạn nhân được đưa ra ngoài thành phố rồi bị đóng đinh vào thập giá hoặc một cây nào đó (4). Nạn nhân bị bỏ mặc chịu đau đớn cùng cực. Thế kỷ I, triết gia người Rôma là Seneca đã mô tả các nạn nhân bị đóng đinh là “bị đập liên hồi, bị cắt chân tay, bị biến dạng, bị đóng đinh và bị hành hạ đến bán sống bán chết” (5). Chỉ có một trường hợp được kể là sống sót sau khi bị đóng đinh. Josephus kể là đã chứng kiến ba người bị đóng đinh (6). Ông kêu gọi người bạn Titus làm đội trưởng lính La Mã, người đã ra lệnh tháo đinh ngay và được hỗ trợ y tế. Dù vậy, hai trong ba người vẫn chết. Như vậy, nếu Chúa Giêsu được tháo đinh sớm và được cấp cứu thì cơ may sống sót cũng rất khó. Tuy nhiên, không có chứng cớ nào nói rằng Chúa Giêsu được tháo đinh sớm khi còn sống và được cấp cứu.

Thứ ba, ý kiến chuyên ngành y khoa đều nhất trí kết luận rằng Chúa Giêsu chắc chắn chết vì bị đóng đinh (7). Một số người không chắc chắn, nhưng đa số vẫn nói rằng Chúa Giêsu chết vì ngộp thở (asphyxiation) hoặc thiếu oxygen. Vốn hiểu biết của chúng tôi về việc đóng đinh đều đồng thuận với ý kiến này. Nhiều nguồn cổ nói rằng việc đập gãy ống chân là để nạn nhân mau chết trên thập giá (8). Vậy là sao? Tôi có hai người bạn là trưởng khoa cấp cứu ở hai bệnh viện lớn (9). Tôi hỏi họ rằng đập gãy ống chân cho nạn nhân mau chết thì có đúng không. Họ trả lời rằng chắc chắn hiếm xảy ra lắm. Vậy họ đập gãy ống chân nạn nhân cho mau chết bằng cách nào?

Trong thế chiến I và II, người Đức thường hành hạ các nạn nhân bằng một “phương pháp” gọi là “aufbinden” – nạn nhân bị cột chặt hai tay rồi bị treo lơ lửng, chân không chạm đất. Khi nạn nhân kiệt sức, họ lại thả nạn nhân xuống. Khi nạn nhân tỉnh thì họ lại treo lên. Vì cơ bắp dùng để hít mạnh hơn dùng để thở, đi-ô-xít các-bon sẽ tích tụ và nạn nhân sẽ chết một cách khổ sở. Thí nghiệm cho thấy người ta bị treo lơ lửng sẽ bất tỉnh trong vòng 12 phút, nếu tay treo ở góc 45 độ hoặc nhỏ hơn so với cơ thể. Đập gãy ống chân nạn nhân bị đóng đinh sẽ làm cho nạn nhân dễ thở, dù chỉ tạm thời. Do đau đớn vì bị đóng đinh, nạn nhân sẽ chết vì thiếu oxygen, không có cơ may tỉnh lại. Thánh sử Gioan cho biết rằng một tên lính đã lấy ngọn giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu để chắc chắn Ngài chết thật (x. Ga 19:34-37), cách này được nói tới trong tài liệu của Quintillian, sử gia Rôma hồi thế kỷ I (10).

Có lý do nào để tin rằng quân lính Rôma muốn xử lý cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá? Một sử gia Do Thái uy tín hồi thế kỷ I có nói tới việc người Rôma hủy hoại thành Giêrusalem năm 70. Người Do Thái có thói quen tháo xác các tử tội khỏi thập giá và chôn trước khi mặt trời lặn (11). Các tài liệu cổ cho biết rằng có người bị đóng đinh mà sống tới 3 ngày trên thập giá, các nạn nhân bị bỏ mặc trên thập giá cho tới chết để làm mồi cho chim chóc, chó, và côn trùng. Tuy nhiên, đây không là cách thực hành ở Giêrusalem trước khi thành này bị hủy hoại năm 70. Chúa Giêsu bị đóng đinh khoảng năm 30 hoặc 33. Như vậy, chúng ta có lý để tin chắc rằng Chúa Giêsu đã chết thật trước khi mặt trời lặn vào ngày Ngài bị xử tử. Thánh Gioan kể: “Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống” (Ga 19:38).

Thứ tư, nếu Chúa Giêsu có thể sống sót sau khi bị đóng đinh, Ngài sẽ không bảo các môn đệ tin Ngài sống lại. Chúng ta thử tưởng tượng rằng Chúa Giêsu nửa sống nửa chết trong mộ đá. Ngài hồi tỉnh sau cơn hôn mê và thấy mình ở trong khoảng tối tăm. Ngài mò mẫn mà không tìm thấy lối ra. Mấy tên lính gác hỏi: “Ông định trốn đi đâu vậy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Tôi muốn thoát ra khỏi đây”. Ngài đánh mấy tên lính gác, sau đó Ngài ra khỏi mộ đá và đi tìm các môn đệ. Cuối cùng, Ngài đến căn nhà mà Thầy trò đã ở và gõ cửa. Phêrô ra mở cửa và gặp Chúa Giêsu lom khom với hình hài toe tua tơi tả. Phêrô nói:“Lạy Chúa! Con không phải đợi Thầy phục sinh như Thầy đã nói sao?”. Hẳn là sử gia sẽ nói rằng Chúa Giêsu phải thuyết phục các môn đệ tin đó là Ngài trong tình trạng thương tích đầy mình và phục sinh trong thân xác bất tử. Còn sống ư? Chắc chắn là thế. Sống lại ư? Không còn cách khác.

Tóm lại, chứng cớ lịch sử xác nhận rằng Chúa Giêsu thực sự chết do bị đóng đinh (chết về nhân tính thôi). Nhiều nguồn cổ xác nhận như vậy, một số nguồn ngoài Kitô giáo, như vậy thì không thiên về cách hiểu của Kitô giáo về sự kiện này. Rất ít cơ may sống sót sau khi bị đóng đinh. Nếu Chúa Giêsu sống sót sau khi bị đóng đinh, không thể nào các môn đệ tin chắc là Ngài phục sinh.

Dù rất đa nghi, người sáng lập tổ chức “Jesus Seminar John Dominic Crossan” cũng kết luận: “Chúa Giêsu bị đóng đinh là điều chắc chắn như bất cứ điều gì khác trong lịch sử” (12). Cũng vậy, nhà phê bình Tân ước Gerd Lüdemann (người vô thần) đã viết: “Chúa Giêsu chết do bị đóng đinh là điều không thể chối cãi” (13).

Như vậy, đã rõ Chúa Giêsu chết vì bị đóng đinh, không có chứng cớ nào phản bác, sử gia đã xác nhận rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh và quá trình đó đã khiến Ngài chết.

Đôi khi người ta nói rằng Chúa Giêsu không thể là Thiên Chúa vì Ngài đã chết, mà Thiên Chúa thì bất tử. Điều họ không hiểu là Chúa Giêsu có hai bản tính: Thiên tính và nhân tính. Về lý thuyết, chúng ta gọi đó là sự kết hợp thực thể (hypostatic union). Giáo hội dạy rằng Đức Kitô có hai bản tính riêng biệt, thần tính và nhân tính.

Chúa Giêsu có chết không? Không, Thiên Chúa không thể chết. Kinh thánh cho biết rằng Thiên Chúa bất biến (Tv 90:2; Mlk 3:6), nghĩa là Ngài không hề thay đổi. Nếu Ngài chết, đó là thay đổi. Thần tính của Chúa bất biết, vậy Ngài không thể chết. Vả lại, sự chết là chức năng sinh học mà sinh vật nào đó không còn sống. Nhưng Thiên Chúa không có tính sinh học. Ngài khác hẳn chúng ta. Về lý thuyết, chúng ta nói rằng Ngài “hoàn toàn khác”. Nghĩa là Ngài khác hẳn đối với phàm nhân chúng ta. Vì chúng ta chết, nhưng THIÊN CHÚA KHÔNG CHẾT.

Cũng vậy, ý tưởng về cái chết có ẩn ý về sự không tồn tại. Đây là vấn đề khác khi suy nghĩ về vấn đề Thiên Chúa chết. Theo Kitô giáo, Thiên Chúa hiện hữu vĩnh hằng – lại ngụ ý sự thay đổi về bản chất của Ngài, một tình trạng không thể có. Do đó, THIÊN CHÚA KHÔNG THỂ CHẾT.

Đôi khi người ta nói rằng Chúa Giêsu không thể là Thiên Chúa vì Ngài đã bị người Do Thái giết chết trên Thập giá. Điều họ không hiểu là Chúa Giêsu có hai bản tình: Thiên Chúa và con người. Về lý thuyết, chúng ta gọi đó là sự kết hợp thực thể hoặc bản thể. Giáo hoàng dạy rằng nơi Đức Kitô có hai bản tính riêng biệt, thần tính và nhân tính. Nhân tính chết trên Thập giá, chứ không phải là thần tính. Nhưng vì Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, thế nên chúng ta nói rằng Chúa Giêsu chết trên Thập giá.

Như vậy, THIÊN CHÚA KHÔNG CHẾT; nhưng nơi Đức Kitô, ĐẤNG LÀM NGƯỜI CÓ THẦN TÍNH, chúng ta hiểu đó là cái chết về sinh học, chứ không là cái chết về thần tính bất tử của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã bị người ta giết chết về nhân tính, về thể lý, nhưng chính NGÀI ĐÃ PHỤC SINH vinh quang như Ngài đã nói trước.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ chúng tôi và Y-Jesus.org)

1 Chiến Tranh 6:304. Xem 2:612; Tích Xưa 12:256.

2 Chiến Tranh 2:612.

3 Cuộc Tử Đạo của Thánh Polycarp 2:2.

4 Rất nhiều văn bản cổ nói tới việc dùng đinh đóng những người bị phạt một cái cây hoặc thập giá. Phúc Âm theo Thánh Gioan nói tới cuộc đóng đinh của Chúa Giêsu (20:25 & 27), và Thánh Luca cũng ám chỉ điều đó (24:39). Không có nguồn nào nói rằng Chúa Giêsu không bị đóng đinh vào thập giá.

5 Seneca, Các Thư, “To Lucilius” 101.

6 Josephus, Life 420-21.

7 Một số được nhắc tới trong sách “Raymond Brown, The Death of the Messiah”, Volume 2 (New York: Doubleday, 1994), 1088ff.

8 Cicero, Các bài Diễn Thuyết, bài 13, 12:27; Phúc Âm theo Thánh Phêrô 4:14. Trong Phúc Âm theo Thánh Phêrô, việc đánh gãy chân bị cấm, với mục đích là để nạn nhân phải chịu đau đớn lâu.

9 Dr. Jim Ritchie và Dr. Jack Mason.

10 Các bài Diễn Thuyết 6:9: “Đối với người chết trên thập giá, người hành hình không cấm chôn người bị xử tử”.

11 Chiến Tranh Do Thái 4:317. 

12 John Dominic Crossan, Chúa Giêsu: Tiểu Sử Cách Mạng (San Francisco: HarperCollings, 1991), 145.

13 Gerd Lüdemann. Sự Phục Sinh của Đức Kitô (Amherst, NY: Prometheus, 2004), 50.

(*) Phim sản xuất năm 2004 [https://www.youtube.com/watch?v=YthiJ07xRAs], diễn viên Jim Caviezel đóng vai Chúa Giêsu. Sáu tháng trước khi bắt đầu đóng phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu”, Jim Caviezel thường hay thăm viếng nơi Đức Mẹ hiện ra ở Medjugorge (Mễ Du). Tại đây, tình cờ ông gặp một phụ nữ xa lạ, và bà này đã nói: “Anh sẽ đóng vai Chúa Giêsu đấy!”. Quả thật, đạo diễn Mel Gibson đã tìm thấy Jim Caviezel trong danh sách những người đăng ký xin đóng phim. Ông thấy tên Jim Caviezel và Jesus Christ rất gần nhau, đều được viết tắt là J.C. Có điều lạ nữa là Jim Caviezel lúc ấy cũng đúng 33 tuổi, rất trùng hợp với tuổi của Chúa Giêsu khi bị khổ nạn.

Tại Sao Giáo Hội Công Giáo Tôn Kính Thánh Giá Có Hình Chúa Kitô Bị Đóng Đanh (Crucifix) Trong Khi Các Phái Tin Lành Chỉ Trưng Thánh Giá Không Có Hình Chúa Bị Đóng Đinh?

Hỏi : Xin cha giải thích cho biết tại sao người Tin Lành chỉ trưng cây thập giá không có Chúa chịu đóng đanh, trong khi người Công Giáo lại trưng hình Chúa chịu đóng đanh trên thập giá ở trong nhà thờ cũng như ở tư gia ?

Trả lời :

Đây là câu hỏi rất quan trọng về sự khác biết giữa Công Giáo và Tin Lành liên quan đến cây thập giá của Chúa Kitô

Các Nhóm Tin Lành, nói chung, đều cho rằng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại rồi, nên không cần thiết phải tôn kinh thánh giá với thân thể Chúa bị đóng đanh nữa. Đó là lý do họ chỉ tôn kinh thập giá không có Chúa bị đóng đanh mà thôi.

Đây là niềm tin của anh em Tin Lành, chúng ta không muốn phê bình và tranh cãi gì với họ.

Ngược lại, về phần mình, sở dĩ Giáo Hội Công Giáo tôn kinh Thánh giá với hình Chúa chịu đóng đanh vì giáo lý sau đây của Thánh Phao lô Tông Đồ:

” Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đanh, một điều người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.” ( 1 Cor 1: 22-23)

ở nơi khác, Thánh Phaolô cũng viết:

” Bởi thế tại vì lề luật mà tôi đã chết đối với lề luật để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đanh với Đức Kitô vào thập giá.” ( Gl 2: 19)

Hay rõ hơn nữa:

“ Hồi còn ở giữa anh em, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Kitô bị đóng đanh vào thập giá, “ ( 1 Cor 2 : 2)

Như thế cho ta thấy rõ là Thánh Phaolô đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Kitô bị đóng đanh vào thập giá để hiến mạng sống mình làm ” giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20:28),

Dĩ nhiên Thánh Phaolô cũng không coi nhẹ sự kiện Chúa đã sống lại, đã ra khỏi Mồ đá sau ba ngày được mai táng ở đây, như Thánh Kinh đã quả quyết, căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống và lời chứng của Maria Mac-đa-lê- na, và hai phụ nữ khác , là những người đầu tiên đã đến viếng Mộ Chúa sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần . Các bà đã không thấy xác Chúa và Mac-đa lêna đã khóc vì tưởng ai đã lấy trộm xác Chúa. Cho nên , để an ủi họ và cho các bà niềm tin về việc Người đã sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các bà và bảo họ về nói với các Tông Đồ là Chúa đã sống lại và sẽ gặp các ông ở Ga-li-lê , (Mt 28: 1-8; Mc 16: 1-8; Lc 24: 1-7).

Thánh Phaolô cũng quả quyết như sau về sự Phục Sinh của Chúa Kitô:

“ Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh; rồi Người đã được mai táng , và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. ” ( 1 Cor 15: 3-4)

Đây là niêm tin của Giáo Hội và là điều Giáo Hội phải dạy cho con cái mình tin từ xưa đến nay và còn mãi về sau cho đến ngày cánh chung tức là ngày tận thế hay hết thời gian.

Nhưng sự kiện Giáo Hội vẫn tôn kính Thánh giá với hình Chúa bị đóng đinh ( Crucifix) không có nghĩa không chú trọng đến việc Chúa đã sống lại như anh em Tin Lành quan niệm; mà ngược lại, Giáo Hội muốn nhấn mạnh thêm về ý nghĩa Chúa đã chịu đóng đinh và chết trên thập giá để đền tội thay cho cả nhân loại đáng phải phạt vì tội.

Nghĩa là Giáo Hội muốn cho con cái khi nhìn thân hình Chúa bị treo trên Thánh giá, phải nhớ đến trước tiên điều Thánh Phaolô đã dạy là : ” Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình ” ( Rm 8: 3)

Lên án tội trong thân xác Con mình , vì con người đã phạm tội trong thân xác nên Thiên Chúa đã sai Con mình là Chúa Giê su Kitô đến trần gian mang thân xác giống thân xác tội lỗi của con người để đền tội thay cho tất cả nhân loại qua khổ nạn vác thập gias nặng nề, chịu đóng và chết tất tưởi trên đó.

Như thế, nếu ai sống theo xác thịt, với những đòi hỏi bất chính, đối nghịch hoàn toàn với bản chất cực tốt cực lành của Thiên Chúa, thì sẽ dẫn đưa đến sự chết đời đời.Ngược lại, ai sống theo thần khí, tức sống theo ý muốn tốt lành của Thiên Chúa được Chúa Thánh Linh soi dẫn, thì sẽ được cứu độ để sống đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.Mọi người đều có tự do chọn lựa bao lâu còn sống trên đời này và trong thân xác có ngày phải chết đi này.Nghĩa là Thiên Đàng hay hỏa ngục là tùy chọn lựa của con người và Thiên Chúa luôn tôn trọng ý muốn tự do (free will) này của con người.

Lại nữa, vì Chúa Kitô đã chịu mọi khốn khó trong thân xác mình để đền tội thay cho con người, nên Thánh giá vởi hình Chúa đầu đội mão gai, chân tay bị đanh đóng thâu qua treo trên thập giá sẽ nhắc nhở cho chúng ta về tội lỗi của mọi người chúng ta khiến Chúa phải bị đánh phạt cách nặng nề như vậy.

Do đó,để xứng đáng hưởng công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa, mọi người tín hữu chúng ta phải quyết tâm chừa bỏ tội lỗi để không đóng đanh Chúa thêm lần nào nữa trong tâm hồn mình. Phải xa tránh tội vì chỉ có tội mới làm ngăn cách chúng ta với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Chỉ có tội mới đẩy chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa để thuộc về ma quỷ là kẻ cầm đầu và gây ra mọi tội lỗi và sự dữ từ đầu cho đến bây giờ và còn mãi về sau cho đến ngày hết thời gian.Cứ nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay thì đủ biết tội lỗi ghê gớm thế nào, và vì sao Chúa Kitô còn phải chịu đóng đanh thêm nhiều lần nữa vì tội con người.

Đó là tội giết người, giết thai nhi để lấy các cơ phận của thai nhi đem bán như những món hàng thương mại để kiếm tiền cách vô luân,vô đạo như bọn điều hành cơ quan Planned Parenthood đã và đang làm công khai và hợp pháp từ bao lâu nay ở Mỹ. Đó là tội nhân danh tôn giáo để giết hại những ai không thuộc về phe của chúng, như bọn quá khich Hồi giáo ( ISIS) đang làm ở Trung Đông. Lại nữa, đó là tội ác của bọn buôn người, buôn bán phụ nữ cho nô lệ tình dục, và bắt cóc trẻ gái để bán cho bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi ở rất nhiều nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.

Lại nữa, đó là tội của bọn tham quyền cố vị , cố duy trì ách cai trị độc ác, để vơ vét của cải, làm giầu cho bọn chúng, và tạo bất công bóc lột người dân lành chẳng may rơi vào ách thống trị của chúng . Sau cùng đó là tội dửng dưng trước sự đau khổ , nghèo khó của biết bao người kém may mắn trong xã hội, nạn nhân của bóc lột và bất công của mọi chế độ cai trj hà khắc,bất công và vô nhân đạo.

Sự có mặt của các tội con người đã và đang phạm ở khắp nơi cũng biện minh cho lý do có nơi gọi là hỏa ngục để cho những kẻ đang làm những sự dữ mà không biết sám hối từ bỏ thì sẽ tự dẫn thân đến nơi khốn nạn này để bị trừng phạt xứng đáng với tội họ đã làm khi còn sống trên trần gian này.

Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, không muốn ai phải hư mất, không muốn phạt ai, vì Người ” muốn cho mọi người được cứu độ và nhậm biết chân lý,” ( 1 Tm 2: 4). Nhưng chính con người lại muốn chọn bị hư mất, vì đã tự do chọn lựa cách sống nghich cùng Thiên Chúa mà không hề biết ăn năn sám hối để xin Người tha thứ .

Mặt khác, Thánh giá với hình Chúa bị đóng đanh cũng minh chứng hùng hồn điều Chúa Kitô đã nói với các Tông Đồ trước ngày Người bị bắt và bị treo trên thập giá. Chúa nói:

” Không có tình thường nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.

Anh em là bạn hữu của Thầy ” ( Ga 15: 13-14)

Chúa coi tất cả chúng ta là bạn hữu của Người, và Chúa đã thực sự hy sinh tính mạng của Người cho chúng ta khi giang tay chịu chết trên thập giá. Vì thế, mỗi lần ngắm hình Chúa bị đóng đanh trên thập giá là dịp cho ta nhớ đến tình thương lớn lao của Chúa dành cho mọi người chúng ta, để từ đó ta thêm quyết tâm yêu mến Chúa Kitô một ngày một hơn để bước đi theo Chúa là ” con Đường, là sự Thật và là sự Sống.” ( Ga 14: 6).

Tóm lại, thập giá với thân hình Chúa chịu đóng đanh nhắc cho ta giá đắt Chúa Kitô đã trả cho chúng ta được cứu rỗi, đồng thời cũng nhắc cho ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, Đấng đã hy sinh Con mình cho chúng ta được cứu chuộc và có hy vọng được sống đời đời với Chúa trên Thiên Đàng mai sau.

Do đó, Giáo Hội dạy phải tôn kính thập giá với thân hình Chúa Kitô bị treo trên đó cho những ai nhìn lên để xin ơn cứu chuộc, giống như con rắn đồng mà ông Mô-sê đã treo trên cây cột trong sa mạc xưa để những ại bị rắn độc cắn nhìn lên sẽ được cứu sống.(x. Ds 21: 6-9)

Lm P.X Ngô Tôn Huấn

CGVN

Tiết 2: Chúa Giêsu “Chịu Đóng Đinh Trên Cây Thánh Giá, Chết”

Tiết 2

Chúa Giêsu “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết”

Paragraphus 2

Iesus mortuus est crucifixus

I.  VỤ ÁN CHÚA GIÊSU

IESU PROCESSUS

Những chia rẽ giữa các nhà cầm quyền Do Thái về Chúa Giêsu 

595. Giữa các nhà cầm quyền tôn giáo ở Giêrusalem, không kể ông Nicôđêmô thuộc nhóm Pharisêu[1] và ông Giuse, người Arimathêa, một nhân vật quyền thế, cả hai là những môn đệ âm thầm của Chúa Giêsu[2], nhưng từ lâu những người khác đã có sự bất đồng với nhau về Người[3], đến độ, hôm trước cuộc khổ nạn, thánh Gioan đã có thể nói: “Ngay cả trong giới lãnh đạo Do thái, cũng có nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu. Nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường” (Ga 12,42). Điều này hoàn toàn không có gì lạ nếu chúng ta lưu ý rằng ngay sau lễ Ngũ Tuần, “cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin” (Cv 6,7) và “có những người thuộc phái Pharisêu đã trở thành tín hữu” (Cv 15,5), đến độ thánh Giacôbê đã có thể nói với thánh Phaolô rằng: “Thưa anh, anh thấy có hàng vạn người Do thái đã tin theo, và tất cả đều nhiệt thành đối với luật Môisen” (Cv 21,20).  

596. Các nhà cầm quyền tôn giáo ở Giêrusalem đã không nhất trí với nhau về cách xử sự đối với Chúa Giêsu[4]. Nhóm Pharisêu dọa khai trừ những ai đi theo Người[5]. Với những ai sợ rằng “mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta!” (Ga 11,48), thượng tế Caipha đã đề nghị bằng lời tiên tri: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,49-50). Thượng Hội Đồng tuyên bố Chúa Giêsu đáng phải chết[6] vì tội nói phạm thượng, nhưng vì đã mất quyền tuyên án tử hình[7], nên họ đã nộp Chúa Giêsu cho người Rôma và tố cáo Người về tội nổi loạn chính trị[8], điều đó khiến Người bị liệt đồng hàng với Barabbas, một người bị tống ngục “vì một vụ bạo động” (Lc 23,19). Các thượng tế cũng đưa ra những lời đe dọa mang tính chất chính trị để buộc quan Philatô kết án tử hình Chúa Giêsu[9].  

Người Do Thái không có tội một cách tập thể về cái chết của Chúa Giêsu 

597. Xét đến tính chất phức tạp về mặt lịch sử của vụ án Chúa Giêsu, được biểu lộ trong các trình thuật của các sách Tin Mừng, và bất cứ tội cá nhân nào của những người tham gia vụ án này (Giuđa, Thượng Hội Đồng, Philatô) chỉ mình Thiên Chúa biết, nên chúng ta không thể quy trách nhiệm cho mọi người Do thái ở Giêrusalem, mặc dù đã có những tiếng la ó của đám đông bị lừa gạt[10], và những lời trách cứ tập thể trong các bài giảng kêu gọi hối cải sau lễ Ngũ Tuần[11]. Chính Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho họ[12], và sau Người, thánh Phêrô cũng coi những người Do thái ở Giêrusalem và cả các thủ lãnh của họ là đã hành động vì “không hiểu biết”[13]. Càng không được mở rộng trách nhiệm đến những người Do thái ở những nơi chốn khác và thời đại khác, căn cứ vào tiếng la ó của dân chúng: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27,25), vì đây chỉ là một công thức thừa nhận bản án[14]. Vì vậy, Hội Thánh đã tuyên bố tại Công đồng Vaticanô II: 

“Không thể quy trách nhiệm một cách không phân biệt về những tội ác người ta đã phạm trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cho mọi người Do thái thời đó, cũng như cho người Do thái thời nay…. Không thể nói rằng Thiên Chúa đã loại bỏ người Do thái hoặc đã chúc dữ cho họ, coi đó như là điều được dạy trong Thánh Kinh”[15].  

Mọi tội nhân đều là tác giả của cuộc khổ nạn của Đức Kitô 

598. Trong giáo huấn đức tin của mình và trong chứng từ của các Thánh, Hội Thánh không bao giờ quên chân lý này: “Các tội nhân là những tác giả và tác viên của mọi cực hình mà Đức Kitô đã phải chịu”[16]. Xét vì tội lỗi của chúng ta xúc phạm đến chính Đức Kitô[17], Hội Thánh không ngần ngại quy trách nhiệm tối đa về các cực hình Chúa Giêsu phải chịu cho các Kitô hữu, một trách nhiệm mà họ rất thường trút trên một mình người Do thái: 

“Chúng ta phải coi những kẻ thường xuyên sa ngã trong tội lỗi là những người đã phạm lỗi tầy trời ấy. Bởi lẽ tội lỗi của chúng ta đã làm Chúa Kitô phải chịu khổ hình thập giá, nên chắc chắn, chính những ai chìm đắm trong gian tà và tội ác, là những người đã tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa và đã công khai sỉ nhục Người. Quả thật, có thể thấy rằng như vậy tội ác của chúng ta là nặng nề hơn của người Do thái, vì những người này, theo thánh Tông Đồ, ‘nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Chúa hiển vinh vào thập giá’ (1 Cr 2,8); còn chúng ta, chúng ta tuyên xưng rằng chúng ta biết Người, nên khi chúng ta chối bỏ Người bằng hành động, thì một cách nào đó coi như chúng ta đã ra tay tàn nhẫn giáng trên Người”[18].  

“Và ma quỷ cũng không đóng đinh Người vào thập giá, nhưng chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Người, và bạn còn đóng đinh Người bằng cách hưởng lạc thú trong các nết xấu và tội lỗi”[19].  

II. CÁI CHẾT CỨU CHUỘC CỦA ĐỨC KITÔ TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

MORS REDEMPTIVA CHRISTI IN DIVINO SALUTIS CONSILIO 

“Chúa Giêsu bị nộp theo kế hoạch Thiên Chúa đã định” 

599. Cái chết tàn nhẫn của Chúa Giêsu không phải là kết quả ngẫu nhiên do sự kết hợp của những tình huống bất hạnh. Cái chết đó thuộc về mầu nhiệm của kế hoạch của Thiên Chúa, như thánh trong ngày lễ Ngũ Tuần: Người đã bị nộp “theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước” (Cv 2,23). Thánh Kinh nói như vậy không có nghĩa là những kẻ đã “nộp Chúa Giêsu”[20] chỉ là những người thụ động làm theo một kịch bản do Thiên Chúa viết trước.  

600. Đối với Thiên Chúa mọi thời điểm trong tính thời sự của nó đều là hiện tại. Vì vậy, chính Thiên Chúa thiết lập kế hoạch “tiền định” vĩnh cửu của Ngài, Ngài bao gồm trong kế hoạch ấy lời đáp trả tự do của mỗi người đối với ân sủng của Ngài: “Đúng vậy, Hêrôđê, Phongxiô Philatô, cùng với chư dân và dân Israel đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Ngài đã xức dầu[21]. Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã định trước” (Cv 4,27-28). Thiên Chúa cho phép xảy ra những hành vi xuất phát từ sự mù quáng của họ[22], để hoàn thành kế hoạch cứu độ của Ngài[23].  

Đức Kitô “đã chết vì tội lỗi chúng ta theo như lời Thánh Kinh” 

601. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa về việc “Người Tôi Trung Công Chính” bị giết[24] đã được báo trước trong Thánh Kinh như một mầu nhiệm Cứu Chuộc phổ quát, nghĩa là, giải thoát người ta khỏi ách nô lệ tội lỗi[25]. Thánh Phaolô, trong lời tuyên xưng đức tin mà ngài nói mình đã “lãnh nhận”[26], tuyên xưng rằng “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3)[27]. Sự chết mang lại ơn cứu chuộc của Đức Kitô hoàn thành một cách đặc biệt lời tiên tri về Người Tôi trung đau khổ[28]. Chính Chúa Giêsu đã trình bày ý nghĩa cuộc đời và sự chết của Người dưới ánh sáng về Người Tôi trung đau khổ[29]. Sau khi Người sống lại, Người đã giải thích Thánh Kinh như vậy cho các môn đệ Emmaus[30], rồi cho chính các Tông Đồ[31].

“Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” 

602. Chính vì thế thánh Phêrô có thể diễn tả đức tin tông truyền về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này” (1 Pr 1,18-20). Các tội người ta phạm, tiếp theo sau tội tổ tông, khiến người ta phải chết[32]. Khi sai Con Một của Ngài đến trong thân phận tôi tớ[33], tức là trong thân phận loài người đã sa ngã và tất phải chết vì tội lỗi[34], “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21).  

603. Vì không phạm tội, Chúa Giêsu không bao giờ biết đến việc bị Thiên Chúa loại bỏ[35]. Nhưng trong tình yêu cứu chuộc, một tình yêu hằng kết hợp Người với Chúa Cha[36], Người đã đảm nhận lấy chúng ta, những kẻ đang vì tội lỗi mà lạc đường lìa xa Thiên Chúa, đến độ trên thập giá, Người đã có thể thốt lên thay chúng ta: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34)[37]. Vì đã kết hợp Đức Kitô với chúng ta là các tội nhân, nên Thiên Chúa “đã chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp chính Con Một của Ngài vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32), để chúng ta “được giao hoà với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Một Ngài” (Rm 5,10).  

Thiên Chúa đã khởi xướng trong tình yêu cứu chuộc mọi người 

604. Khi trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10)[38]. “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).  

605. Tình yêu này không loại trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người quả quyết Người “hiến dâng mạng sống làm giáchuộc muôn người” (Mt 20,28). Lời tuyên bố quan trọng này không mang ý nghĩa hạn chế: lời đó đặt song đối tập thể nhân loại với một mình Đấng Cứu Chuộc, Đấng tự hiến để cứu độ nhân loại ấy[39]. Hội Thánh, theo sau các Tông Đồ[40], dạy rằng: Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Người [Đức Kitô] không chịu khổ nạn cho”[41].

III.  ĐỨC KITÔ ĐÃ TỰ HIẾN CHO CHÚA CHA VÌ TỘI LỖI CHÚNG TA

CHRISTUS SE IPSUM PATRI SUO PRO NOSTRIS OBTULIT PECCATIS

Cả cuộc đời của Đức Kitô là của lễ dâng hiến Chúa Cha

606. Con Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống, không phải để làm theo ý Người, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Người”[42], “khi vào trần gian, Người nói: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài’… theo ý đó, chúng ta được thánh hóa, nhờ Chúa Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, một lần cho mãi mãi” (Dt 10,5-10). Ngay từ phút đầu tiên Người nhập thể, Chúa Con đã gắn bó với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong sứ vụ cứu chuộc của mình: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Hy lễ của Chúa Giêsu “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2) là sự diễn tả tình yêu hiệp thông của Người với Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,17). Thế gian phải “biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31).

607. Sự khao khát gắn bó với kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha truyền cảm hứng cho cả cuộc đời Chúa Giêsu[43], bởi vì cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người là lý do việc Người nhập thể: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). “Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Và trên thập giá, trước khi mọi sự “đã hoàn tất” (Ga 19,30), Người nói: “Tôi khát!” (Ga 19,28).

“Chiên xoá tội trần gian”

608. Sau khi chấp nhận làm phép rửa cho Chúa Giêsu giữa các tội nhân[44], ông Gioan Tẩy Giả đã thấy và giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian[45]. Như vậy ông cho thấy rằng Chúa Giêsu đồng thời vừa là Người Tôi trung đau khổ, im lặng chịu đem đi làm thịt[46] và mang lấy tội lỗi muôn người[47], vừa là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc Cứu Chuộc Israel trong cuộc Vượt Qua đầu tiên[48]. Cả cuộc đời của Đức Kitô diễn tả sứ vụ của Người: phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người[49].  

Chúa Giêsu tự do gắn bó với tình yêu cứu chuộc của Chúa Cha

609. Khi gắn bó với tình yêu của Chúa Cha đối với loài người trong trái tim nhân loại của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), bởi vì “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Như vậy, nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và cái chết, đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo của tình yêu thần linh của Người, một tình yêu muốn cứu độ mọi người[50]. Thật vậy, Người đã tự do chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết vì tình yêu đối với Cha Người và đối với loài người mà Người muốn cứu độ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Do đó, Con Thiên Chúa đã tự do tột bậc khi Người tiến tới cái Chết[51].

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu thực hiện trước việc tự nguyện dâng hiến mạng sống của mình

610. Chúa Giêsu đã diễn tả cách hết sức rõ ràng việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình trong bữa tiệc Người ăn với mười hai Tông Đồ[52] “trong đêm bị nộp” (1 Cr 11,23). Hôm trước ngày chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự do, Chúa Giêsu đã biến bữa Tiệc cuối cùng với các Tông Đồ của Người thành lễ tưởng niệm việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình cho Chúa Cha[53] để cứu độ nhân loại: “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước,đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).

611. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập lúc đó, sẽ là “việc tưởng niệm”[54] hy tế của Người. Người bao gồm các Tông Đồ vào sự dâng hiến chính mình Người và dạy họ lưu truyền việc dâng hiến này mãi mãi[55]. Như vậy, Chúa Giêsu đã đặt các Tông Đồ của Người làm tư tế của Giao Ước Mới: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19)[56].

Cơn hấp hối trong vườn Giêtsêmani

612. Chúa Giêsu đã tham dự trước chén của Giao Ước Mới khi Người tự hiến trong bữa Tiệc Ly[57], rồi Người nhận lấy chén đó từ tay Chúa Cha trong cơn hấp hối của Người tại vườn Giêtsêmani[58], khi Người “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8)[59]. Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này…” (Mt 26,39). Như vậy Người diễn tả nỗi khiếp sợ mà bản tính nhân loại của Người cảm nghiệm trước cái Chết. Thật vậy, bản tính nhân loại của Chúa Giêsu, cũng như của chúng ta, được nhắm đến sự sống vĩnh cửu; nhưng khác với chúng ta, bản tính nhân loại của Người hoàn toàn không có tội[60], mà tội mới gây nên sự chết[61]; nhưng đặc biệt, bản tính nhân loại của Người đã được đảm nhận bởi Ngôi Vị thần linh của “Đấng khơi nguồn sự sống”[62], “Đấng hằng sống”[63]. Khi chấp nhận thánh ý Chúa Cha bằng ý chí nhân loại của mình[64], Chúa Giêsu chấp nhận cái Chết có giá trị cứu chuộc của mình, để “tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá” (1 Pr 2,24).

Cái chết của Đức Kitô là hy lễ duy nhất và tối hậu

613. Cái chết của Đức Kitô đồng thời vừa là hy lễ Vượt Qua, mang lại ơn Cứu Chuộc tối hậu cho loài người[65], nhờ Con Chiên, Đấng xoá tội trần gian[66], vừa là hy lễ của Giao Ước Mới[67], cho con người lại được hiệp thông với Thiên Chúa[68], khi giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ máu đổ ra cho muôn người được tha tội[69].

614. Hy lễ này của Đức Kitô là duy nhất, hy lễ đó hoàn tất và vượt hơn hẳn mọi hy lễ[70]. Trước hết, hy lễ đó là một hồng ân của chính Thiên Chúa Cha: Chúa Cha trao nộp Con của Ngài để giao hòa chúng ta với Ngài[71]. Đồng thời, đây là sự dâng hiến của Con Thiên Chúa làm người, Đấng, vì tình yêu[72], tự ý dâng hiến mạng sống mình[73] cho Cha của Người nhờ Chúa Thánh Thần[74], để đền bù sự bất tuân của chúng ta.

Chúa Giêsu đền thay sự bất tuân của chúng ta bằng sự vâng phục của Người

615. “Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,19). Chúa Giêsu, bằng sự vâng phục cho đến chết của Người, đã hoàn thành việc đền thay của Người Tôi trung đau khổ, là hiến thân làm hy lễ đền tội, mang lấy tội lỗi của muôn người và làm cho họ nên công chính khi gánh lấy tội lỗi của họ[75]. Chúa Giêsu đã đền bù các lỗi lầm của chúng ta và tạ tội với Chúa Cha vì tội lỗi của chúng ta[76].

Trên thập giá, Chúa Giêsu hoàn tất hy tế của Người

616. Tình yêu thương đến cùng[77] mang lại cho hy lễ của Đức Kitô giá trị Cứu Chuộc và đền bù, đền tội và tạ tội. Người đã biết và yêu thương tất cả chúng ta khi Người dâng hiến mạng sống mình[78]. “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết” (2 Cr 5,14). Không một ai, dù là người thánh thiện nhất, có khả năng mang lấy trên mình tội lỗi của mọi người và hiến mình làm hy lễ vì mọi người. Nơi Đức Kitô, sự hiện hữu của Ngôi Vị Chúa Con vừa vượt hơn hẳn vừa bao gồm tất cả các nhân vị, khiến cho Đức Kitô là Đầu của toàn thể nhân loại, và làm cho hy tế của Người có giá trị cứu chuộc cho tất cả mọi người.

617. Công đồng Triđentinô dạy: “Bằng cuộc khổ nạn rất thánh của Người trên cây thập giá, Đức Kitô đã lập công cho chúng ta được nên công chính”[79], qua đó nêu rõ tính duy nhất của hy tế của Đức Kitô, Đấng là tác giả của ơn cứu độ vĩnh cửu[80]. Vì vậy khi tôn kính Thánh Giá, Hội Thánh ca hát rằng: “Kính chào Thánh Giá, niềm hy vọng duy nhất của chúng con!”[81]

Sự tham dự của chúng ta vào hy tế của Đức Kitô

618. Thánh giá là hy tế duy nhất của Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người[82]. Nhưng bởi vì, trong Ngôi Vị Thiên Chúa nhập thể của Người, “một cách nào đó Người đã tự kết hợp với toàn thể mọi người”[83], nên Người đã “ban cho mọi người một khả năng để, theo cách Thiên Chúa biết, họ được kết hợp vào mầu nhiệm Vượt Qua”[84]. Người kêu gọi các môn đệ vác thập giá mình mà theo Người[85], bởi vì Người đã chịu khổ nạn vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người[86]. Quả thật, Người cũng muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế cứu chuộc của Người được kết hợp vào hy tế ấy [87]. Điều đó được thực hiện, một cách cao cả nhất, nơi Mẹ Người, Mẹ được kết hợp vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người một cách mật thiết hơn bất cứ ai khác[88].

“Đây là chiếc thang thật và duy nhất của thiên đàng, và ngoài thập giá, không có chiếc thang nào khác để lên trời”[89].

TÓM LƯỢC

619. “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3).

620. Ơn cứu độ của chúng ta xuất phát từ sự khởi xướng của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta “chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hoà với Ngài” (2 Cr 5,19).  

621. Chúa Giêsu đã tự hiến một cách tự do để cứu độ chúng ta. Người tỏ cho thấy và thực hiện trước việc ban tặng này trong bữa Tiệc Ly:“Đây là mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19).  

622. Công trình Cứu Chuộc của Đức Kitô cốt tại điều này:Người “đến… hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), nghĩa là, “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), để họ được cứu chuộc khỏi lối sống phù phiếm do cha ông họ truyền lại[90].  

623. Nhờ sự vâng phục vì tình yêu đối với Chúa Cha, vâng phục trọn vẹn cho đến nỗi “chết trên cây thập tự” (Pl 2,8), Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ vụ đền tội[91] của Người Tôi trung đau khổ, Đấng làm cho muôn người nên công chính và chính Người gánh lấy tội lỗi của họ[92].

[1]X. Ga 7,50.

[2]X. Ga 19,38-39.

[3]X. Ga 9,16-17; 10,19-21.

[4]X. Ga 9,16; 10,19.

[5]X. Ga 9,22.

[6]X. Mt 26,66.

[7]X. Ga 18,31.

[8]X. Lc 23,2.

[9]X. Ga 19,12. 15. 21.

[10]X. Mc 15,11.

[11]X. Cv 2,23. 36; 3,13-14; 4,10; 5,30; 7,52; 10,39; 13,27-28; 1 Tx 2,14-15.

[12]X. Lc 23,34.

[13]X. Cv 3,17.

[14]X. Cv 5,28; 18,6.

[15]CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 4: AAS 58 (1966) 743.

[16]Catechismus Romanus, 1, 5, 11: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 64. x. Dt 12,3.

[17]X. Mt 25,45; Cv 9,4-5.

[18]Catechismus Romanus, 1, 5, 11: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 64.

[19]Thánh Phanxicô Assisi, Admonitio, 5,3: Opuscula sancti Patris Francisci Assisiensis, ed. C. Esser (Grottaferrata 1978) 66.

[20]X. Cv 3,13.

[21]X. Tv 2,1-2.

[22]X. Mt 26,54; Ga 18,36; 19,11.

[23]X. Cv 3,17-18.

[24]X. Is 53,11; Cv 3,14.

[25]X. Is 53,11-12; Ga 8,34-36.

[26]X. 1 Cr 15,3.

[27]X. Cv 3,18; 7,52; 13,29; 26,22-23.

[28]X. Is 53,7-8; Cv 8,32-35.

[29]X. Mt 20,28.

[30]X. Lc 24,25-27.

[31]X. Lc 24,44-45.

[32]X. Rm 5,12; 1 Cr 15,56.

[33]X. Pl 2,7.

[34]X. Rm 8,3.

[35]X. Ga 8,46.

[36]X. Ga 8,29.

[37]X. Tv 22,1.

[38]X. 1 Ga 4,19.

[39]X. Rm 5,18-19.

[40]X. 2 Cr 5,15; 1 Ga 2,2.

[41]CĐ Carisia (năm 853), De libero arbitrio hominis et de praedestinatione, canon 4: Ds 624.

[42]X. Ga 6,38.

[43]X. Lc 12,50; 22,15; Mt 16,21-23.

[44]X. Lc 3,21; Mt 3,14-15.

[45]X. Ga 1,29. 36.

[46]X. Is 53,7; Gr 11,19.

[47]X. Is 53,12.

[48]X. Xh 12,3-14; Ga 19,36; 1 Cr 5,7.

[49]X. Mc 10,45.

[50]X. Dt 2,10. 17-18; 4,15; 5,7-9.

[51]X. Ga 18,4-6; Mt 26,53.

[52]X. Mt 16,20.

[53]X. 1 Cr 5,7.

[54]X. 1 Cr 11,25.

[55]X. Lc 22,19.

[56]X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de sanctissimo Missae Sacrificio, c. 2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c. 1: DS 1764.

[57]X. Lc 22,20.

[58]X. Mt 26,42.

[59]X. Dt 5,7-8.

[60]X. Dt 4,15.

[61]X. Rm 5,12.

[62]X. Cv 3,15.

[63]X. Kh 1,18; Ga 1,4; 5,26.

[64]X. Mt 26,42.

[65]X. 1 Cr 5,7; Ga 8,34-36.

[66]X. Ga 1,29; 1 Pr 1,19.

[67]X. 1 Cr 11,25.

[68]X. Xh 24,8.

[69]X. Mt 26,28; Lv 16,15-16.

[70]X. Dt 10,10.

[71]X. 1 Ga 4,10.

[72]X. Ga 15,13.

[73]X. Ga 10,17-18.

[74]X. Dt 9,14.

[75]X. Is 53,10-12.

[76]X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1529.

[77]X. Ga 13,1.

[78]X. Gl 2,20; Ep 5,2. 25.

[79]CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 1: DS 1529.

[80]X. Dt 5,9.

[81]Additio liturgica ad Hymnum “Vexilla Regis”: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v, 2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 313; v. 4 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 1129.

[82]X. 1 Tm 2,5.

[83]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

[84]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1043.

[85]X. Mt 16,24.

[86]X. 1 Pr 2,21.

[87]X. Mc 10,39; Ga 21,18-19; Cl 1,24.

[88]X. Lc 2,35.

[89]Thánh Rôsa Lima: P. Hansen, Vita mirabilis […] venerabilis sororis Rosae de sancta Maria Limensis (Romae 1664) 137.

[90]X. 1 Pr 1,18.

[91]X. Is 53,10.

[92]X. Is 53,11; Rm 5,19.