Ví Dụ Phương Pháp Dạy Học Vấn Đáp / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Channuoithuy.edu.vn

Dạy Học Bằng Phương Pháp Vấn Đáp, Đàm Thoại

 1.Phương pháp vấn đáp, đàm thoại trong giảng dạy là gì?

2. Các loại vấn đáp

Có 3 loại vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa và vấn đáp tìm tòi

Vấn đáp tái hiện: Được thực hiện khi những câu hỏi do

giáo viên

đặt ra chỉ yêu cầu

học sinh

nhắc lại kiến thức

Vấn đáp giải thích minh họa được thực hiện khi những câu hỏi giáo viên đặt ra có kèm theo các VD minh họa (bằng lời hay bằng hình ảnh trực quan) giúp học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ

Vấn đáp tìm tòi ( hay vấn đáp phát hiện) là loại vấn đáp mà giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến giữa thầy với cả lớp, giữa trò với trò

3. Ưu nhược điểm của phương pháp vấn đáp

Ưu điểm

Rèn luyện tư duy cho học sinh qua các tài liệu có sẵn hoặc do học sinh tự tìm tòi

Kích thích tính tích cực của học sinh trong học tập

Bồi dưỡng năng lực diễn đạt bằng lời cho học sinh một cách chính xác, đầy đủ, xúc tích

Tạo tương tác hai chiều cho cả giáo viên và học sinh giúp giáo viên điều chỉnh bài giảng của mình cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh

Theo dõi sát quá trình học tập của học sinh

Nhược điểm

Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, phải có năng lực sư phạm tốt.

CÁC DỊCH VỤ CỘNG THÊM NGOÀI DÀNH CHO KHÁCH HÀNG CÓ NHU CẦU

Dịch vụ cho thuê máy tính

Dịch vụ cho thuê biển thông báo sự kiện

Dịch vụ cho thuê wifi di động

Dịch vụ camera di động

Dịch vụ phòng chờ

Dịch vụ lễ tân

Dịch vụ văn phòng

Liên hệ tư vấn và đặt phòng:

HOTLINE: 0915.259.497

TẦNG 7 – TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI VÂN HỒ – SỐ 51 LÊ ĐẠI HÀNH – HAI BÀ TRƯNG – HÀ NỘI

Phương Pháp Vấn Đáp Trong Dạy Học Môn Ngữ Văn

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn

A. Đặt vấn đê I. Lí do chọn đê tài Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã đặt ra từ rất lâu và được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thụ và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên(GV) luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh(HS) là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của GV. Chính vì vậy mà phương pháp đó dẫn đến chỗ HS là người thụ động và qúa trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. HS học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, phương pháp dạy học truyền thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục – đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình sách giáo khoa càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : ” Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh ” . Có thể nói cốt lõi của việc đổi mới dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động. Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn mà vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng phương pháp dạy học mới vẫn còn hạn chế . GV chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý HS bài đó như thế nào ? Mục Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

1

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phương pháp mới không phải người GV là người truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể HS dưới sự hướng dẫn của GV chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ được tình cảm bản thân. Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn phương pháp thuyết trình; phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án … Kết quả của mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Một trong những phương pháp dạy học tích cực đưa lại kết quả cao trong học tập, phát huy được tính chủ thể của HS là phương pháp vấn đáp. Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ thông. Tôi đã quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia sẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong phạm vi nhà trường THPT. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. – Dựa trên một số lí luận cơ bản về triết học, về tâm lí học, về việc đổi mới phương pháp dạy học văn … để đề ra một số biện pháp trong phương pháp dạy học vấn đáp . – Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của HS; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho HS. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi đề xuất một số nhiệm vụ của đề tài: + Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của dạy học vấn đáp (đàm thoại) . + Đề xuất một số biện pháp dạy học vấn đáp trong môn Ngữ Văn. + Thực hiện một số công việc trong phương pháp vấn đáp. Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

2

B. Nội dung CHƯƠNG I : NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN. 1. Cơ sở tâm lí học. Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh mình là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Đây là một trong ba mặt cơ bản của đời sống, của tâm lí con người (Nhận thức – Tình cảm – Hành động). Nhờ có nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mình mà cả hiện thực của bản thân nữa, không chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên trong, cái sẽ tới và các quy luật phát triển của hiện thực. Mục tiêu của nhà trường phổ thông nói chung và mục tiêu của trường THPT nói riêng là hình thành nhân cách của HS, phát triển toàn diện và trưởng thành về mặt xã hội của HS. Trong nhà trường phổ thông, HS được giáo dục bằng nhiều phương pháp, nhiều ngành học… trong đó bộ môn Ngữ văn được coi là một môn học chủ công trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi của họ. HS là một nhân cách trong chừng mực nào đó mà các phẩm chất xã hội ở đó được phát triển để nó trở thành chủ thể có ý thức đối với mọi hoạt động công ích của mình. Như vậy có nghĩa là một trong những con đường để hình thành và phát triển nhân cách là con đường hoạt động của chính HS. Con đường tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến HS sẽ trở nên vô hiệu hoá nếu như HS không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

3

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn tâm lí, hình thành nhân cách. Chính vì vậy qua giờ học vấn vận dụng phương pháp vấn đáp, HS có dịp bù đắp những tri thức mà mình chưa được biết, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ, để tự mình tiếp nhận và hoàn thiện mình về tư tưởng, đạo đức và hành vi trong học tập và trong cuộc sống. 2. Cơ sở nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người nhưng sự phản ánh này không phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không phải con người nào cũng đều là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Trong nhà trường HS chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm của nền văn minh nhân loại. Theo cơ sở triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng cái quan trọng là làm ra cái đó như thế nào và bằng cách nào? Đối với môn Ngữ văn HS đến trường để học tập thực chất là để tiếp nhận, chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chương. Vì mục đích ấy, HS tự đọc lấy tác phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt được cái hồn của tác phẩm. GV chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo cho HS những hướng tiếp cận tác phẩm sao cho có hiệu quả nhất, HS từ đó mà tự chiếm lĩnh tác phẩm. Đồng thời cùng với sự chiếm lĩnh tác phẩm ấy, HS dưới những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt của GV mà trình bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Chính vì những vấn đề đó mà rất cần có một giờ học vấn đáp để qua giờ học ấy HS có thể khẳng định họ thật sự là những chủ thể sáng tạo trong quá trình nhận thức bằng chính hoạt động của mình. 3. Cơ sở văn học. Nếu hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; âm nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu, âm thanh…thì hình tượng văn học được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Do lấy ngôn từ làm chất liệu cho nên hình tượng văn học chỉ tác động vào trí tuệ, tâm hồn, tình cảm gợi nên sự liên tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc. Nhờ liên tưởng và tưởng tượng trên những nét tương đồng giữa thế giới âm thanh và hình ảnh, giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình trở thành hiện hình qua phương tiện ngôn ngữ. Thực chất của vấn đề phát huy chủ thể HS trong giờ Ngữ văn là khêu gợi, kích thích và nuôi dưỡng, phát triển ở HS nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

4

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn thức cái mới qua hình tượng, tính cách nhân vật. Và cũng qua đó việc học tác phẩm văn học thực sự trở thành một hoạt động cá thể hoá sâu sắc đi từ nhận thức khách quan hình tượng đến chỗ tự nhận thức; do đó có khát vọng sống và hành động theo nhân vật lí tưởng. Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa GV và HS, giữa HS và GV để qua giờ học ấy thu được kết quả cao hơn và cũng qua giờ học ấy HS có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng thời GV cũng có cơ hội để nắm được trình độ tiếp nhận của HS. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp , tôi nhân thấy : – Một số GV chủ yếu vẫn dạy theo phương pháp dạy học truyền thống: GV sử dụng các phương pháp diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến thức một chiều ; còn HS là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của GV. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm chí căng thẳng, HS tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả giờ học không cao. – Còn một số GV có vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giờ học song chưa hiệu quả, còn hình thức. Chẳng hạn vận dụng phương pháp vấn đáp : GV đặt ra những câu hỏi yêu cầu HS trả lời song chưa tạo ra được không khí tranh luận sôi nổi giữa HS với nhau hay giữa HS với GV. – Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là một số GV nhận thức chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường không đơn thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản, đó là quá trình đối thoại giữa HS, GV và tác giả đằng sau văn bản . Đó là hình thức giao tiếp, đối thoại vượt thời gian, không gian, không phải là truyền thụ một chiều. Bên cạnh đó một số GV vẫn còn nhiều ngộ nhận về lí thuyết và lúng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học vấn đáp . Chẳng hạn các phương pháp đổi mới là gì ? Khi đổi mới phương pháp dạy học thì vai trò của người thầy có bị hạ thấp không ? Câu hỏi như thế nào là đổi mới? Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?….. – Ngoài ra, GV chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây dựng được hế thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của HS, chưa phân loại đối tượng HS trong từng lớp … GV chưa ý thức rõ về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính khoa học, tình trạng GV hỏi một đằng HS trả lời một nẻo hoặc trả lời không đúng trọng tâm yêu cầu. Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

5

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn Chính vì vậy, vần đề vận dụng đổi mới phương pháp dạy và học văn càng được quan tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phương pháp vấn đáp. Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học văn không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp các phương pháp hiện đại. CHƯƠNG III: NỘI DUNG DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI). I. QUAN NIỆM VỀ DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI). 1. Thế nào là phương pháp vấn đáp? Phương pháp vấn đáp là phương pháp trong đó GV đặt ra các câu hỏi để HS trả lời , hoặc tranh luận với nhau và với cả GV, qua đó HS lĩnh hội được nội dung bài học. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác với thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng của người dạy mà được thực hiện bởi hệ thống câu trả lời của người học, dưới sự gợi mở bởi các câu hỏi của người dạy đề xuất. Các câu hỏi này được tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tượng HS. 2. Mục đích và yêu cầu của phương pháp vấn đáp Mục đích của phương pháp vấn đáp là nâng cao chất lượng giờ học bằng cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa GV và HS, rèn cho HS lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể. Muốn thực hiện điều đó, đòi hỏi GV phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn, sát đối tượng, xác định được vai trò chức năng của từng câu hỏi, mục đích hỏi , các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống, đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc HS phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Ngoài ra người GV cần dự án các phương án trả lời của HS để có thể thay đổi hình thức, cách thức mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế tắc; tạo hứng thú học tập cho HS và tăng hấp dẫn của giờ học .

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

6

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn 3. Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp. a. Giáo viên trong giờ học vấn đáp. Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trước khi cải cách giáo dục người ta đã từng quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng, cảm thụ còn trò chỉ là những cỗ máy ghi chép. Theo cách dạy học truyền thống, người giáo viên trong giờ học là người quyết định một cách toàn diện chất lượng dạy học và được coi là chủ thể của hoạt động dạy. Thế nhưng, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt người học trước một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay đã thay đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải kết hợp chặt chẽ…phải gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội” giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mời có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi tranh luận của HS. GV phải có trình độ chuyên môn sâu, rộng, có trình độ sư phạm mới có thể tổ chức hướng dẫn các hoạt động của HS. Với giờ đọc – hiểu văn bản Ngữ văn, GV là người điều khiển, hướng dẫn để HS tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Người GV phải chuẩn bị kĩ nội dung bài học như xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ chức dạy học . Đặc biệt là quá trình tổ chức hướng dẫn dạy – học bài mới. GV phải xây đựng được một hệ thống câu hỏi vấn đáp phù hợp với nội dung bài học. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống, đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc HS phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Có thể nói xây dựng được hệ thống câu hỏi vấn đáp có chất lượng có tác dụng gợi dẫn HS thâm nhập khám phá tác phẩm là một nghệ thuật đòi hỏi sự công phu và tài năng thực sự của GV. Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, người GV phải xác định được mức độ, mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng như tính hệ thống, dẫn dắt của môĩ câu hỏi. Cũng phải lưu ý một điều là tùy vào tình huống thực tế, vào đối tượng HS mà người GV có thể thay câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi cho Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

7

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

8

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP – Trong giờ học văn, GV phải là người điều khiển, hướng dẫn để HS tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. HS là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm. HS có điều kiện phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay bản thân các em chưa khám phá, bộc lộ hoặc còn rụt rè, lúng túng… Từ đó, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi diễn đạt một vấn đề trước tập thể. – GV cần phải nắm vững bản chất của phương pháp vấn đáp, đặc biệt là phải phân biệt được các loại, mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống, khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS, phù hợp với nội dung bài học . Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy có ba phương pháp (mức độ) vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích chứng minh và vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo II.1. Vấn đáp tái hiện : Đây là phương pháp GV đặt ra câu hỏi yêu cầu HS chỉ cần nhớ lại và tái hiện nội dung bài học. Đây là dạng vấn đáp ở mức độ bình thường, không đòi hỏi HS phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào văn bản văn học. Ví dụ 1: GV cho HS tìm hiểu phần tiểu dẫn của đoạn trích Việt Bắc, có thể đặt câu hỏi: Nêu hoàn cảnh ra đời của bài ? HS dựa vào tiểu dẫn trả lời: Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7- 1954, Hiệp định Giơ-nevơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới . Tháng 10- 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi về miền xuôi, nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc. Ví dụ 2: Khi hướng dẫn HS tìm hiểu những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh trongvăn bản Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu) , GV đặt câu hỏi vấn đáp tái hiện : Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn bay bổng trong những cảm xúc thẫm mỹ, đang tận hưởng cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì tiếp theo ngay sau bức tranh ? Tâm trạng người nghệ sĩ khi đó như thế nào? . HS tái hiện : Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo … đứa con thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát…Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

9

N ăm học: 2012- 2013

10

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

11

N ăm học: 2012- 2013

12

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

13

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn C. KẾT LUẬN Áp dụng phương pháp vấn đáp (đàm thoại) trong dạy học môn Văn ở trường phổ thông là một việc làm cần thiết để nhằm nâng cao chất lượng HS. Phương pháp dạy học nào thì cũng có mặt tích cực và hạn chế của nó. Nhưng nói chung theo phương pháp dạy học mới hiện nay lấy HS làm trung tâm thì việc dạy học theo phương pháp vấn đáp mang lại thành công nhiều hơn. Việc áp dụng phương pháp vấn đáp vào trong dạy học bộ môn Ngữ Văn có tác dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn của HS, rèn luyện kỹ năng, phát huy sáng tạo của HS, phát huy hướng tìm tòi, phát hiện trong quá trình học của HS. Nhưng với phương pháp này đôi khi cũng có hạn chế đối với các lớp HS yếu, dễ gây mất thời gian. Mỗi phương pháp đều có thế mạnh riêng. Người GV là người tổ chức hoạt động dạy và học, vì vậy phải biết tận dụng sức mạnh của mỗi phương pháp để từ đó đạt hiệu quả cao trong học tập và giảng dạy. Có người đã từng nói: Từ trong nước chảy ra sẽ là nước, từ trong máu chảy ra sẽ là máu. Người GV phải biết xuất phát từ cái tâm, sự nhiệt huyết của mình để làm tròn sứ mệnh thiêng liêng kết nối trái tim với trái tim. Trái tim sẽ mách bảo cách dạy sao cho mỗi ngày, mỗi tiết thật sự bổ ích và hấp dẫn. D. Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM. Thực hiện quá trình đổi mới phương pháp dạy học là công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức tâm huyết của mỗi GV chúng ta. Trong quá trình thực hiện, đổi mới đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều cấp độ. Chính vì vậy, tôi xin nêu một vài kiến nghị đề nghị tới các cấp như sau: – Sở giáo dục nên tiếp tục tổ chức các đợt học tập chuyên đề và tập trung nhiều hơn đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và tạo điều kiện để các cụm tổ chức trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và các bộ môn khác trong nhà trường nói chung. – Ban chuyên môn nhà trường tiếp tục tăng cường kiểm tra dự giờ thường xuyên để động viên, thúc đẩy GV đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục. – Tổ nhóm chuyên môn và mỗi người thầy chúng ta cần quan tâm đúng mức tới công việc vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học, không chủ quan Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

14

Lê Thị Hoa

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

15

Hấp Dẫn Phương Pháp Vấn Đáp Trong Dạy Học Văn

Đây là phương pháp mà giáo viên đặt ra các câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.

Theo cô Lê Thị Hoa, phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác với thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng của người dạy mà được thực hiện bởi hệ thống câu trả lời của người học, dưới sự gợi mở bởi các câu hỏi của người dạy đề xuất. Các câu hỏi này được tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tượng học sinh.

Từ kinh nghiệm bản thân, cô Lê Thị Hoa chia sẻ các phương pháp vấn đáp hiệu quả trong dạy học Văn và những lưu ý với các phương pháp này.

Vấn đáp tái hiện

Đây là phương pháp GV đặt ra câu hỏi yêu cầu HS chỉ cần nhớ lại và tái hiện nội dung bài học. Đây là dạng vấn đáp ở mức độ bình thường, không đòi hỏi HS phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào văn bản văn học.

Ví dụ: GV cho HS tìm hiểu phần tiểu dẫn của đoạn trích Việt Bắc, có thể đặt câu hỏi: Nêu hoàn cảnh ra đời của bài ? HS dựa vào tiểu dẫn trả lời: Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7- 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới . Tháng 10- 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi về miền xuôi, nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

Vấn đáp tái hiện có thể xem là bước đầu khi đi sâu tìm hiểu, khám phá, phát hiện giá trị của văn bản văn học. Đây còn là cơ sở để giáo viên đặt ra những câu hỏi nêu vấn đề nhằm hướng dẫn, giúp HS phát hiện giá trị, vẻ đẹp của văn bản văn học.

Vấn đáp giải thích, chứng minh

GV phải xây dựng hệ thống câu hỏi yêu cầu HS phải tư duy, biết vận dụng các thao tác lập luận giải thích(dùng lí lẽ, lí giải nội dung, bản chất của vấn đề để mọi người cùng hiểu vấn đề ), phân tích, chứng minh ( chia tách đối tượng thành từng khía cạnh, từng phần xem xét đánh giá, kết hợp dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, đối tượng ).

Với phương pháp này, GV tổ chức hướng dẫn HS đi sâu khám phá các giá trị của tác phẩm văn học nay bản chất vấn đề của bài học.

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là GV xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp giải thích, chứng minh như thế nào để hấp dẫn HS đồng thời đảm bảo được mục tiêu cần đạt.

Theo kinh nghiệm của cô hoa, người GV nên căn cứ vào mục tiêu cần đạt kết hợp với hệ thống câu hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, thể loại văn bản, dung lượng bài học.

Ngoài ra, còn phải chú ý đến đối tượng HS từng lớp, từng nhóm, thậm chí từng cá nhân trong lớp trong lớp về các mặt như lứa tuổi, tâm sinh lý, trình độ, vốn sống, khả năng nhận thức, khả năng diễn đạt… Trên cơ sở đó GV xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp .

Chẳng hạn, khi tìm hiểu vẻ hung bạo của con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, GV nêu câu hỏi: Có ý kiến nhận xét cho rằng : Nguyễn Tuân đã có sự quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Vì sao?

Kết quả HS trả lời: Sông Đà được miêu tả chỗ thì chẹt lại như chiếc yết hầu. Lại có những quãng sông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xóa…

Tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát, những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu… Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lái. .. Âm thanh luôn thay đổi…

Vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo

Đây là dạng câu hỏi vấn đáp đòi hỏi HS không chỉ biết giải thích, chứng minh mà hơn thế phải biết khái quát, phát hiện ra bản chất của vấn đề, tầng lớp nghĩa ẩn của văn bản văn học, hơn thế HS phát hiện ra những tầng nghĩa mới.

Vận dụng những câu hỏi vấn đáp ở mức độ này, đòi hỏi GV phải lưu ý tới mục đích, hình thức hỏi tránh đưa ra những câu hỏi mang tính chất đánh đố HS, đặc biệt phải chú ý tới đối tượng tiếp nhận (HS khả năng nhận thức, tư duy).

Khi đặt ra câu hỏi này GV thường hướng tới đối tượng là HS khá, giỏi nhằm phát huy khả năng nhận thức, tư duy, sáng tạo của các em. Tuy nhiên GV có thể đưa ra câu hỏi dẫn dắt gợi mở nhằm giúp các em có sức học trung bình cũng có thể khám phá, phát hiện và trả lời.

Chẳng hạn, khi tìm hiểu mạch cảm xúc, bố cục của văn bản văn học GV nên đặt câu hỏi dạng này.

Ví dụ khi tìm hiểu bố cục bài thơ Tây Tiến(Quang Dũng), GV nêu câu hỏi: Sau khi nghe xong bài thơ, em hãy căn cứ vào mạch cảm xúc của bài thơ cho biết bài thơ chia thành mấy đoạn? Nêu nội dung chính của từng đoạn?

Những bước cơ bản tổ chức dạy học vấn đáp

Theo cô Lê Thị Hoa, để tổ chức một giờ học vấn đáp hoàn chỉnh trong dạy văn, GV có thể tiến hành theo một số bước cơ bản sau:

Thứ nhất: Xác định vấn đề cần vấn đáp (đàm thoại). Thông qua việc hướng dẫn đọc, GV phải hướng dẫn hay gợi ý cho HS những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu chứa đựng nội dung bao quát cơ bản để trong quá trình đọc HS cảm nhận được vấn đề mình cần phải trả lời hay tìm hiểu trong giờ học đó.

Vấn đề đưa ra vấn đáp với HS có khi chỉ là một hình ảnh, một chi tiết, một khía cạnh nội dung hay một nhân vật nào đó trong tác phẩm. Nhưng chi tiết hoặc hình ảnh đó phải tiêu biểu, đóng vai trò then chốt mà qua đó giúp HS nắm được tư tưởng của đoạn trích hoặc tác phẩm.

Thứ hai: Hướng dẫn học sinh vấn đáp. Đây là một việc làm quan trọng của GV trong giờ học văn. Khi đã đưa ra một hệ thống câu hỏi, nếu học sinh không thể tìm ra câu trả lời ngay được thì người GV cần phải dẫn dắt, gợi mở vấn đề bằng những câu hỏi phụ để từ đó HS tìm ra ý cho câu hỏi chính.

Trong thực tế, HS có thể nắm được nhiều các chi tiết của tác phẩm nhưng chưa biết kết nối các chi tiết đó để có thể rút ra được các nhận định đánh giá. Đây cũng là lý do khiến các em rụt rè khi trả lời, vì vậy đòi hỏi GV gợi mở, dẫn dắt.

“Trong giờ học văn, giáo viên (GV) phải là người điều khiển, hướng dẫn để học sinh (HS) tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. HS là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm. HS có điều kiện phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay bản thân các em chưa khám phá, bộc lộ hoặc còn rụt rè, lúng túng… Từ đó, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi diễn đạt một vấn đề trước tập thể. GV cần phải nắm vững bản chất của phương pháp vấn đáp, đặc biệt là phải phân biệt được các loại, mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống, khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS, phù hợp với nội dung bài học”. Cô Lê Thị Hoa

Phương Pháp Dạy Học Nêu Vấn Đề

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

I. Lịch nghiên cứu vấn đề 1.Trên thế giới ………………………………………………………….2 2. Ở Việt Nam……………………………………………………………3 II. Cơ sở khoa học 1. Cơ sở triểt học…………………………………………………………3 2. Cơ sở tâm lí học ………………………………………………………3 3. Cơ sở giáo dục…………………………………………………………3 III. Định nghĩa, bản chất và nguyên tắc của PPDH nêu vấn đề 1. Định nghĩa…………………………………………………………….4 2. Bản chất……………………………………………………………….5 3. Nguyên tắc…………………………………………………………….5 IV. Các khái niệm cơ bản về dạy học nêu vấn đề 1. Vấn đề………………………………………………………………….6 2. Tình huống có vấn đề………………………………………………….6 V.Cấu trúc dạy học nêu vấn đề 1. Nêu vấn đề…………………………………………………………….9 2. Giải quyết vấn đề……………………………………………………….10 3. Vận dụng ……………………………………………………………..12 VI. Ưu, nhược điểm của phương pháp…………………………………13 VII. Các phương pháp trong dạy học nêu vấn đề 1. Phương pháp diễn giảng……………………………………………….14 2. Phương pháp đàm thoại………………………………………………15 3. Phương pháp quan sát nêu vấn đề……………………………………16 VIII. Sự vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng dạy môn Anh Văn 1. Thực trạng dạy học ở Việt Nam hiện nay……………………………. 17 2. Đổi mới phương pháp dạy và học – thực trạng và giải pháp…………17 3. Sự vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng dạy môn Anh Văn……………………………………25

NHÓM 5-061E9

1

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

( problem-based learning – PBL) I. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1. Trên thế giới Thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề” xuất phát từ thuật ngữ “Orixtic” hay còn gọi là phương pháp phát kiến, tìm tòi. Phương pháp này còn có tên gọi là ” Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề”. Phương pháp này đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu như A. Ja Ghecđơ, B. E Raicôp,… vào nhung năm 70 của thế kỉ XIX. . Các nhà khoa học này đã nêu lên phương án tìm tòi, phát kiến trong dạy học nhằm hình thành năng lực nhận thức của học sinh bằng cách đưa học sinh vào hoạt động tìm kiếm ra tri thức, học sinh là chủ thể của hoạt động học, là người sáng tạo ra hoạt động học. Đây có thể là một trong những cơ sở lí luận của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. Vào những năm 50 của thế kỉ XX, xã hội bắt đầu phát triển mạnh, đôi lúc xuất hiện mâu thuẫn trong giáo dục đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục ngày càng cao, khả năng sáng tạo của học sinh ngày càng tăng với tổ chức dạy học còn lạc hậu. Chính vì vậy, phương pháp “dạy học nêu vấn đề” hay còn gọi là ” Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề” chính thức ra đời. PP này đặc biệt được chú trọng ở Ba Lan. V. Okon – nhà giáo dục học Ba Lan đã làm sáng tỏ PP này thật sự là một phương pháp dạy học tích cực, tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ dừng ở việc ghi lại những thực nghiệm thu được từ việc sử dụng PP này chứ chưa đưa ra đầy đủ cơ sở lí luận cho pp này. Những năm 70 của thế kỉ XX, M. I Mackmutov đã đưa ra đầy đủ cơ sở lí luận của PP dạy học giải quyết vấn đề. Trên thế giới cũng có rất nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục nghiên cứu PP này như Xcatlin, Machiuskin, Lecne,… Phương pháp PBL lần đầu tiên được áp dụng tại đại học y khoa (Case Western University – Hoa Kỳ) vào thập niên 50 của thế kỷ 20 và sau đó là học viện y học (đại học McMasters, Hamilton, Canada).

NHÓM 5-061E9

2

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

2. Ở Việt Nam Người đầu tiên đưa phương pháp này vào VN là dịch giả Phan Tất Đắc “DH NVĐ”(Lecne)(1977).Về sau, nhiều nhà khoa học nghiên cứu PP này như Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Bá Kim,….Tuy nhiên những nghiên cứu này chủ yếu chỉ nghiên cứu cho phổ thông và đại học. Gần đây, Nguyễn Kì đã đưa PP PH & GQVĐ vào nhà trường tiểu học và thực nghiệm ở một số môn như Toán, TN – XH, Đạo đức. PP PH & GQVĐ thật sự là một PP tích cực. Trong công cuộc đổi mới PP DH, PP này là một trong những phương pháp chủ đạo được sử dụng trong nhà trường nói chung. II .CƠ SỞ KHOA HỌC 1. Cơ sở triết học Theo triết học DVBC, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Trong quá trình học tập của HS luôn luôn xuất hiện mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức với tri thức, kinh nghiệm sẵn có của bản thân. PP DH PH & GQVĐ là một PP dạy học mà ở đó GV tạo ra cho học sinh những tình huống có vấn đề (tạo mâu thuẫn). PP này đã vận dụng một khái niệm về mâu thuẫn làm cơ sở khoa học cho mình. 2. Cơ sở tâm lí học Theo các nhà tâm lí học thì con người chỉ tư duy tích cực khi nảy sinh nhu cầu tư duy, tức là đứng trước một khó khăn trong nhận thức, một tình huống có vấn đề. Theo tâm lí học kiến tạo thì học tập là quá trình mà người học xây dựng những tri thức cho nình bằng cách liên hệ những cảm nghiệm mới với những tri thức sẵn có. PP DH PH & GQVĐ phù hợp với quan điểm này. 3 . Cơ sở giáo dục PP DH PH & GQVĐ dựa trên nguyên tắc tính tích cực, tự giác, độc lập nhận thức của người học trong giáo dục bởi vì nó khêu gợi được động cơ học tập của học sinh.

NHÓM 5-061E9

3

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

III. ĐỊNH NGHĨA, BẢN CHẤT VÀ NGUYÊN TẮC CỦA PP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ 1. Định nghĩa: Có nhiều định nghĩa khác nhau về PP DH PH & GQVĐ, tuy nhiên chúng đều giống nhau và có thể định nghĩa như sau: PP DH PH & GQVĐ ( dạy học nêu vấn đề) là 1 trong những PP DH mà ở đó GV là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề thông qua đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm đạt được mục tiêu dạy học. “PBL là một quá trình học trong đó sinh viên tackles( giải quyết) các vấn đề trong nhóm nhỏ dưới sự giám sát và dẫn dắt của người hỗ trợ. Người hỗ trợ thông thường là giảng viên. Trong phần lớn các trường hợp, một vấn đề bao gồm sự mô tả về một tình huống có thực. Trên cơ sở kiến thức đã có, các nguyên tắc và cơ chế hoạt động trong nhóm giúp cho sinh viên phân tích, định dạng vấn đề và giải quyết vấn đề. Kết quả được đánh giá thông qua quá trình hoạt động, và trình bày của sinh viên trong nhóm ” ( Henk Schmidt, Theoretical and Empirical bases of Prolem – Based Learning ) . Nó là tập hợp nhiều PPDH cụ thể nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của HS theo con đường hình thành và giải quyết vấn đề. Dạy học nêu vấn đề nằm trong hệ PPDH tích cực với quan điểm học sinh là trung tâm QTDH. Các PPDH như diễn giảng, đàm thoại, thí nghiệm…theo kiểu nêu vấn đề đều có hiệu quả mang lại sự hứng thú cho HS chuẩn bị tiếp thu kiến thức mới, tăng cường năng lực hoạt động độc lập, sáng tạo của chủ thể nhận thức. 2. Bản chất: Học sinh được đặt vào tình huống có vấn đề chứ không phải được thông báo dưới dạng tri thức có sẵn.

NHÓM 5-061E9

4

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

Học sinh tích cực, chủ động, tự giác tham gia hoạt động học, tự mình tìm ra tri thức cần học chứ không phải được thầy giảng một cách thụ động, học sinh là chủ thể sáng tạo ra hoạt động học. Học sinh không những được học nội dung học tập mà còn được học con đường và cách thức tiến hành dẫn đến kết quả đó. Học sinh được học cách phát hiện và giải quyết vấn đề. 3. Nguyên tắc của phương pháp: Dựa trên 3 nguyên tắc chính: 

đạt được kiến thức và sự hiểu biết sâu sắc mà nó cần sử dụng cho nghề nghiệp trong tương lai

tự học trực tiếp

phát triển các kỹ năng phân tích vấn đề và giải quyết vấn đề. 4. Đặc điểm của phương pháp:

Đặt câu hỏi, “các vấn đề cần học ,”cần phải biết cái gì để mà đi vào đúng tâm điểm của vấn đề

Xếp thứ tự các vấn đề học theo mức độ quan trọng và quyết định ai sẽ nghiên cứu . (rank the learning issues in terms of importance and decide who will investigate which issue)

Định dạng nguồn lực cần thiết và phải tìm nó ở đâu

Thông tin cần thiết phải thu thập thông qua cá nhân và sự điều tra của nhóm (gather needed information through individual and group investigation)

Tập hợp để hợp nhát nguồn thông tin reconvene to integrate information

Đặt ra và đánh giá các giả pháp hợp lý (generate and evaluate possible solutions

Ra quyết định cần thiết (make needed decisions or take agreed upon actions

Truyền thông các kết quả như là một sự thích hợp để giả quyết vấn đề communicate results as appropriate for problem resolution

Rút ra các trải nghiệm trên cơ sở thực hiện báo cáo giải quyết vấn đề

NHÓM 5-061E9

5

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

NHÓM 5-061E9

6

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

Theo M.I Macmutôp tình huống có vấn đề là sự trở ngại về trí tuệ cuả con người, xuất hiện khi người đó chưa biết cách giải thích hiện tượng, sự kiện của quá trình thực tại. Như vậy, vấn đề là một câu hỏi cuả chủ thể nhận thức nảy sinh trong tình huống vốn hiểu biết cuả bản thân chưa đủ để giải thích, nhận thức các hiện tượng, sự vật khách quan. 2.2 Một tình huống được gọi là có vấn đề thì phải thoả mãn 3 điều kiện sau: 

Tồn tại một vấn đề

Gợi nhu cầu nhận thức

Gợi niềm tin vào khả năng của bản than

Tồn tại một vấn đề: dạng và cách đùng vẫn còn là một bí mật

đối với học sinh. 

Gợi nhu cầu tri thức: học sinh cần biết cách chia động từ ở thì

tương lai để có thể giao tiếp hay viết tiếng anh một cách thành thạo. 

Gợi niềm tin vào bản thân: tuy chua biết cach tinh một cách

cụ thể nhưng học sinh đã học cách chia động từ ở một số thì ở các lớp học trước nên học sinh có thể liên tưởng và có thể hình thành trong đầu cách chia cũng như cách dùng.

NHÓM 5-061E9

7

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

2.3 Tình huống có vấn đề trong quá trình dạy học: HS trong quá trình nhận thức vốn tri thức chung cuả nhân loại, đã vấp phải tình huống giữa vốn hiểu biết cuả bản thân với nội dung một khái niệm, qui luật mới nào đó thì sẽ xuất hiện vấn đề đó là vấn đề học tập. Vấn đề có tính chủ quan cuả chủ thể nhận thức, bao hàm nhu cầu hiểu biết đối tượng mới vượt qua khỏi giới hạn vốn tri thức đã có ở bản thân (mâu thuẫn chủ quan=MTCQ ). Như vậy, trong cùng một tình huống thì có thể nảy sinh vấn đề ở chủ thể nhận thức này mà không có vấn đề ở chủ thể khác. Có thể hiểu bản chất tình huống có vấn đề như sau:

Trong quá trình dạy học, GV tạo tình huống phải phù hợp với khả năng cuả HS, có tỷ lệ hợp lý giữa cái đã biết và cái chưa biết. Vấn đề học tập phải vừa sức cuả HS để các em có khả năng giải quyết vấn đề đó. Nếu vấn đề đặt ra cho HS quá dễ hoặc quá khó đều không mang lại hiệu quả.

NHÓM 5-061E9

8

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

V.CẤU TRÚC DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

1.2.Phát biểu vấn đề học tập: NHÓM 5-061E9

9

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

Vấn đề học tập thường được phát biểu dưới dạng câu hỏi, là kết quả của chủ thể biến mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.Hiệu qủa của bước này phụ thuộc vào khả năng phát hiện ra các mâu thuẫn khách quan ở đối tượng HS và thể hiện ở các mức độ:

Tình huống có vấn đề chỉ tạo được với những nội dung thích hợp và nó tồn tại ngay trong kết cấu logic của tài liệu SGK, vì vậy GV cần có kỹ thuật để truyền tải các tình huống đó đến với HS. Sự thành công cuả bước này là quan trọng nhất trong dạy học nêu vấn đề. 2.Giải quyết vấn đề 2.1 Hình thành giả thuyết: – Ðể giải quyết vấn đề cần nêu ra một giả thuyết, đó chính là định hướng cho các hoạt động quan sát, thí nghiệm để chứng minh vấn đề mới. – Các giả thuyết đó chính là các ý tưởng có cơ sở khoa học, dựa vốn tri thức đã biết để hình thành các phán đoán, suy luận lý giải cho vấn đề mới. Ðối với HS, giả thuyết là kết quả quá trình tư duy sáng tạo khi nhận thức vấn đề mới và tiếp cận với phương pháp nghiên cứu khoa học đặc thù của bộ môn. Tính khoa học chính xác của giả thuyết phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể nhận thức, vì vậy trong cùng một vấn đề HS có thể đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau . – Hình thành một giả thuyết cần lưu ý: * Các giả thuyết phải được hình thành qua suy nghĩ, phát triển từ cái đã biết có liên quan đến vấn đề mới. Vì vậy nội dung các giả thuyết không được mâu thuẫn với tri thức đã có của chủ thể. * Các giả thuyết có thể hiện định hướng cho các hoạt động giải quyết vấn đề :

NHÓM 5-061E9

10

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

NHÓM 5-061E9

11

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

– Phân tích , lý giải các kết quả đã xử lý và phân biệt dấu hiệu bản chất và không bản chất của các hiện tượng, từ đó khái quát rút ra kết luận, -So sánh kết luận tìm ra phù hợp với giả thuyết hãy suy nghĩ và phát biểu nội dung của vấn đề mới ( khái niệm, qui luật…). ( Nếu kết luận tìm ra không đúng nghiệm với giả thuyết , thì phải phân tích được điều kiện và nguyên nhân nào đã nêu ra trong giả thuyết không tương quan với vấn đề mới. Từ đó suy nghĩ nêu lên giả thuyết mới hoặc có thể phải đặt lại vấn đề mới. Việc đánh giá cần tiến hành ngay trong tiết học, GV tổ chức HS đánh giá bằng lời nói hoặc trình bày dưới dạng hình vẽ, bảng, sơ đồ, biểu đồ. 3. Vận dụng Kiến thức mới đạt được là các khái niệm, định luật , định lí …. cần được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống và vận dụng linh hoạt để trả lời các câu hỏi , giải các bài toán , giải thích các hiện tượng sinh học trong tự nhiên . Trong quá trình vận dụng có thể xuất hiện tình huống và nảy sinh vấn đề mới thúc đẩy quá trình nhận thức không ngừng về thế giới tự nhiên . Ví dụ : Di truyền liên kết – Có thể yêu cầu HS vận dụng giải bài toán để củng cố kiến thức: viết kết quả ở F2?

NHÓM 5-061E9

12

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

Tìm kiếm từng loại vấn đề cho mỗi lần học theo PBL là không dễ dàng.

NHÓM 5-061E9

13

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

Không có tiêu chí để phân nhóm PBL

Đòi hỏi cao năng lực tổ chức, cố vấn, trọng tài và ứng xử với các kiểu nhân cách người học của giảng viên.

Đòi hỏi hành vi chuyên nghiệp của các thành viên trong nhóm PBL .

Hơn thế nữa, chúng ta không thể áp dụng cùng một lúc việc thay đổi phương pháp giảng dạy và học tập này cho tất cả các khoa, tất cả các cấp học, tất cả các bộ môn trong chương trình nhà trường, vì những lý do sau đây: 

Không phải giảng viên nào cũng có thể áp dụng được phương pháp giảng dạy mới này.

Ở những lớp dưới, sinh viên quá đông, không thể áp dụng được phương pháp thảo

luận; giảng viên không có đủ thời giờ, sức lực để chấm các bài báo cáo, khóa luận.

Thư viện không có đủ tài liệu phong phú để cung cấp cho sinh viên nghiên cứu về tất cả các cấp học, ngành học.

VII. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG DH NÊU VẤN ĐỀ 1. Phương pháp diễn giảng nêu vấn đề Phương pháp diễn giảng nêu vấn đề củng giống với phương pháp diễn giảng thông báo _ tái hiện là GV đóng vai trò chủ đạo. HS lĩnh hội thụ động các tri thức. Tuy nhiên trong phương pháp này , GV trình bày các tri thức theo con đường suy nghĩ , tìm tòi ở các nhà khoa học trong quá trình khám phá tìm ra các chân lí khách quan, Do đó HS được làm quen với phương pháp tư duy khoa học, khả năng phát hiện mâu thuẫn nhận thức, hình thành vấn đề và đề xuất giả thuyết giải quyềt vấn đề thông qua phương pháp diễn giải nêu vấn đề để HS tiệm cận và từng bước nâng cao vai trò độc lập, sáng tạo. Chúng ta cần lưu ý, khi GV diễn giải về một vấn đề sâu rộng trong thời gian dài sẽ dẫn đến sự đơn điệu và HS thụ động nghe giảng dễ bị mệt mỏi. Ví vậy phương pháp diễn giải có thể kết hợp với phương pháp đàm thoại, quan sát các phương tiện trực quan tranh ảnh, mô hình, mẫu vật … sẽ có tác dụng định hướng sự chú ý của HS vào nội dung vấn đề và tạo ra bầu không khí thân thiện thầy- trò.

NHÓM 5-061E9

14

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

NHÓM 5-061E9

15

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

HS quan sát các phương tiện trực quan do GV biểu diễn gọi là phương pháp trực quan .

HS trực tiếp tác động trên các phương tiện trực quan và quan sát theo định hướng , gọi là phương pháp quan sát thực hành .

– Phương pháp quan sát tùy theo mục đích sử dụng trong QTDH để phân ra 2 loại phương pháp cụ thể :

NHÓM 5-061E9

16

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

Phương pháp quan sát thông báo – tái hiện : kết quả quan sát của HS nhằm minh họa cho nguồn thông tin bằng lời nói của GV hoặc củng cố vốn tri thức đã có của HS .

Phương pháp quan sát nêu vấn đề : là tổ chức quá trình quan sát cho HS theo các bước của cấu trúc dạy học nêu vấn đề, kết quả quan sát của HS có chứa đựng nội dung tri thức mới . Trong phương pháp này , phương tiện trực quan như thí nghiệm , mẫu vật tự nhiên , mô hình … đóng vai trò là nguồn kiến thức để tạo tình huống, nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.

NHÓM 5-061E9

17

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

18

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

đề trong giảng dạy. Tuy nhiên các thầy cô giáo gặp rất nhiều khó khăn trong khi áp dụng ” phương pháp mới”. Môn văn là một điển hình. Có thể kể ra một số khó khăn sau: Một là, thực tế cơ sở vật chất của nhiều trường phổ thông hiện nay ở nước ta còn nghèo nàn, thiếu thốn, không thể áp dụng “phương pháp dạy học mới” với những máy vi tính, Projector… rất hiện đại nhưng cũng rất tốn kém. Bên cạnh đó, thực tế sĩ số lớp học bình quân ở các trường phổ thông ít gì cũng từ 35 đến 45 học sinh nên giáo viên không thể tổ chức thuyết trình hay seminar theo yêu cầu của “phương pháp dạy học mới” được. Giáo viên không thể nào kiểm soát nổi buổi thuyết trình hay seminar với mấy chục học sinh một cách toàn diện và chu đáo (đó là chưa nói đến yêu cầu của giáo viên phổ thông là phải tìm hiểu nhằm phân loại học sinh yếu, kém để từ đó có phương án bồi dưỡng kèm cặp thêm cho các em). Hai là, có một thực tế mà giáo viên dạy văn ở phổ thông ai cũng sợ là nếu áp dụng “phương pháp dạy học mới” sẽ bị “cháy giáo án” do áp lực thời gian và chương trình dạy. Để tổ chức một buổi thuyết trình hay seminar theo yêu cầu đổi mới là dạy học tương tác, lấy người học làm trung tâm, ngoài việc lớp học phải được trang bị đầy đủ những thiết bị dạy học cần thiết (bàn ghế nhỏ, gọn dễ di chuyển, máy chiếu, máy vi tính…) hay sĩ số học sinh vừa phải thì vấn đề thời gian là một trong những vấn đề cực kì quan trọng. Thế nhưng, thực tế thì thời lượng phân bổ cho chương trình dạy văn ở phổ thông đã được Bộ Giáo dục quy định rất rõ ràng nên nếu áp dụng theo “phương pháp dạy học mới” người dạy sẽ không thể theo đúng theo tiến độ. Ba là, cũng có số ít giáo viên muốn áp dụng “phương pháp mới” nhưng lại rất lo lắng vì bị thêm một áp lực nữa đó là sợ ảnh hưởng đến kết quả thi tốt nghiệp cuối cấp của học sinh. Có thể nói hiện nay, tuy nhiều nơi buộc giáo viên phải dạy văn theo “phương pháp mới” trong khi quy trình chấm thi môn văn gần như không có thay đổi gì (nếu không muốn nói là vẫn giữ nguyên theo phương pháp dạy học cũ). Tức là, kết quả học tập chung của học sinh vẫn được thực hiện trên cơ sở lấy điểm bình quân kiểm tra và thi cuối học kì, cuối năm là chủ yếu. Đó là chưa kể việc khi chấm thi vẫn giữ nguyên cách chấm “có ý là có điểm” chứ ít chú ý đến “sự sáng tạo” mà theo yêu cầu của “phương pháp dạy học mới” đã đề ra. Từ áp lực này nên có giáo viên phổ thông thậm chí đã cho rằng: “dạy học theo “phương pháp mới” có khi không khéo học sinh không thi đậu tốt nghiệp”.

NHÓM 5-061E9

19

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ

20

Ví Dụ Về Phương Pháp So Sánh Trực Tiếp

(Nguồn: Thông tư sô 14512007ITT-BTC ngày 06!Ì2I2007Áp dụng phương pháp so sánh trực tiếp để xác định giá đất (để đơn giản và dễ hiểu, ví dụ này chỉ giới thiệu phương pháp so sánh trực tiếp để xác định giá đất của thửa đất, khu đất cần định giá với một thửa đất, khu đất so sánh).Giả định trong quá trình định giá khu đất ở có diện tích 20.000m2 thuộc một đô thị loại V (kí hiệu là khu đất B), cơ quan định giá đã thu thập được thông tin về một khu đất liền kề có diện tích 25.000m2 có thể so sánh được với khu đất cần định giá đã được tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất thành công để đầu tư xây dựng nhà ở (kí hiệu là khu đất A) diễn ra trong khoảng thời gian gần nhất với thời điểm xác định giá khu đất B. Tổng số tiền thu được từ đấu giá khu đất A là 125 tỷ đồng, tính ra đơn giá một mét vuông là 5,0 triệu đồng (5 triệu đ/m2).Với tất cả thông tin thu thập được cơ quan định giá tiến hành so sánh giữa khu đất A và khu đất B như sau:

Trên cơ sở mức giá đấu giá thành công của khu đất A là 125 tỷ đồng so sánh để định giá cho khu đất B, mức giá của khu đất B sẽ bị giảm:– Chiều rộng mặt tiền: B kém A: 2 điểm, giảm 10% = 12,5 tỷ đồng– Chiều sâu của khu đất: B kém A: 1 điểm, giảm 5% = 6,25 tỷ đồng– Giao thông: B kém A: 1,5 điểm, giảm 7,5% = 9,375 tỷ đồngTổng sô’ giảm giá do khác biệt B kém A: 28,125 tỷ đồngB sẽ được cộng thêm:– Độ bụi: B hơn A: 1 điểm, tăng 5% = 6,25 tỷ đồngTống số tăng giá do khác biệt B hơn A: 6,25 tỷ đồngGiá khu đất A dược điều chỉnh lại (kí hiệu là A’) theo những yếu tố khác biệt của khu đất B được tính toán như sau: A’ = 125 – 28,125 + 6,25 = 103,125 (tỷ đồng)Tính ru đơn giá một mét vuông lù: 103.125 triệu đồng : 25.000 m2 = 4,125 triệu đ/m2.Tương tự, giả sử cơ quan định giá lựa chọn được thêm 2 khu đất c và D nữa để so sánh với khu đất B. Kết quả phân tích, so sánh đã xác định được đơn giá của khu đất c đã điều chính theo các yếu tố của khu đất B là 4,5 triệu đ/m2 và của khu đất D đã điểu chính là 4,05 triệu đ/m2.Đơn giá khu đất B được xác định bằng cách lấy mức giá trung bình của 3 mức giá đã điểu chỉnh ở trên: (4,125 + 4,5 + 4,05): 3 = 4,225 (triệu đ/m2).