Tìm Hiểu Về Lịch Sử Ra Đời Của Máy Tính / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Lịch Sử Ra Đời Của Máy Tính Cá Nhân

Sự ra đời của máy tính cá nhân.

Sự thống trị của Microsoft trong lĩnh vực phần mềm.

Phần mềm máy tính PC đã được Microsoft kiểm soát và thống trị trong suốt quá trình phát triển của máy tính cá nhân.

Từ năm 1981 đến 1990 là hệ điều hành MS DOS phát triển qua nhiều phiên bản và đã có trên 80% máy tính PC trên thế giới sử dụng hệ điều hành này.

Năm 1991 Microsoft cho ra đời hệ điều hành Windows 3.1 và có trên 90% máy tính PC trên Thế giới sử dụng.

Năm 1995 Microsoft cho ra đời hệ điều hành Windows 95 và có khoảng 95% máy tính PC trên Thế giới sử dụng.

Năm 1998 Microsoft cho ra đời hệ điều hành Windows 98 và có trên 95% máy tính PC trên Thế giới sử dụng.

Năm 2000 Microsoft cho ra đời hệ điều hành Windows 2000.

Năm 2002 Microsoft cho ra đời hệ điều hành Windows XP với khoảng 97% máy tính PC sử dụng.

Một điều đặc biệt quan trọng đó là có trên 95% máy tính PC trên Thế giới sử dụng các sản phẩm Windows của Microsoft, vì vậy các công ty sản xuất thiết bị ngoại vi muốn bán được ra thị trường thì phải có trình điều khiển do Microsoft cung cấp hoặc một thỏa thuận với Microsoft để sản phẩm ấy được Windows hỗ trợ. Một thiết bị máy tính mà không được Window hỗ trợ thì coi như không bán cho ai được. Đó là lý do làm cho Microsoft trở thành không những là nhà thống trị phần mềm mà còn đóng vai trò điều khiển sự phát triển phần cứng PC.

Các nhà sản xuất phần cứng.

Mặc dù đi tiên phong phát triển hệ thống máy tính PC, những IBM chỉ kiểm soát được thị trường phần cứng trong 7 năm từ 1981 tới 1987. Intel được thành lập năm 1968 đã nhanh chóng thay thế IBM trên thị trường phần cứng.

– Năm 1971 Intel đã phát minh ra Vi xử lý đầu tiên có tên 4004 có tốc độ là 0,1 MHz. – Năm 1972 Intel giới thiệu chíp 8008 có tốc độ 0,2 MHz. – Năm 1979 Intel giới thiệu chíp 8088 có tốc độ 5 MHz. Hãng IBM đã sử dụng chíp 8088 để lắp cho chiếc PC đầu tiên của mình. – Năm 1988 Intel giới thiệu chíp 386 có tốc độ 75 MHz. – Năm 1990 Intel giới thiệu chíp 486 có tốc độ 100 -133 MHz. – Năm 1993 – 1996 Intel giới thiệu chíp 586 có tốc độ 166 – 200MHz. – Năm 1997-1998 Intel giới thiệu chíp Pentiun 2 có tốc độ 233 – 450 MHz. – Năm 1999 – 2000 Intel giới thiệu chíp Pentium 3 có tốc độ 500- 1200 MHz. – Từ năm 2001 – nay Intel liên tục giới thiệu các dòng chip Pentium 4 và Core i có tốc độ cực cao.

Intel không những dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất CPU mà còn là nhà cung cấp hàng đầu về Chipset và Mainboard kể từ năm 1994 đến nay .

Vừa rồi là bài viết về lịch sử ra đời của máy tính, mình có viết lại theo tham khảo trên internet, hy vọng mang lại kiến thức hay cho mọi người.

Bạn Biết Gì Về Lịch Sử Của Máy Tính Eniac?

Khi công nghệ phát triển vào đầu và giữa những năm 1900, nhu cầu về tốc độ tính toán nâng cao ngày càng tăng. Để đối phó với sự thâm hụt này, quân đội Mỹ đã đầu tư nửa triệu đô la để tạo ra cỗ máy tính toán lý tưởng.

Vào ngày 31 tháng 5 năm 1943, ủy ban quân sự cho máy tính mới bắt đầu với sự hợp tác của John Mauchly và John Presper Eckert , với người cũ là cố vấn trưởng và Eckert là kỹ sư trưởng. Eckert từng là nghiên cứu sinh tại Trường Kỹ thuật Điện Moore của Đại học Pennsylvania khi ông và Mauchly gặp nhau năm 1943. Nhóm nghiên cứu đã mất khoảng một năm để thiết kế ENIAC và sau đó là 18 tháng cộng với nửa triệu đô la tiền thuế để xây dựng nó. . Máy đã không được chính thức bật cho đến tháng 11 năm 1945, khi chiến tranh đã kết thúc. Tuy nhiên, không phải tất cả đã mất, và quân đội vẫn đưa ENIAC vào hoạt động, thực hiện các tính toán thiết kế bom khinh khí, dự đoán thời tiết, nghiên cứu tia vũ trụ, đánh lửa nhiệt, nghiên cứu số ngẫu nhiên và thiết kế đường hầm gió.

Là chi nhánh của quân đội chịu trách nhiệm tính toán các bảng, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu đạn đạo (BRL) bắt đầu quan tâm sau khi nghe về nghiên cứu của Mauchly tại Trường Moore. Mauchly trước đó đã tạo ra một số máy tính toán và năm 1942 bắt đầu thiết kế một máy tính toán tốt hơn dựa trên công trình của , một nhà phát minh đã sử dụng ống chân không để tăng tốc độ tính toán.

Bằng sáng chế cho ENIAC đã được nộp vào năm 1947. Một đoạn trích từ bằng sáng chế đó, (US # 3.120.606) được nộp vào ngày 26 tháng 6, có đoạn: “Với sự ra đời của các phép tính phức tạp hàng ngày, tốc độ đã trở nên tối quan trọng đến mức có không có máy nào trên thị trường hiện nay có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các phương pháp tính toán hiện đại. “

ENIAC là một công nghệ phức tạp và phức tạp vào thời điểm đó. Nằm trong 40 chiếc tủ cao 9 foot, máy chứa 17.468 cùng với 70.000 điện trở, 10.000 tụ điện, 1.500 rơ le, 6.000 công tắc thủ công và 5 triệu mối nối hàn. Kích thước của nó bao phủ 1.800 feet vuông (167 mét vuông) không gian sàn và nặng 30 tấn, và chạy nó tiêu thụ 160 kilowatt điện. Hai máy thổi 20 mã lực cung cấp không khí mát mẻ để giữ cho máy không bị quá nóng. Mức độ lớn của năng lượng được sử dụng đã dẫn đến tin đồn rằng việc bật máy sẽ khiến thành phố Philadelphia gặp phải tình trạng cháy đen. Tuy nhiên, câu chuyện lần đầu tiên được Philadelphia Bulletin đưa tin không chính xác vào năm 1946, sau đó đã bị coi là một huyền thoại đô thị.

Chỉ trong một giây, ENIAC (nhanh hơn 1.000 lần so với bất kỳ máy tính nào khác cho đến nay) có thể thực hiện 5.000 phép cộng, 357 phép nhân hoặc 38 phép chia. Việc sử dụng các ống chân không thay cho công tắc và rơ le dẫn đến việc tăng tốc độ, nhưng nó không phải là một cỗ máy nhanh chóng để lập trình lại. Các kỹ thuật viên sẽ mất hàng tuần để thay đổi chương trình và máy luôn phải được bảo trì nhiều giờ. Lưu ý thêm, nghiên cứu về ENIAC đã dẫn đến nhiều cải tiến trong ống chân không.

Năm 1948, Tiến sĩ John Von Neumann đã thực hiện một số sửa đổi đối với ENIAC. ENIAC đã thực hiện đồng thời các phép toán số học và chuyển giao, điều này gây ra khó khăn trong lập trình. Von Neumann gợi ý rằng việc sử dụng công tắc để điều khiển lựa chọn mã sẽ giúp cho các kết nối cáp có thể cắm được vẫn cố định. Anh ấy đã thêm một mã chuyển đổi để cho phép hoạt động nối tiếp.

Công việc của Eckert và Mauchly mở rộng ra ngoài ENIAC. Năm 1946, Eckert và Mauchly thành lập Công ty Máy tính Eckert-Mauchly. Năm 1949, công ty của họ tung ra BINAC (Máy tính tự động BINary) sử dụng băng từ để lưu trữ dữ liệu.

Năm 1950, Remington Rand Corporation mua lại Eckert-Mauchly Computer Corporation và đổi tên thành Univac Division of Remington Rand. Nghiên cứu của họ đã tạo ra (Máy tính tự động UNIVersal), một tiền thân thiết yếu của máy tính ngày nay.

Năm 1955, Remington Rand hợp nhất với Sperry Corporation và thành lập Sperry-Rand. Eckert vẫn làm việc với công ty với tư cách là một giám đốc điều hành và tiếp tục với công ty khi sau đó nó hợp nhất với Burroughs Corporation để trở thành Unisys. Eckert và Mauchly đều nhận được Giải thưởng Tiên phong của Hiệp hội Máy tính IEEE vào năm 1980.

Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực tính toán trong những năm 1940, nhiệm kỳ của ENIAC rất ngắn. Vào ngày 2 tháng 10 năm 1955, lúc 11:45 tối, nguồn điện cuối cùng đã được ngắt và ENIAC đã ngừng hoạt động. Vào năm 1996, đúng 50 năm sau khi ENIAC được chính phủ thừa nhận một cách công khai, chiếc máy tính đồ sộ đã có được vị trí của nó trong lịch sử. Theo , ENIAC là trung tâm của sự chú ý ở thành phố Philadelphia khi họ ăn mừng là nơi khai sinh ra máy tính. ENIAC cuối cùng đã được tháo dỡ, với các phần của cỗ máy khổng lồ được trưng bày ở cả Penn và Smithsonian.

Nguồn Gốc, Lịch Sử Ra Đời Và Phát Triển Của Phật Giáo

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật, một trong những tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới trong lịch sử cũng như hiện nay.

* Nguồn gốc của Phật Giáo:

– Lịch sử Đức Phật Thích – ca – mâu – ni. “Theo sự xác định niên đại truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakya thub-pa), còn được gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Gau-ta-ma), sống trong khoảng thời gian từ năm 566 đến 485 trước Công Nguyên ở miền Trung Bắc Ấn Độ”.

– Đức Thích Ca Mâu Ni (Shakya thub-pa) được sinh ra trong một gia đình chiến binh, quý tộc giàu sang ở nước Thích Ca (Shakya), có thủ đô là thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu, Ser-skya’i gnas), nằm ở biên giới giữa Ấn Độ và Nepal ngày nay. Ngài sanh ra là thái tử và có tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha,Don-grub). Phụ thân ngài là Tịnh Phạn (Shuddhodana, Zas gtsang-ma). Mẫu thân của Ngài là Ma Gia (Maya-devi, Lha-mo sGyu-‘ phrul-ma). Đức Phật được thụ thai một cách thần kỳ trong giấc mơ, bà Ma Gia thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà (Asita), rằng đứa bé sẽ trở thành một ông vua vĩ đại, hoặc một nhà hiền triết cao quý. Về sau, cũng có việc mô tả sự đản sanh thanh tịnh của Đức Phật từ bên hông của mẹ ngài ở một nơi không xa thành Ca Tỳ La Vệ, trong vườn Lâm TỳNi (Lumbini Grove, Lumbi-na’i tshal), việc Ngài bước đi bảy bước lúc đản sanh và nói “ta đã đến nơi”, cùng với cái chết của mẹ ngài sau khi sanh ra ngài.

– Thời niên thiếu, Đức Phật sống một cuộc đời hoan lạc. Ngài lập gia đình và có một người con trai là La Hầu La (Rahula, sGra-gcan ‘dzin). Trong những bản văn về sau có ghi tên người vợ của ngài là Da Du Đà La (Yashodhara, Grags ‘ dzin-ma). Tuy nhiên, lúc hai mươi chín tuổi, Đức Phật từ bỏ cuộc sống gia đình và di sản hoàng tộc của mình, trở thành một người tầm đạo lang thang hành khất (dge-sbyong)

* Lịch sử ra đời và phát triển của Phật Giáo.

– Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát. Và cũng với đại tâm đại nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hiến thời gian cho công cuộc hằng hóa độ sanh. Đức Thế Tôn đã chu du khắp đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy, từ cực Bắc dưới chân núi Hymalaya, đến cực Nam bên ven sông Gange (sông Hằng). Đức Thế Tôn đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc mang đến. Pháp Cú kinh, kệ số 153-154, đã ghi lại một trong những Phật ngôn đầu tiên Ngài đã thốt lên trong thời gian này:“Lang thang bao kiếp sống Ta tìm nhưng không gặp Người xây dựng nhà này Khổ thay, phải tái sanh Ôi! Người làm nhà kia Nay ta đã thấy ngươi Ngươi không làm nhà nữa Đòn tay ngươi bị gẫy Kèo cột ngươi bị tan Tâm ta được tịch diệt Tham ái thảy tiêu phong” (Bản dịch của HT Thích Minh Châu) Câu kinh như một lời ca khải hoàn, mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến đấu nội tâm thầm lặng gian nan. Ông thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn sâu kín trong mỗi con người, nay đã bị phát hiện.

– Đức Phật cũng đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng tri ân sâu sa đối với cây bồ đề che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Đức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.

– Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã với nhiều thủ trước… Làm thế nào để con người dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy? Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan sát thế gian và thấy rằng: “Có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ giáo hóa, khó giáo hóa… Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước thấm ướt…” (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành sen vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở sâu trong lòng nước v.v… đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước. Dù sống trong nghiệp quả bất đồng, nmỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.

Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế Tôn quyết định gióng lên tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: “Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe…” (Trung Bộ I). Và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận.

Từ đây Phật Giáo bắt đầu ra đời và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. – Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ phát triển phong trào truyền giáo, tuy nhiên, các giáo huấn của Đức Phật lại lan xa và rộng trên tiểu lục địa Ấn Độ và từ đó, xuyên suốt cả Châu Á. Khi đến với mỗi nền văn hóa mới, các phương tiện và phong cách của đạo Phật lại được thay đổi để phù hợp với tâm lý của người dân địa phương, nhưng không ảnh hưởng đến những điểm tinh túy về trí tuệ và lòng bi mẫn. Tuy nhiên, đạo Phật chưa bao giờ phát triển một hệ thống cấp bậc nói chung về quyền lực, với một vị lãnh đạo tối cao. Mỗi quốc gia nơi đạo Phật lan truyền đến đều phát triển những hình thức riêng của nơi đó, cấu trúc tôn giáo riêng và vị lãnh đạo tinh thần riêng. Hiện nay, vị lãnh đạo đáng kính nổi tiếng trên thế giới trong số những vị lãnh đạo Phật giáo là Đức Dalai Lama của Tây Tạng.

– Đạo Phật có hai nhánh chính. Tiểu thừa (Hinayana), hay Cỗ Xe Nhỏ, nhấn mạnh đến sự giải thoát cá nhân, trong khi Đại thừa (Mahayana), hay Cỗ Xe Lớn, chú trọng đến việc tu tập thành một vị Phật toàn giác để phổ độ chúng sinh một cách hoàn hảo nhất. Mỗi nhánh lại có nhiều phân nhánh. Tuy nhiên, hiện nay, ba hình thức chính còn tồn tại: một là Tiểu thừa, được biết như Theravada, ở Đông Nam Á, và hai nhánh Đại thừa, đó là các truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.

– Truyền thống Tiểu thừa lan rộng từ Ấn Độ đến Tích Lan (Sri Lanka) và Miến Điện vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, và từ đó đến Vân Nam (Yunnan), phía Tây Nam Trung quốc, Thái Lan, Lào, Cao Miên (Cambodia), miền Nam Việt Nam và Nam Dương (Indonesia). Không lâu sau đó, những chiếc túi của các thương nhân người Ấn Độ theo đạo Phật đã được tìm thấy ở vùng duyên hải Bán Đảo Ả Rập, và thậm chí xa hơn như Alexandria, Ai Cập. Các hình thức khác của Tiểu thừa cũng lan đi từ thời đó đến Pakistan, Kashmir, A Phú Hãn (Afghanistan), vùng phía Đông và duyên hải của Iran, Uzbekistan, Turkmenistan và Tajikistan ngày nay. Đây là những tiểu bang cổ xưa của Gandhara, Bactria, Parthia và Sogdia. Từ căn cứ này ở vùng Trung Á, các hình thức đạo Phật Tiểu thừa này lan rộng hơn vào thế kỷ thứ hai sau công nguyên đến phía Đông Turkistan (Xinjiang) và xa hơn vào Trung Quốc, rồi đến Kyrgyzstan và Kazakhstan vào cuối thế kỷ thứ bảy. Các hình thức Tiểu thừa sau đó được kết hợp với những nét đặc trưng của Đại thừa cũng đến từ Ấn Độ, để cuối cùng truyền thống Đại thừa trở thành hình thức chiếm ưu thế của Phật giáo tại hầu hết vùng Trung Á.

– Hình thức Đại thừa của Trung Quốc sau này lan đến Đại Hàn, Nhật Bản và Bắc Việt Nam. Một làn sóng khác sớm hơn của Đại thừa, kết hợp với các hình thức Shaivite của Ấn Độ giáo, lan truyền từ Ấn Độ đến Nepal, Nam Dương, Mã Lai và các vùng ở Đông Nam Á, bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ năm. Truyền thống Đại thừa Tây Tạng, bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy, kế thừa toàn bộ lịch sử phát triển của Phật giáo Ấn Độ, trải rộng khắp các vùng Hy Mã Lạp Sơn và đến Mông Cổ, Đông Turkistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan, phía Bắc Nội Trung Hoa, Mãn Châu, Siberia và vùng Kalmyk thuộc Mông Cổ gần biển Caspian, thuộc phần Châu Âu của nước Nga.

– Sự lan rộng của đạo Phật ở hầu hết Châu Á đã diễn ra một cách an hòa, theo nhiều cách. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã lập ra tiền lệ. Trước tiên, là một vị thầy, ngài đã đến các vương quốc lân cận để chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của mình với những ai có lòng quan tâm và muốn học hỏi. Tương tự như thế, ngài chỉ thị các tăng sĩ của ngài đi khắp nơi để giải thích những giáo huấn của mình. Ngài không kêu gọi người khác chỉ trích và từ bỏ tôn giáo của họ hay cải đạo theo đạo mới, vì ngài không tìm cách thiết lập tôn giáo riêng của mình. Ngài chỉ cố gắng giúp người khác vượt qua sự bất hạnh và khổ đau mà họ đang tạo ra cho chính mình, vì thiếu sự hiểu biết. Các thế hệ môn đồ sau này nhận nguồn cảm hứng từ tấm gương của đức Phật và họ chia sẻ với người khác các phương pháp của ngài mà họ thấy mang lại lợi lạc cho đời sống của họ. Đây là cách mà cái được gọi là “đạo Phật” hiện nay đã lan rộng và xa như thế nào.

Nguồn: budsas

Lịch Sử Ra Đời Ngành Kinh Doanh Hệ Thống

Carl RehnborgNgười khai sáng hình thức KINH DOANH HỆ THỐNG

– Lịch sử của ngành Kinh Doanh Hệ Thống gắn liền với tên tuổi của nhà kinh doanh người Mỹ có tên là Carl Rehnborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên đã đưa tư tưởng của kinh doanh hệ thống vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế, một ngành kinh doanh được gọi là có triển vọng nhất của thế kỷ 21.

– Ông Rehnborg nghiên cứu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và nhiều thành phần có ích khác. Đây là một loại mặt hàng rất mới nên khó bán hàng. Để tiêu thụ sản phẩm của mình, ông đề nghị các bạn của mình dùng thử và truyền bá thông tin về chất bổ sung dinh dưỡng này cho người quen của họ, còn nếu người quen của họ mua sản phẩm thì ông hứa sẽ trả hoa hồng cho họ. Ông cũng quyết định trả hoa hồng cho những người quen của bạn mình nếu họ truyền bá sản phẩm tiếp theo cho các mối quan hệ của họ.

– Kết quả thật bất ngờ: thông tin về các chất bổ sung dinh dưỡng bắt đầu được truyền bá rộng rãi (vì mỗi người bạn của ông lại có nhiều người bạn khác và bạn của bạn của bạn là vô hạn). Doanh thu bán hàng của công ty tăng vượt quá sức tưởng tượng, mọi người đề nghị gặp ông để tham khảo về thông tin sản phẩm mới này.

- Cuối năm 1939 đầu 1940 ông Renborg đổi tên công ty mình thành công ty “Nutrilite Products” theo tên sản phẩm và vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ. Những cộng tác viên của ông tự tìm người mới, chỉ cho người mới đầy đủ thông tin về sản phẩm và dạy cho người mới phương pháp xây dựng hệ thống bắt đầu từ những người quen của mình. Công ty đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm và nhận hoa hồng không chỉ từ lượng sản phẩm họ bán ra mà còn trả hoa hồng cho lượng sản phẩm được bán ra của những người do họ trực tiếp tìm ra.

- Những người tham gia hệ thống của công ty nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của người bảo trợ. Phương pháp tiêu thụ của ông Rehnborg chính là khởi điểm của ngành kinh doanh hệ thống, ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng, và trong nhiều tài liệu thì năm 1940 được xem như là năm khởi đầu của kinh doanh hệ thống và ông Rehnborg là ông tổ của ngành này.

- Lịch sử tiếp theo của kinh doanh hệ thống gắn liền với tên tuổi của hai cộng tác viên của “Nutrilite Products” là Rich De Vos và Jey Van Andel. Sau một thời gian làm việc có hiệu quả với công ty “Nutrilite Products” hai ông đã nhận thấy sức mạnh rất lớn của kinh doanh hệ thống và đã sáng lập ra công ty riêng của mình là “American Way Corporation”, viết tắt là Amway và hiện nay Amway đã trở thành một công ty hàng đầu thế giới về kinh doanh hệ thống với chi nhánh trên 125 nước trên toàn thế giới.

- Cuối thập niên 60, nhờ nỗ lực của ông Glen Terner-một người đã hướng dẫn nhiều những kỹ năng làm việc mới vào kinh doanh hệ thống, đã mang bản chất mới. Ông nhận thấy rõ vai trò của thành đạt cá nhân trong cuộc sống con người. Ông chỉ cho mọi người thấy những chân trời mới trong cuộc sống và khẳng định rằng mỗi người đều có tiềm năng lớn lao để đạt được mọi mục đích. Ông thành lập công ty và dạy cho mọi người kỹ năng thành đạt, giúp cho mọi người khai thác khả năng tiềm ẩn rất lớn trong mỗi con người. Rất nhiều người nhờ áp dụng chương trình huấn luyện của ông đã tìm thấy và đánh thức được những bản chất tốt đẹp nhất và đạt nhiều thành quả lớn. Chương trình huấn luyện của ông vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay.

- Vào những năm đầu của thập niên 70, Ngành kinh doanh hệ thống bắt đầu bị sự phản đối mãnh liệt. Năm 1975 trong hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những nhân vật phản đối kinh doanh hệ thống và đồng nghĩa kinh doanh hệ thống với hình tháp ảo là hình thức lừa đảo đang bị cấm ở Hoa Kỳ. Đây là đòn đánh đầu tiên của chính phủ vào ngành kinh doanh hệ thống. Bắt đầu cuộc chiến của các công ty kinh doanh hệ thống để khẳng định chân lý, tính đúng đắn của mình. Công ty Amway đứng mũi chịu sào, suốt bốn năm liền hầu tòa từ năm 1975-1979. Cuối năm 1979 toà án thương mại liên bang hoa kỳ công nhận phương pháp kinh doanh của Amway không phải là hình tháp ảo và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ đó Bộ luật đầu tiên về kinh doanh hệ thống đã ra đời tại Mỹ.

- Theo Richard Poe, phóng viên của báo Success – một tờ báo rất nổi tiếng tại Mỹ- Trong cuốn: “Làn sóng thứ ba – Kỷ nguyên của kinh doanh hệ thống” đã chia ra làm ba thời kỳ.

Làn sóng thứ nhất (Thời kỳ thứ nhất) là thời kỳ bắt đầu hình thành của ngành kinh doanh hệ thống: từ 1940 cho đến năm 1979 chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh hệ thống ra đời tại Mỹ.

Làn sóng thứ II (Thời kỳ thư hai): từ 1979 – 1990 là thời kỳ bùng nổ của ngành kinh doanh hệ thống. Mỗi đêm ngủ dậy chúng ta có thể thấy hàng trăm công ty kinh doanh hệ thống bố cáo thành lập với đủ loại sản phẩm và sơ đồ kinh doanh. Đây là thời kỳ phát triển và chọn lọc tự nhiên.

Làn sóng thứ III (Thời kỳ thứ ba): từ 1990 trở đi, nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin truyền thông, kinh doanh hệ thống đã mang màu sắc mới. Các nhà phân phối độc lập có thể đơn giản hóa công việc của mình nhờ vào điện thoại, điện đàm, hội thảo vô tuyến, internet và nhiều phương tiện khác. Nếu như ở làn sóng thứ II, những nhà phân phối độc lập giỏi phải là nhà hùng biện và họ phải đi lại như con thoi đến các hệ thống thì ở làn sóng thứ III, bất cứ ai cũng có thể sử dụng thời giờ nhàn rỗi của mình để tham gia kinh doanh hệ thống. Hàng ngàn công ty đã áp dụng mô hình kinh doanh hệ thống để truyền bá sản phẩm của mình. Các công ty áp dụng phương pháp bán hàng truyền thống như Ford, Colgate, Canon, Coca-cola và nhiều công ty nổi tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp kinh doanh hệ thống để phân phối những mặt hàng độc đáo của mình.

Một số thống kê vào 2005 (Tổng hợp từ các tạp chí kinh tế thế giới):

– Trên thế giới tổng cộng có hơn 40.000 công ty kinh doanh hệ thống, trong đó có 10.000 công ty lập nghiệp tại Hoa kỳ.

– Tại Châu Âu có gần 5.000 công ty kinh doanh hệ thống.

– Một nước nhỏ như Malaysia cũng có 800 công ty.

– Nước Nga có hơn 500 công ty.

- Singapore chỉ với chưa đầy 5 triệu người nhưng cũng có hơn 200 công ty.

– Hàn Quốc có hơn 1.000 công ty.

– Ngành kinh doanh hệ thống là ngành kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới.

– Doanh số của tổng cộng các công ty kinh doanh hệ thống tăng trưởng hàng năm từ 20 – 30%.

– Trên thế giới có hơn 300 triệu người đam mê, làm việc chuyên nghiệp với ngành kinh doanh này.

– 50% hàng hóa và dịch vụ tại Hoa kỳ thông qua mô hình kinh doanh hệ thống , ở Nhật con số này là 90%. Vì thế, có thể coi nước Nhật là nước đứng đầu thế giới về phát triển ngành kinh doanh hệ thống.

– 125 nước trên thế giới chính thức có các công ty kinh doanh hệ thống hoạt động.

– 15% dân số Hoa kỳ tham gia vào ngành này, trên thế giới con số này là 2%.

– Mỗi ngày trên thế giới có hơn 60.000 người tham gia.

– Cũng theo thống kê thì cứ 100 người đang là triệu phú trên thế giới thì có đến 40 người xuất phát theo ngành kinh doanh hệ thống và trong thế kỷ 21 này thì 70% hàng hóa và dịch vụ sẽ phát triển theo phương thức kinh doanh này.