Sự Khác Biệt Giữa Làng Bắc Bộ Và Làng Nam Bộ / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Channuoithuy.edu.vn

Đối Sánh Làng Việt Bắc Bộ Và Làng Việt Nam Bộ

1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong tiến trình lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến nay, làng luôn đóng vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Làng có vị trí đặc biệt đối với lịch sử đất nước nói chung và đối với mỗi người dân Việt Nam nói riêng. Làng là cơ sở, nền tảng của văn hóa, văn minh Việt. Đó là một đơn vị kinh tế xã hội độc lập nhưng không tách rời môi trường trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa. Làng Việt phát triển phong phú, đa dạng: làng Việt Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung Bộ và mỗi vùng lại có những tiểu vùng riêng mà ở đó các làng Việt vừa chứa đựng những đặc điểm giống nhau đồng thời lại ẩn chứa nét riêng.

2. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Do các điều kiện, nhân tố khác nhau nên sự hình thành các làng Việt diễn ra ở các giai đoạn lịch sử, ở các vùng, tiểu vùng là khác nhau. Trong bài nghiên cứu này, tác giả xin đề cập những đặc trưng nổi bật nhất nhằm nhận diện, khu biệt làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ.2.1. Tuổi đời của làngLàng Việt Bắc Bộ có lịch sử tồn tại lâu đời. Cách ngày nay khoảng 4000 năm, trên đất Bắc đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và thay vào đó là công xã nông thôn. Đây chính là quá trình hình thành làng Việt. Mỗi làng bao gồm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Và ở đây, bên cạnh quan hệ địa lý – quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống được bảo tồn và củng cố đã tạo thành kết cấu vừa làng vừa họ rất đặc trưng cho làng của người Việt ở Bắc Bộ. So với làng Việt Bắc Bộ, tuổi đời của làng Việt Nam Bộ ít hơn rất nhiều. Làng Việt ở Nam Bộ mới chỉ khoảng ba trăm tuổi, được tạo lập từ khi người Việt tới khai phá trong quá trình Nam tiến, mở rộng biên cương, xác lập chủ quyền. Người Việt đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ trước thế kỷ XVII, nhưng lúc đó chưa đủ điều kiện để hình thành làng. Đến giai đoạn sau, nhất là khi Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn cử vào thiết lập bộ máy hành chính ở Đồng Nai – Gia Định (1698) thì việc hình thành làng Việt mới có những điều kiện thuận lợi. Làng Việt Nam Bộ ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam đã phong kiến hóa mạnh mẽ, do đó có khác biệt so với làng Bắc Bộ. Ở Nam Bộ, không làng Việt nào có nguồn gốc từ thời nguyên thủy. Làng Việt Nam Bộ được hình thành trong quá trình khai phá nên rất nhiều làng có nguồn gốc là các đồn điền. Có thể thấy làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ra đời sớm hơn làng Việt Nam Bộ rất nhiều. Một bên là lịch sử tồn tại hàng nghìn năm còn một bên là làng Việt trên mảnh đất mới Nam Bộ mới chỉ tầm 300 năm tuổi.2.2. Nguồn gốc hình thành và cách đặt tên làng Đi liền với tuổi làng là khác biệt về sự hình thành và cách đặt tên làng. Trước hết là làng Việt Bắc Bộ, làng được hình thành theo 3 cách: Thứ nhất, tan rã từ xã hội nguyên thủy; thứ hai hình thành từ việc định cư của một dòng họ, thứ ba là do vai trò của nhà nước. Rât nhiều làng Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có nguồn gốc từ thời nguyên thủy. Các làng này vẫn mang nặng những tàn dư nguyên thủy với bộ phận đất công không nhỏ. Bên cạnh đó là sự hiện diện của các làng Việt từ việc khai khẩn của một hoặc nhiều dòng họ. Dân cư của một làng thường phát triển bởi sự tăng lên của các thành viên trong dòng họ. Theo thống kê ở miền Bắc có tới 192 họ đã được đặt tên cho làng. Trong đó hầu hết các trường hợp lấy tên họ đặt tên làng, mỗi tên một dòng họ thường chỉ dùng đặt tên cho một làng. Riêng họ Nguyễn được dùng để đặt đặt tên cho gần 50 làng. Cũng có những trường hợp tên làng do hai họ kết hợp lại để hình thành… như làng Đoàn – Đào ở Hưng Yên là sự kết hợp của hai dòng họ [1]. Bộ phận làng còn lại, chiếm số lượng khiêm tốn là các làng do nhà nước giữ vai trò chủ chốt trong việc phá hoang lập ấp. Những làng thuộc loại này chủ yếu hình thành ở các vùng ven biển. Tiêu biểu là các làng mới tại hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Xét về tên gọi, đa phần các làng Việt Bắc Bộ đều có tên Nôm phản ánh những đặc điểm tự nhiên, xã hội nơi cộng đồng đó cư trú. Những tên làng đó hiện nay vẫn còn tồn tại song song với những tên làng mới – tên chữ Hán – Việt được dùng trong hành chính (trong dân gian cư dân vẫn gọi tên làng theo tên cũ).Ở Nam Bộ, không có sự hiện diện của các làng tan rã từ xã hội nguyên thủy mà làng chủ yếu hình thành theo 2 hướng: Một là do dân tự khai phá; hai là do sự hỗ trợ của chính quyền. Nhà nước tổ chức các làng đồn điền rồi huy động nhân dân, nhất là binh lính đến làm việc theo kỷ luật để duy trì quân đội với chính sách “ngụ binh ư nông”. Dân cư trong làng Việt Nam Bộ được tập hợp từ nhiều nơi khác nhau, từ nhiều dòng họ khác nhau. Do vậy làng Việt Nam Bộ có thể gọi là làng khai phá. Ở Nam Bộ không có sự phân biệt chính cư và ngụ cư như trong làng Việt Bắc Bộ, tính cố kết không chặt chẽ. Những người trong cùng một làng không có quan hệ thân tộc cũng không phải là láng giềng lâu đời, sợi dây gắn bó giữa họ là tình người. Các làng Việt Nam Bộ không có làng nào lấy tên họ đặt cho tên làng dù trong việc lập làng vai trò của cá nhân là rất quan trọng. Lí giải điều này có lẽ vì những người cùng nhau lập làng thuộc nhiều dòng họ. Người có công lập làng thì đã được nhà nước ban thưởng và vì thế không lấy tên của họ đặt tên cho làng. Tên gọi các làng Việt Nam Bộ thường là từ Hán – Việt mang ý nghĩa tốt đẹp như: an, bình, lợi, phú, lộc… Làng Việt Nam Bộ chỉ có tên chữ mà không có tên Nôm như làng Bắc Bộ.2.3. Hình thái cư trúLàng Việt Bắc Bộ thường bố trí theo ba hình thái: lối co cụm, từng khối, hoặc dọc theo ven sông hay ở men theo hai bờ sông trong đó tổ chức theo lối co cụm là phổ biến.[2, tr.132] Chính cách tổ chức làng như vậy đã tạo nên những ốc đảo, khu vực không gian cư trú riêng của mỗi làng. Và từ đặc điểm cư trú đó kéo theo hoạt động kinh tế khá khép kín, khác biệt văn hóa làng tại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Đối với làng Việt Nam Bộ có các hình thái cư trú ven sông rạch, hình thái cư trú dọc kênh đào, hình thái cư trú tập trung nhưng lại cư trú trên diện rộng. Nói một cách khác, làng Nam Bộ được phân bố theo dạng kéo dài, “dọc tia tỏa tuyến”, lấy kênh mương hay đường giao thông làm trục. Làng Nam Bộ kéo dài nên không có lũy tre bao quanh, không thành một quần thể khu biệt với các làng khác như làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Và do cư trú trong không gian mở với ưu đãi của thiên nhiên nên làng Việt Nam Bộ dễ biến đổi dân số hơn đồng thời người dân không có thói quen tích trữ, phòng cơ mà luôn gắn bó với thị trường, tạo nên nền kinh tế hàng hóa. Người Nam Bộ yêu thích buôn bán, họ mở rộng giao lưu với tất cả các vùng, trở thành đầu mối giao dịch với các nơi trên thế giới. Sự phát triển kinh tế hàng hóa tạo cho làng Việt Nam Bộ một diện mạo năng động. Đặc trưng này cùng với tính chất không khép kín khiến người nông dân trên đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện vươn ra những chân trời mới, rộng mở mà không bị bó buộc trong lũy tre làng như người dân Bắc Bộ.2.4. Cơ cấu tổ chức làng Trong cơ cấu tổ chức làng Việt Bắc Bộ có nét khác với làng Việt Nam Bộ đó là có sự hiện diện của cả tổ chức quan phương và cả tổ chức phi quan phương. Các tổ chức quan phương do Nhà nước đặt lên các làng, theo những quy định chung và có sự thống nhất của toàn bộ vùng đồng bắng Bắc Bộ theo tổ chức và nhiệm vụ quản lý. Thông qua các tổ chức ở mỗi làng, Nhà nước thể hiện quyền lực đến các công dân của mình. Tổ chức phi quan phương không nằm trong hệ thống của bộ máy hành chính, nó ẩn trong các làng Việt và vận hành theo những nét rất riêng của từng loại tổ chức. Làng Việt Bắc Bộ gồm đầy đủ các kiểu tập hợp theo khu vực như đường dong, ngõ xóm, theo mục tiêu văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng… hay các tập hợp theo mục tiêu kinh tế như: hội cấy, hội cày, hội buôn, phường hội thủ công… Các hội này có mục tiêu và nội dung riêng nhưng trong thực tế đã hòa quyện vào nhau, chồng xếp lên nhau tạo thành những sợi dây chằng chịt, ràng buộc người nông dân trong làng xã. Trong làng, người nông dân không chỉ tồn tại với tư cách công dân của đất nước mà còn đảm nhiệm tư cách là thành viên của một gia đình, một dòng họ, một cộng đồng làng. Ở các làng Việt Nam Bộ, các tổ chức phi quan phương không có điều kiện phát triển, nếu có cũng thể hiện rất yếu ớt. Bởi lẽ đó là các làng khai phá, các thành viên được tập hợp từ các nơi khác nhau nên mối quan hệ thân tộc không có cơ sở thể hiện. Một thực tế là không làng Nam Bộ nào có giáp. Ở làng Nam Bộ ta có thể gặp một tổ chức là họ. Tuy nhiên sự tập hợp người theo huyết thống này không có tính cố kết chặt chẽ như ở đồng bằng sông Hồng. Nếu như ở Bắc Bộ, tổ chức họ được khẳng định bằng việc thờ phụng tổ tiên, có quy ước cho mọi thành viên, có nhà thờ họ thì ở Nam Bộ cũng hình thái thờ phụng lại chủ yếu là hoạt động trong từng gia đình nhỏ. Điều đặc biệt tạo nên sự khác biệt lớn là làng Việt Bắc Bộ là sự vận hành của hương ước. Hầu hết các làng Việt Bắc Bộ đều có hương ước. Hương ước của từng làng tác động trực tiếp đến các thành viên của làng. Còn đối với làng Việt Nam Bộ thì không có hương ước, các làng ngay từ khi hình thành đã chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Như vậy, xét trên phương diện quản lý, sự ràng buộc các thành viên ở các làng Việt Bắc Bộ chặt chẽ hơn so với các làng Việt Nam Bộ. Đồng thời làng Việt Bắc Bộ lại nhiều lệ làng, ít cởi mở, năng động so với làng Việt Bắc Bộ.

3. KẾT LUẬN Có thể nói, làng Việt Bắc Bộ hình thành lâu đời, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, khép kín, bền vững trên cơ sở liên kết nhiều tổ chức mà mỗi tổ chức đều có ảnh hưởng đến từng thành viên trong làng. Người nông dân sống gắn bó chặt chẽ với xóm giềng, họ tộc, gia đình, làng nước. Còn làng Việt ở Nam Bô là làng khai phá, tuổi đời còn trẻ, định cư kéo dài trên diện rộng nên thiếu chất kết dính đồng thời do sớm tiếp xúc với nền kinh tế hàng hoá nên phóng khoáng và năng động hơn. Đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ và Nam Bộ thể hiện cho hai vùng văn hóa lớn ở Việt Nam: vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ vốn chứa đựng những nét văn hóa độc đáo, đa dạng nhưng vẫn nằm trong thể thống nhất là văn hóa Việt Nam. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn…; cả làng Việt Bắc Bộ và Nam Bộ đều biến đổi không ngừng, mau lẹ. Đó là một quy luật tất yếu, phù hợp với sự phát triển, giao lưu, hội nhập của văn hóa Việt, đất nước và con người Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Văn Lệ, 2/5/2012, Làng và quan hệ dòng họ người Việt ở Nam Bộ, nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/2206-ngo-van-le-lang-va-quan-he-dong-ho-cua-nguoi-viet-nam-bo.html. 2. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), 2003, Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 3. Nguyễn Quang Ngọc, 2009, Một số vấn đề làng xã Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, 30/11/2011, Văn hóa làng Việt Nam hôm qua và hôm nay, nguồn: http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/doi-song-van-hoa/item/13594002-.html.Bài đăng trên Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, số 36 (4/2023), tr 73-78)

Tính Cách Con Người Qua Văn Hóa Làng Bắc Bộ Và Làng Nam Bộ

Để làm nổi bật tính cách người miền Trung nói riêng và miền Bắc nói chung, mình sẽ lấy văn hóa LÀNG BẮC BỘ so sánh với LÀNG NAM BỘ.

Bài viết này khám phá đặc điểm nổi bật của làng Bắc Bộ và làng Nam bộ và tư duy lại tính cách từ nguồn gốc văn hóa và biến cố lịch sử dựa trên nhiều nguồn tư liệu nên không có số liệu tỉ mỉ, chỉ để tham khảo. Mong các bạn hiểu tại sao có sự khác nhau trong tính cách của người dân các vùng miền, hy vọng các bạn hiểu được do đâu người Trung – Bắc bộ lại có tính cách như vậy, để có cái nhìn hàn lâm hơn trong cư xử, và những bạn người Trung – Bắc bộ. Cần hiểu rằng, chúng ta không thay đổi được nơi mình sinh ra nhưng có thể thay đổi tư duy của mình và tính cách của mình bằng học thức và con đường, như 500 năm trước, Nguyễn Hoàng đã chọn Nam Tiến là con đường dung thân, tránh sự tranh giành nội bộ và tồn tại được 9 đời chúa, 13 đời vua.

“Cam đất Việt ngọt nhưng đưa qua Ngô trồng thì chua, ấy là do thổ nhưỡng chứ đâu do giống”.

Bạn đang xem: Tính cách con người qua văn hóa LÀNG BẮC BỘ và LÀNG NAM BỘ

Làng bắc bộ

Bắc bộ là vùng đất rừng núi chiếm phần lớn diện tích, có ranh giới với Trung Quốc nên trong phần lớn lịch sử đều chịu nạn Bắc xâm, địa hình và tính chính trị buộc họ phải sống gom lại thành từng làng để tự bảo vệ, đoàn kết chống giặc và thuận lợi cho việc tập trung người, lương thảo, meeting…

Có câu “Luật vua thua lệ làng” bởi lẽ vua thì xa, luật vua khó mà đến được ngóc ngách cuộc sống, trong làng các trưởng làng và người già đặt các điều lệ để thưởng phạt chế định khi có việc cần dùng tới, nổi tiếng như “cạo đầu bôi vôi”,”bỏ rọ heo thả trôi sông”,”phạt vạ”… tính quan liêu, quan quyền phát sinh một phần từ đó khi ai cũng muốn làm quan để oai, đi có kiệu đứng có lọng, để được quyền thưởng phạt, họ hàng vinh hiển và đặc biệt là không “đói”.

Làng Bắc Bộ

Làng Nam Bộ

Gần như tương phản với Bắc Bộ, Nam bộ là vùng đất mới được dung dưỡng bởi phù sa sông nước, đồi núi rất hiếm, cây ăn trái, lúa nước và sản phẩm tự nhiên dồi dào nên trong lịch sử, Nam Bộ chưa từng bị nạn đói nào. Làng Nam Bộ hình thành dàn trải, không tập trung, mỗi gia đình một cánh đồng mênh mông, đi lại chủ yếu bằng đường thủy nên khó khăn trong việc tụ họp, chỉ có dịp chợ hay đám mới gặp nhau trọn vẹn, ngày thường ít khi nghe tiếng hàng xóm nên khao khát gặp gỡ, bởi thế mà chuyện trộm vặt ít khi xảy ra, thay vào đó là họ hay biếu quà nhà và hễ có người đến chơi thì thường “đãi sạch ruột”.

Nam Bộ là nơi hòa hợp của nhiều tộc dân, Chăm, Khome, Hoa… nên tính cách rộng rãi, đồng cảm với dân tứ xứ bởi bản thân họ cũng là di dân, tị nạn…

Đang hot: 3 điều nhất định bạn phải biết trước khi chọn mua Sofa da nhập khẩu từ Malaysia

Chế lệ trong làng Nam Bộ không có gì nặng nề, tự làm tự ăn, Chúng ta hay xem phim Nam Bộ thấy cảnh ông bà Hội Đồng xưa gian ác, thực sự rất hiếm những người như vậy trong thực tế, do thời thế và nhu cầu chính trị nên những người thân Pháp bị tuyên truyền là chống dân… bởi Hội Đồng cũng từ những người nông dân quanh năm tay lấm, qua tích lũy mà nên, rồi họ cho mướn đất mướn ruộng lấy chút thóc làm lãi. Cũng bởi lẽ luật lệ họ không hà khắc nên mới ít nội loạn, đói khát, tính quan quyền thấp…

Làng Nam Bộ

Tính tích lũy và bạo lực

Do thường xuyên phải đối mặt với ngoại xâm và thiên tai nên sự rủi ro bất ngờ là điều ăn sâu vào tiềm thức người Bắc bộ, họ sợ ngoại bang, luôn tiết kiệm và chịu khó. Từ khi chúa Nguyễn mở về phía Nam, hình thành nên sự phân tranh Trịnh-Nguyễn, thuế má dân Bắc bộ tương đối nặng nề vì đóng cho triều đình, đến thời Tây Sơn nổi dậy thì càng nặng hơn, nhất là việc đi lính, khiến cho lực lượng lao động chính thiếu hụt…

Sau khi Nguyễn Ánh thống nhất và trở lại Kinh đô Phú Xuân tái thiết đât nước, nguồn cung ứng đều lấy chủ yếu từ Vùng Miền Trung bởi vì lúc bấy giờ giao thông chưa mạnh, chủ yếu đi đường biển nhưng tàu thuyền thời Nguyễn để vận chuyện từ Nam bộ đến kinh thành mất hàng tháng trời, không đáp ứng kịp thời nhu cầu,hơn nữa quãng đường xa thường đối mặt với cướp biển và thủy lưu, gió, sóng… Mật độ quan lại tập trung miền trung và bắc cao.

Phan Văn Trung

Những Nét Đặc Trưng Của Làng Quê Bắc Bộ

(VOV5) – Làng ở đồng bằng Bắc Bộ tập hợp những người cùng huyết thống hay cùng phương kế sinh nhai sinh sống trên một địa bàn nhất định. Sự gắn bó giữa con người ở làng quê, không chỉ ở quan hệ sở hữu đất đai, những di sản kiến trúc chung của làng, mà còn là sự gắn kết cộng đồng trong đời sống tâm linh, duy trì nếp sống cùng các chuẩn mực xã hội.

Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời, là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh của người Việt. Đây cũng là nơi bảo lưu nhiều giá trị văn hóa truyền thống. Cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước, người dân sống hiền hòa với thiên nhiên, chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, nặng ân tình, tin vào nhân quả, coi trọng thứ bậc trong gia đình xã hội… Trên nền tảng điều kiện tự nhiên và xã hội đó, mà cảnh quan, nếp sống của cư dân ở các làng quê Bắc Bộ dần được hình thành. Cảnh quan của làng Bắc bộ thường có lũy tre, cổng làng, đường làng, nhà ở và các công trình tôn giáo như: đình, chùa, miếu, phủ…

Làng Yên Lạc (xã Cần Kiệm, Thạch Thất, Hà Nội) hiện vẫn giữ được những nét bình yên của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Cây đa chín gốc của làng nằm trước đình, ngay cạnh bến sông Tích Giang. – Ảnh: Báo Kinh tế đô thị

Ở các làng quê Bắc bộ, hình ảnh cây đa cổ thụ tượng trưng cho sự trường tồn của thời gian, chứng kiến sự đổi thay của con người, của đất trời. Những cây đa thường được trồng ở đầu làng, cuối làng, giữa làng hay ở bên cạnh các di tích: đình, đền, chùa trong làng. Làng quê Bắc bộ có nhiều kiểu kiến trúc độc đáo như: những chiếc cầu ngói, cầu gạch, cầu xây bằng đá.. trước khi vào làng. Tuy nhiên, hình ảnh ấn tượng nhất chính là chiếc cổng làng. Cổng làng là bộ phận cấu thành không thể thiếu của làng quê cổ truyền vùng Bắc bộ. Cổng làng không chỉ là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, mà còn ẩn chứa trong đó giá trị văn hóa. Tên làng và những câu đối trang trí ở cổng làng là câu chuyện kể về nguồn gốc, nếp sống văn hóa lịch sử, niềm tự hào của dân làng. Tiến sỹ Trần Hữu Sơn, Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, cho biết: “ Cổng làng ra đời gắn liền với làng. Cổng làng từ thủa sơ khai ban đầu chỉ mang tính ước lệ, xác định ranh giới cho dân cư ra vào. Sau đó được vật thể hóa, xây dựng và khi kinh tế làng phát triển, trong làng hình thành các dòng họ những người nổi tiếng, danh gia vọng tộc, thì mới xuất hiện những cổng làng thật to, thật đẹp.”

Đình làng là nét đặc trưng tiêu biểu nhất của làng quê Bắc Bộ. Đình làng là ngôi nhà chung to lớn, kiến trúc đẹp, trang trọng nhất làng. Đình làng thờ thành hoàng làng, người có công lập ấp mở mang nghề nghiệp chăm lo cho dân, hoặc có công đánh giặc giữ nước. Mỗi dịp lễ hội, dân làng tổ chức lễ rước kiệu sơn son thếp vàng trong tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng nhạc vang dội, diễn tả lại sự tích và công lao của Thành Hoàng. Lễ rước kiệu hội làng luôn tạo cảm xúc linh thiêng gắn bó đoàn kết trong cộng đồng. Đình làng chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê.

Bên cạnh đình làng, hầu như làng nào cũng có chùa thờ Phật. Đã từ lâu, chùa gắn bó thân thiết trong đời sống tâm linh của dân làng. Chùa là nơi dân làng lễ bái, tu thân, trau dồi đức hạnh, để phúc đức lại cho con cháu. Thượng tọa Thích Tiến Đạt, trụ trì chùa Cự Đà, ngoại thành Hà Nội cho rằng: “Phật giáo đã được truyền vào Việt Nam từ lâu đời, do đó ở nơi nào có dân, có làng thì ở đó có chùa, có đình, miếu và nó trở thành thiết chế văn hóa không thể thiếu được của đồng bằng Bắc bộ. Ngôi chùa là nơi sinh hoạt tâm linh tín, ngưỡng, là nơi gửi gắm niềm tin, ước vọng của dân làng trong cuộc sống. Phật giáo với chủ trương từ bi và trí tuệ, hướng con người ta hướng tới chân, thiện, mỹ , do đó ngôi chùa là chỗ dựa tinh thần văn hóa của người dân.”

Trong quần thể không gian kiến trúc của làng, giếng nước luôn được coi là chốn tâm linh. Bên giếng nước thường có miếu thờ thần. Vào ngày tuần hay dịp tế lễ, đình đám, dân làng đến đây đặt lễ cầu may và lấy nước buổi sớm ở giếng đem về thờ cúng.

Ở các làng Bắc bộ còn nhiều trình tâm linh khác như: đền, phủ, miếu. Theo tín ngưỡng dân gian, đền, phủ để thờ Mẫu, thờ Thánh, Thần, người có công với làng, còn miếu thờ có quy mô nhỏ hơn, thờ thần bảo vệ các thôn xóm.

Nhà ở trong làng truyền thống mang nhiều giá trị về kiến trúc và tổ chức không gian. Xung quanh nhà thường có hàng rào cây dâm bụt, trước nhà có hàng cây cau trước nhà và những cây chuối trồng sau nhà. Tùy từng gia đình mà những ngôi nhà được dựng lên theo kích cỡ khác nhau. Nhà khá giả thì làm 5-7 gian, nhà nào khó khăn thì làm 3 gian 2 chái. Các ngôi nhà quần tụ bên nhau thành các chòm xóm, có cổng ngõ liên thông với nhau tạo gắn kết tình làng nghĩa xóm.

Mỗi làng đều có nghĩa địa riêng đặt ngoài làng. Một số làng có tục lệ chôn người chết ngay trên ruộng của gia đình, dòng họ. Người dân coi trọng khu vực này và rất chú trọng phong thủy của phần mộ.

Từ bao đời nay, hình ảnh làng truyền thống đã in sâu vào tâm trí, gắn bó với tâm hồn nhiều thế hệ người dân nước Việt. Cho dù ngày nay đã có nhiều đổi thay trong đời sống xã hội, nhưng nhiều làng quê vẫn giữ được nét đặc trưng tiêu biểu của làng quê Bắc Bộ.

Tô Tuấn

Làng Và Quan Hệ Dòng Họ Của Người Việt Nam Bộ

Giáo sư, Tiến sĩ  NGÔ VĂN LỆ (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG-HCM)

     Theo bước chân mở cõi của Chúa Nguyễn Hoàng thế kỷ XVI, người Việt đã tiến về phương Nam lập làng sinh sống. Lịch sử hình thành khác nhau nên làng Việt Bắc bộ và làng Việt Nam bộ cũng mang những nét đặc trưng riêng biệt. Nghiên cứu Làng và quan hệ dòng họ của người Việt Nam bộ của Gs Ngô Văn Lệ đã chỉ ra và lý giải những đặc trưng này. Trích từ trong Đề tài cấp nhà nước Đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của các cộng đồng cư dân Nam Bộ, 6/2011.

1.

     Người Việt là tộc người đa số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam[1]. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, người Việt đã cùng với các tộc người thiểu số sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam viết lên những trang lịch sử hào hùng trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng hòa bình. Do có ưu thế về số lượng dân cư, địa bàn sinh sống và trình độ phát triển kinh tế xã hội, mà văn hóa của người Việt giữ vai trò chủ đạo trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, nhất là trong giai đoạn cận hiện đại. Hàng ngàn năm nay người Việt, một mặt vừa chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với những kẻ thù xâm lược, mặt khác, đã sáng tạo cho mình những giá trị văn hóa, đồng thời lại tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa ngoại nhập, làm phong phú thêm văn hóa Việt Nam. Tất cả những giá trị văn hóa đó đã tạo nên bản sắc và sức mạnh để Việt Nam tiếp bước trên con đường phát triển, để thực hiện mục đích cao quý: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

     Trong bối cảnh hiện nay, khi mà Việt Nam đang trên con đường hội nhập thì việc nghiên cứu văn hóa người Việt không chỉ giúp cho người đọc thấy đựơc sự kế thứa và sự sáng tạo trong chiều dài lịch sử, mà còn thấy đựơc những giá trị đích thực tạo nên sức mạnh cho sự phát triển hôm nay. Bởi vì trong “công cuộc đổi mới toàn diện, đầy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội”[2].

     Do tính chất và tầm quan trọng của vấn đề nên làng và quan hệ dòng họ người Việt được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu đã đựơc công bố[3]. Các công trình đó đã trình bày về xã hội nông thôn truyền thống của người Việt thông qua cơ cấu tổ chức, hoạt động kinh tế, thiết chế xã hội. Tuy nhiên, các công trình đã được công bố tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu làng và quan hệ dòng họ người Việt ở Bắc Bộ – cái nôi hình thành những giá trị văn hóa Việt – còn ở Nam Bộ chưa được chú ý. Bài viết của chúng tôi không đề cập đến một làng và quan hệ dòng họ cụ thể nào của người Việt ở Nam Bộ, mà trên cơ sở những vấn đề đã được nghiên cứu về làng và quan hệ dòng họ người Việt ở Bắc Bộ và sự trải nghiệm của bản thân tác giả trong những năm sinh sống ở một làng quê Bắc Bộ và những năm công tác tại các tỉnh phía Nam nêu lên những nguyên nhân về những khác biệt về làng và quan hệ dòng họ người Việt Nam Bộ trong bối cảnh chung của Văn hóa Việt. Tuy nhiên, làng và quan hệ dòng họ người Việt Nam Bộ là một đề tài phức tạp đầy khó khăn, trong một tiểu luận nhỏ này khó lòng bao quát được. Hơn nữa, sự hình thành các làng Việt là một qúa trình, lại bị chi phối bởi những nguyên nhân khác chúng tôi một nghiên cứu thì qúa trình hình thành các làng ở Đồng Nai-Gia Định (bao gồm không chỉ Đồng Nai mà cả vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay) có 4 phương thức lập làng. Còn ở tỉnh Tiền Giang thì tồn tại 4 loại hình cư trú (thực chất là 4 loại hình cộng cư, mà bản chất của vấn đề là các loại hình làng khác nhau) [4]. Còn ở miền Bắc sự hình thành làng cũng diễn ra rất phức tạp. Trong qúa trình lịch sử, những tác động của các nhân tố cũng không giống nhau dẫn đến mỗi làng có một sắc thái văn hóa riêng, mà nhà nghiên cứu Từ Chi gọi là những “ốc đảo”. Chúng tôi hiểu rằng tính đa dạng của điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội sẽ tác động rất lớn đến sự hình thành các làng, cũng như cơ cấu tổ chức và vận hành của các làng Việt, mặc dù thuật ngữ “làng” trong tiếng Việt chỉ một cấp trong tổ chức hành chính trước đây và hàm chứa địa bàn cư trú của một cộng đồng cư dân. Với một tình hình thực tế như vậy, sự đa dạng của làng Việt như là một điều hiển nhiên. Nhưng nếu xét về cơ cấu tổ chức và sự vận hành của làng, thì về cơ bản các làng lại tương đối giống nhau. Mặt khác, chúng tôi cũng bị hạn chế về thời gian, nên không có điều kiện để khảo sát các làng khác, ngoài địa bàn nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Về tài liệu tham khảo, như trên chúng tôi đã trình bày, do tính chất và tầm quan trọng của làng Việt nên đã có nhiều công trình được xuất bản trong những năm qua, nhưng chúng tôi chỉ tiếp cận được một lượng tài liệu khiêm tốn. Do đó những đánh giá, nhận xét về làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ khó có thể nói là toàn diện được. Vì vậy, chúng tôi chỉ giới hạn ở một số vấn đề mà theo chúng tôi là những nét đặc trưng nhất để làm nên sự khác biệt giữa làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ.

2.

     Làng Việt ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam quy mô có thể rất khác nhau, nhưng đều là nơi cư trú của những cộng đồng dân cư Việt có quan hệ huyết tộc hoặc cùng quê có một không gian xác định so với các làng khác. Do tiến trình lịch sử, do sự mở rộng vùng lãnh thổ của quốc gia, do gia tăng dân cư nên sự hình thành các làng Việt diễn ra ở các giai đoạn lịch sử, ở các vùng là rất khác nhau. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ – cái nôi của văn minh Việt – có những làng có nguồn gốc từ thời nguyên thủy. Bởi vì, sự phát triển của xã hội Việt Nam mà chúng ta có thể quan sát thấy không tạo ra một đột biến phá vỡ hoàn toàn cơ cấu tổ chức làng xã cũ để thành lập lại trên cơ sở xã hội mới. Các làng xã loại này, do vậy vẫn mang nặng những tàn dư nguyên thủy với bộ phận đất công chiếm đa số, do chưa có tư hữu. Tình hình này còn biểu hiện rất rõ ở các tộc người thiểu số ở Trường Sơn – Tây Nguyên trong những thập niên gần đây[5]. Đến thời kỳ xã hội có giai cấp, quá trình hình thành làng theo những con đường khác nhau. “Thường có khi các làng chỉ có một số ruộng hạn chế, nên khi không còn có đủ để nuôi sống cả số dân đã quá đông, nhiều người buộc phải đi tìm đất mới ở những nơi khác. Họ nhân danh chính mình hay nhân danh những kẻ muốn đi theo họ, xin được quyền chiếm dụng các đất đai bỏ hoang, để lập ở đây một làng mới, bằng cách cam đoan đóng thuế điền sau thời kỳ khẩn hoang nhất định.

     Một loại làng có nguồn gốc khác. Đó là những làng do nhà nước chủ trì việc phá hoang lập ấp. Những làng thuộc loại này chủ yếu được hình thành ở các vùng ven biển thuộc Thái Bình và Ninh Bình, đặc biệt diễn ra mạnh mẽ ở vùng Nam Bộ trong quá trình Nam tiến có sự hỗ trợ của chính quyền. Khi nói về cai trị của Nhà nước trong việc lập làng tại Nam Bộ, Địa chí Đồng Nai viết: “Nhà nước chiêu mộ những thành phần lưu tán – trong đó có tù đào binh, tứ cố vô thân – hay phân bổ nhân dân và nhiều loại binh lính đến khai đất đai lập ra làng.Những ruộng đất ngày càng mở rộng và cũng dần dần đi theo khuôn mẫu chung với các hình thức sở hữu được Nhà nước chủ động cung cấp các phương tiện canh tác như tru cày, lúa giống …chính phương thức này có xu hướng phát sinh những loại tài sản tập thể trong các làng xã. Nhà nước tổ chức các làng đồng điền rồi huy động nhân dân, nhất là binh lính đến làm việc theo một kỷ luật rất chặt chẽ để duy trì thường trực đội quân nông dân – ngụ binh ư nông – vừa sản xuất,vừa chiến đấu hay luân phiên làm việc đến việc lia khi hữu sự.Trên nguyên tắc,các đồn điền trực tiếp tạo ra các diện tích công điền, công thổ.” [8]. Tại Thái Bình và Ninh Bình, Nguyễn Công Trứ với tư cách là quan dinh điền sứ đã có công rất lớn trong việc hình thành các làng mới tại hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình)[9]. Quá trình hình thành các làng mới này cũng diễn ra ở thời hiện đại ở các huyện này. Trường hợp lập xã mới: xã Nam Cường (Tiền Hải) trong những năm 60 thế kỷ XX là một thí dụ.

     Người Việt trong quá trình Nam tiến mở rộng biên cương, xác lập chủ quyền, cũng là lúc hình thành những điểm tụ cư và trở thành làng. Làng Việt Nam Bộ cũng mang những nét chung của làng Việt Bắc Bộ. Đó là nơi cư ngụ của những cộng đồng dân cư Việt có quan hệ với nhau dựa trên một địa vực cư trú nhất định, và thêm vào đó là những mối quan hệ huyết tộc hoặc cùng quê. Quá trình hình thành làng Việt Nam Bộ khác với quá trình hình thành làng Việt Bắc Bộ. Khi người Việt bằng nhiều cách và vì nhiều lý do khác nhau đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ trước thế kỷ XVII, nhưng vào thời điểm đó chưa có những điều kiện cần và đủ để hình thành làng. Và chỉ có ở giai đoạn sau đó, nhất là sau khi Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn cử vào thiết lập bộ máy hành chính ở Đồng Nai – Gia Định (1698), việc hình thành làng Việt mới có những điều kiện thuận lợi. Như vậy, sự hình thành làng Việt Nam Bộ, trong bối cảnh xã hội Việt Nam đã tiến một bước dài trên con đường phong kiến hóa nên đã có những khác biệt so với Bắc Bộ. Các làng Việt Nam Bộ được hình thành muộn hơn nhiều so với làng Việt Bắc Bộ nên không có làng nào có nguồn gốc từ thời nguyên thủy như các làng Việt Bắc Bộ. Làng Việt Nam Bộ được hình thành trong quá trình khai phá, có làng vốn là các đồn điền của chúa Nguyễn, nhà Nguyễn[10]. Các làng Việt Nam Bộ không có làng nào lấy tên họ đặt cho tên làng. Mặc dù việc thành lập làng vai trò của cá nhân là rất quan trọng. Chính quyền khuyến khích những người có vật lực tuyển mộ khai hoang, “dưới tất cả mọi triều đại đều có một chính sách khẩn hoang và định cư. Những người lập làng mới được khích lệ bằng đủ loại biện pháp[11]. Rất nhiều người có công lập làng[12], nhưng không có làng nào lấy tên họ đặt cho tên làng. Điều này cũng dễ hiểu, những người có vật lực chiêu mộ những người lao động ở các địa phương, là những người thuộc các dòng họ khác nhau. Trong môi trường mới, họ lao động để sinh sống mà thành quả của họ là những cánh đồng lúa bạt ngàn, là cơ sở để hình thành các làng mới. Nhưng đây là những làng đã hội đủ các yếu tố theo quy định của Nhà nước phong kiến. Người có công lập làng đã được nhà nước ban thưởng và có lẽ vì vậy không thể lấy tên họ làm tên làng. Trong những ngày đầu khai thác một hay mấy gia đình cùng chung lưng đấu cật để đấu tranh với thiên nhiên, giành lấy sự sống. Trải qua nhiều đời con cháu của những gia đình này sinh sôi nảy nở nhiều, số ruộng đất được khai thác nhiều thêm, thôn xã dần dần hình thành”[13]. Tình hình này là rất khác với quá trình hình thành các làng Việt Bắc Bộ. Dân cư của một làng phát triển từ sự tăng lên các thành viên của một dòng họ. Để ghi nhận sự phát triển của các làng đó, người ta lấy tên họ đặt cho tên làng. Trải qua những biến cố lịch sử tên làng không thay đổi tồn tại cho đến ngày nay.

     Các làng khi đã hình thành để cho việc quản lý được thuận lợi, cần thiết phải đặt tên cho các làng. Cách thức này khiến chúng ta liên tưởng đến việc nhà Nguyễn buộc người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long phải mang một trong 5 họ: Thạch, Sơn, Kim, Danh, Lâm[14] mà bản thân người Khmer cũng chưa hiểu hết bản chất của dòng họ là gì. Các làng Việt Bắc Bộ khi mới hình thành (các làng có nguồn gốc từ thời nguyên thủy) có lẽ có các tên gọi phản ánh những đặc điểm tự nhiên nơi cộng đồng đó cư trú. Những tên làng đó hiện nay vẫn còn tồn tại song song với những tên làng mới. Ở Thái Bình còn nhiều làng như thế: như làng Mét, làng Cọi, làng Đác, làng Lụ. Có lẽ sang thời kỳ độc lập khi hình thành bộ máy quản lý từ trung ương đến các địa phương, và nhất là khi chữ Hán đã có vai trò trong đời sống thì những làng mang tên chữ có yếu tố Hán – Việt ra đời. Mỗi làng mang tên chữ là những từ hoàn toàn có tính chất văn học biểu tượng của điềm lành. Ở vùng quê nào thuộc các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ đều có tình hình như vậy[15]. Các tên gọi của các làng theo chữ Hán – Việt được dùng trong hành chính, còn trong dân gian các cư dân của các làng xung quanh vẫn gọi tên làng theo cách gọi cũ.

     Làng Việt Nam Bộ ngay từ khi hình thành đã có vai trò của Nhà nước, lại được hình thành muộn hơn các làng Việt Bắc Bộ[16]. Tên gọi các làng Việt Nam Bộ thường là từ Hán – Việt mang ý nghĩa tốt đẹp như An Bình, An Hòa, Bình Lợi, Phú Hòa. Cũng do quá trình hình thành làng diễn ra nhanh, dân cư bao gồm những người đến từ các vùng khác nhau nên làng Việt Nam Bộ cũng không có làng nào lấy tên họ đặt cho tên làng. Quá trình hình thành làng và sự can thiệp của Nhà nước đã làm cho những nét văn hóa truyền thống của làng Việt Bắc Bộ không được thể hiện ở làng Việt Nam Bộ (như không có hương ước, khơng cĩ lng tn Nơm, tổ chức phi quan phương hầu như không có hoặc nếu có thì rất ít, không nhiều như các làng Việt Bắc Bộ).

     Cơ cấu tổ chức và sự vận hành của làng Việt cũng là nét khá độc đáo lôi cuốn sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Một loạt các bài viết đề cập đến những nội dung này đã được tập hợp đăng trong cuốn Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (tập II)[27]. Toan Anh, Nguyễn Văn Huyên trong các công trình của mình cũng dành khá nhiều trang nói về tổ chức làng xã cổ truyền Việt Nam và trong chừng mực nhất định đã nêu lên những khác biệt giữa làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ[28]. Trần Từ vào năm 1984 đã công bố công trình nghiên cứu về “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ“[29]. Đây được coi là công trình hoàn chỉnh (ít ra cho đến thời điểm này) nghiên cứu một cách toàn diện cơ cấu tổ chức làng xã cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ. Các công trình nghiên cứu về cơ cấu làng Việt Bắc Bộ đều khẳng định có sự hiện diện của các tổ chức phi quan phương bên cạnh các tổ chức quan phương[30]. Các tổ chức quan phương (hay bộ máy quản lý làng) do Nhà nước trung ương tập quyền áp đặt lên các làng, theo những quy định chung. Và bộ máy tổ chức này về cơ bản có sự thống nhất của toàn bộ vùng đồng bắng Bắc Bộ xét trên phương diện tổ chức cũng như chức năng nhiệm vụ. Thông qua các tổ chức quan phương Nhà nước thể hiện quyền lực đến các công dân của mình trong việc thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tổ chức phi quan phương không nằm trong hệ thống của bộ máy hành chính, nó ẩn tàng trong các làng Việt và vận hành theo những nét rất riêng của từng loại tổ chức. Hoạt động của các tổ chức phi quan phương tạo nên sự kết dính giữa các thành viên trong tổ chức của mình. Đây là một nét rất khác trong cơ cấu tổ chức làng Việt Bắc Bộ so với làng Việt Nam Bộ. Các làng Việt Nam Bộ là các làng khai phá ngay từ khi hình thành đã thể hiện vai trò của mình. Mặt khác các thành viên của các làng Việt Nam Bộ được tập hợp từ các vùng khác nhau, nên mối quan hệ thân tộc không có cơ sở để thể hiện vai trò của mình, các nghiên cứu trước đây cũng như các công trình gần đây không thấy có làng nào có giáp[31]. Và vì những lý do đó các tổ chức phi quan phương không có điều kiện phát triển ở làng Việt Nam Bộ. Các tổ chức phi quan phương ở làng Việt Bắc Bộ trong bối cảnh hiện nay vẫn thể hiện rõ vai trò của mình trong đời sống thường nhật của người nông dân. Trong khi đó các tổ chức phi quan phương tại các làng Việt Nam Bộ vẫn vắng bóng, nếu có cũng thể hiện rất yếu ớt vai trò của mình.

     Trong bối cảnh chung của làng Việt Bắc Bộ với sự tồn tại song hành của các tổ chức quan phương và phi quan phương giữ vai trò quan trọng để điều hòa chung làm cho các làng Việt Bắc Bộ dù phức tạp, vẫn là một tế bào xã hội vận hành như một đơn vị thống nhất là hương ước. Hầu hết các làng Việt Bắc Bộ đều có hương ước. Làng nào có hương ước ấy, tùy truyền thống của từng làng mà hương ước đề cập đến những vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, nội dung của hương ước của các làng lại có nội dung tương đối giống nhau. Vì hương ước không phải là bộ luật chung cho các làng, nên hình thức thể hiện những vấn đề cần đề cập tới của từng làng cũng khác nhau. Những nội dung mà hương ước các làng thường đề cập đến bao gồm:

1) Những trường hợp thưởng công (ví như thưởng cho người bắt được trộm cướp)

2) Những trường hợp phạt tội, thường là các tội nhẹ mà pháp lý của Nhà nước quân chủ chính thức không giải quyết (trộm cắp vặt, ẩu đả thông thường, bất kính đối với bề trên)

3) Những trường hợp đền bù cho người vì quyền lợi chung của cả làng chịu hy sinh (ví như bị thương, hay bỏ mình trong khi chống lại quân cướp)

4) Những trường hợp suy tôn người đã bỏ của, bỏ sức để làm việc ích chung cho cả làng (ví như tu bổ chùa làng, xây cầu, đắp cống)

5) Những trường hợp cấm đoán hoặc nhằm bảo vệ đạo lý (ví như cấm cờ bạc, trai gái)[32].

     Và “dù không phải là bộ luật hoàn chỉnh, hương ước với những điều quy định về một số nét sinh hoạt riêng biệt của làng xã, vẫn đóng vai trò một cương lĩnh. Có thể còn khá chung chung, nhưng dù sao vẫn đáng được xem là một cương lĩnh về nếp sống hàng ngày của làng xã, mà mọi cá nhân, mọi tổ chức, trong làng, trong xã phải tuân thủ”[33]. Các hương ước của từng làng tác động trực tiếp đến các thành viên của làng. Các thành viên trong làng dù thuộc tổ chức phi quan phương nào cũng đều có trách nhiệm thực hiện hương ước. Mỗi thành viên trong làng với trách nhiệm của mình đối với làng, đối với một tổ chức nào đó mà họ là một thành viên, vì danh dự của làng, của gia đình và của chính cá nhân mà tuân thủ tự giác, thực hiện những điều đã được ghi trong hương ước.

     Các làng Việt Nam Bộ không có hương ước. Không có các tổ chức phi quan phương, không có hương ước, các làng Việt Nam Bộ ngay từ khi hình thành đã sớm chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Nhưng xét trên phương diện quản lý thì sự ràng buộc các thành viên ở các làng Việt Bắc Bộ chặt chẽ hơn so với các làng Việt Nam Bộ. Tại các làng Việt Bắc Bộ đất đai có hạn, các quan hệ dòng họ ràng buộc, những quy định của hương ước đã làm cho người nông dân Việt không năng động, khó có thể vượt qua sự thụ động. Trái lại, thiên nhiên Nam Bộ khá ưu đãi và hào phóng với con người, lại không có tâm lý phân biệt người chính cư và người ngụ cư, nên một khi, ở nơi ở cũ họ cảm thấy không còn sống được nữa thì họ sẵn sàng rời để đến những nơi khác lập nghiệp.

     Cũng cần phải nhấn mạnh thêm do làng Việt Nam Bộ không được thiết lập trên nền tảng ruộng công nên vai trò của làng có phần nào bị hạ thấp so với làng Việt Bắc Bộ. Bởi vì ở đây, làng không phải làm chức năng kiểm soát, phân chia việc khai thác đất đai và đương nhiên cũng không có chức năng điều hòa sử dụng các nguồn nước. Những công việc đó không theo thể chế của làng và thường do những tư nhân trực tiếp canh tác giải quyết. Và có lẽ do cơ chế vận hành của làng Việt Nam Bộ như vậy, nên ở Nam Bộ các làng không có hương ưđc như những làng Việt Bắc Bộ. Trong chế độ sở hữu ruộng đất Nam Bộ có một hiện tượng khá phổ biến, nó khác biệt hoàn toàn so với tình hình ở Bắc Bộ. Đó là hiện tượng ruộng phụ canh[34]. Ruộng phụ canh không chỉ ở làng bên, mà còn ở nhiều làng, nhiều tổng, thậm chí ở tỉnh khác. Cơ chế sở hữu đất canh tác như vậy đã dẫn đến sự giao lưu giữa các vùng, không có những cơ sở kinh tế để tạo thành những “ốc đảo” như những làng Việt Bắc Bộ, làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn Nam Bộ không khép kín cũng không đòi hỏi sự thỏa mãn bằng một quy mô dân số nhất định của làng. Cũng cần lưu ý đến sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa cộng đồng người Việt với các cộng đồng người khác ở Nam Bộ. Khi người Việt di dân đến vùng đất mới thì trước đó đã có các tộc người khác đặc biệt là người Khmer sinh sống. Các tộc người này đã góp phần cùng người Việt khai hoang, cải tạo để có được đồng ruộng phì nhiêu, bốn mùa cây trái. Trong quá trình cộng cư, trong quá trình khai hoang và đặc biệt trong giai đoạn lịch sử sau này, trong quá trình chống ngoại xâm để bảo vệ sự sống còn của quốc gia dân tộc, của từng tộc người, đã diễn ra quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người đã hình thành nên những giá trị văn hóa chung cho cả Nam Bộ – văn minh miệt vườn[35]. Ở Nam Bộ đã sớm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất nông sản hàng hóa. Ở làng Việt Nam Bộ do không tồn tại chế độ sở hữu công cộng, nên ngay từ đầu đã xác lập sở hữu tư nhân, tạo nên tính năng động của người tiểu nông. Người nông dân Nam Bộ do những ưu đãi của thiên nhiên, không có phong cách “tích cốc phòng cơ” mà luôn gắn bó với thị trường. Để gia nhập thị trường không thể duy trì nền sản xuất nhỏ theo hướng tự cung tự cấp, mà phải hướng tới việc huy động mọi nguồn lực, vốn liếng để sản xuất cho rẻ, cho nhanh đáp ứng nhu cầu của thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trước những năm 30 của thế kỷ XIX đã thấy có sự tích tụ đất đai rất lớn ở Nam Bộ[36]. Cùng với việc sản xuất hàng hóa là việc hình thành các đô thị, nhưng đô thị ở vùng này không mang đậm nét tàn dư của công xã nông thôn. Đô thị ở đồng bằng sông Cửu Long hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu của một nông thôn sản xuất hàng hóa, mở rộng giao lưu buôn bán với tất cả các vùng. Trở thành đầu mối giao dịch với các nơi. Người nông dân Nam Bộ không kỳ thị đối với buôn bán. Tâm lý đó của người nông dân Nam Bộ được thể hiện rõ qua câu ca dao quen thuộc đã đi vào lòng người bao thế hệ :

Đạo nào vui bằng đạo đi buôn,

Xuống biển lên nguồn gạo chợ nước sông.

     Sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ kích thích giao lưu quốc tế làm cho hoạt động của làng Việt Nam Bộ năng động hơn so với làng Việt Bắc Bộ.

     Làng Việt Nam Bộ sẽ tồn tại và sẽ biến đổi cùng với quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Một thực thể tất yếu có vai trò và vị trí trong sự phát triển chung. Tuy làng (thôn, ấp… ) không phải là cấp trong hệ thống tổ chức Nhà nước, nhưng lại là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, là nơi thực hiện dân chủ trực tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư. Đồng thời làng còn là nơi bảo đảm đoàn kết giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới, giúp nhau trong sản xuất và đời sống. Và cũng chính địa bàn làng là nơi giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp và thuần phong mỹ tục của cộng đồng nhằm xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

3.

     Quan hệ dòng họ – quan hệ huyết thống – xuất hiện rất sớm và ở hầu hết các tộc người trên thế giới. Ở buổi bình minh của lịch sử nhân loại con người không thể sống cô độc, mà phải dựa vào nhau. Do đó mối quan hệ huyết thống xuất hiện trước khi xuất hiện các mối quan hệ khác. Quan hệ đó là quan hệ giữa người và người dựa trên huyết thống là sản phẩm thừa hưởng từ tự nhiên. Nhưng do các yếu tố khách quan và chủ quan tác động vào tiến trình lịch sử của các tộc người hết sức khác nhau, nên ngày nay quan hệ dòng họ ở các tộc người cũng khác nhau. Ở một số tộc người quan hệ thân tộc được tính theo dòng mẹ (theo mẫu hệ) ở đây vai trò của người phụ nữ trong xã hội, cũng như trong gia đình được đề cao. Người phụ nữ là người chủ động trong hôn nhân, trong việc điều hành gia đình, nuôi con, thừa kế tài sản. Ngay cả khi người chồng qua đời cũng không được chôn cất ở phía bên vợ mà phải đưa về chôn cất tại nghĩa địa của dòng họ mẹ. Ở Việt Nam, chế độ mẫu hệ tồn lại khá đậm nét ở các tộc người thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Ở một số tộc người, quan hệ dòng họ không thể hiện một cách rõ ràng là theo dòng cha (phụ hệ) hay dòng mẹ (mẫu hệ). Trong dân tộc học, những tộc người này được gọi là những tộc người song hệ ở giai đoạn chuyển tiếp từ mẫu hệ lên phụ hệ.

     Ở người Việt, chế độ phụ hệ đã được xác lập từ lâu. Quá trình chuyển hóa từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ ở các tộc người cũng hết sức khác nhau. Đến thời đại đồ đồng, thậm chí đến thời đại đồ sắt, tức là thời kỳ đầu của sự hình thành Nhà nước Văn Lang và Âu Lạc, chế độ mẫu hệ vẫn còn chưa mất hết sức sống. Cho đến hơn một ngàn năm Bắc Thuộc, văn minh Trung Hoa có điều kiện du nhập vào xã hội Việt Nam. Nho giáo xác định được chỗ đứng trong nhân dân Việt. Tuy nhiên, nếu quan sát những quan hệ trong xã hội và gia đình, nhất là trong các hội làng, ta vẫn thấy vai trò khá rõ nét của phụ nữ và những yếu tố của chế độ mẫu hệ. Tuy đề cao nguyên tắc “nam nữ thụ thụ bất thân”, nhưng lại có “có nam, có nữ mới nên xuân”. Ở người Việt trước đây vẫn có tục ở rể. Trong đời sống hàng ngày, người phụ nữ cũng ít bị hạn chế trong sinh hoạt kinh tế xã hội, thậm chí trong sinh hoạt chính trị. Ho không được ra đình để họp, nhưng những lễ vật tế thần lại do một tay người phụ nữ đảm nhận. Trong cuộc sống xã hội, người phụ nữ đảm nhiệm việc cấy, gặt, sàng sẩy, tham gia nhiều nghề thủ công, buôn bán ở các chợ làng, đảm nhiệm việc hậu phương, thậm chí “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Số lượng các nữ thần khá đông. Còn trong cuộc sống gia đình, phụ nữ là người quán xuyến mọi công việc, từ nuôi con, lo cái ăn, cái mặc. Những hình ảnh tảo tần người phụ nữ Việt đã được Tú Xương khắc họa rất sinh động :

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông…”

     Có lẽ không thể phủ nhận được vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình, nên mới có câu “lệnh ông không bằng cồng bà”. Một số đất nước mà Nho giáo đã thấm vào từng khía cạnh của đời sống, nhưng trong những điều luật cụ thể cũng nêu lên quyền như nhau của vợ chồng với tài sản cùng làm ra (Luật Hồng Đức). Việc phân chia tài sản cũng được phân định rõ ràng, ngoài phần dành cho hương hỏa, những gì còn lại, không phân biệt con trai hay con gái, đều được nhận phần và các phần được chia đều nhau hoặc có chênh lệch không đáng kể. Về nguyên tắc, ruộng hương hỏa do người trưởng nam nhận để lo hương khói cho người quá cố. Nhưng trong những trường hợp không có con trai thì người con gái trưởng nhận phần hương hỏa.

     Họ của người Việt đã xác lập theo dòng cha, nhưng tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn còn được bảo lưu.

     Sự phát triển ngày càng tăng của dân cư đã dẫn đến tình trạng sống xen kẽ giữa các thành viên của các dòng họ khác nhau trong một địa vực cư trú. Tuy nhiên, trong một khu vực cư trú nhất định, thông thường cũng có một hay hai dòng họ chiếm ưu thế. Quan hệ mới xuất hiện – quan hệ làng xã. Quan hệ làng xã là quan hệ giữa người với người dựa trên mối quan hệ láng giềng. Quan hệ láng giềng xuất hiện muộn hơn so với quan hệ thân tộc, do sự gia tăng tính xen kẽ của cư dân và sự di chuyển địa bàn cư trú. Quan hệ dòng họ mất dần đi cơ sở kinh tế của sự tồn tại. Cấu trúc gia đình, thân tộc do đó cũng có những biến đổi nhất định. Tuy nhiên, những nét chủ yếu của quan hệ thân tộc vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Nó thể hiện ở một số khía cạnh sau

     Trước hết, chế độ ngoại hôn luôn được thể hiện rõ rệt trong việc lựa chọn hôn nhân ngoài dòng họ. Làng Việt Bắc Bộ không có nhiều dòng họ, lại cộng cư trong một không gian xác định, nên các thành viên trong làng hiểu rõ những mối quan hệ thân tộc. Nên hầu như không có sự vi phạm những quy định của chế độ ngoại hôn. Ngay cả trong trường hợp hai người cùng tộc danh cũng rất ít trường hợp dẫn đến hôn nhân. Dư luận xã hội lên án gay gắt những trường hợp vi phạm chế độ ngoại hôn. Không chỉ trong suy nghĩ của người có tuổi mà ngay cả trong lòng lớp trẻ, nguyên tắc này cũng rất được coi trọng.

     Thứ ba, theo chế độ tông pháp người con trưởng sẽ làm nhiệm vụ nối nghiệp gia đình bất luận tư chất của người đó như thế nào. Đây là vị thế mặc định kể từ lúc người con trưởng xuất hiện trong gia đình. Theo truyền thống dòng trưởng được kế thừa một số đặc quyền đặc lợi (như ruộng hương hỏa, hoa lợi trong khuôn viên của nhà thờ họ…) để lo chăm sóc từ đường (nơi thờ cúng của một gia đình) hay nhà thờ họ (nơi thờ cúng của một dòng họ). Khi vắng cha thì người anh thế, quyền huynh thế phụ. Ngày nay, khi ruộng hương hỏa không còn thì nguồn kinh phí phục vụ cho việc thờ cúng tại các nhà thờ họ, sẽ do sự đóng góp của những người con trai của dòng họ. Đóng góp nhiều hay ít phụ thuộc vào tính chất của công việc. Để xây dựng, tu sửa nhà thờ họ, người ta tính toán toàn bộ chi phí, sau đó chia đều cho tất cả những người đàn ông, con trai không phân biệt tuổi tác. Những người giàu có có thể đóng góp nhiều hơn những người khác, nhưng tất cả theo nguyên tắc tự nguyện. Những người đàn bà đã đi lấy chồng có thể xin được đóng góp tiền của để xây dựng hoặc tu sửa nhà thờ họ. Nhiều ít hoàn toàn do tự nguyện.

     Trong quan hệ dòng họ, con của dòng đích (tộc trưởng đối với một dòng họ) con của dòng bác (anh của cha trong một gia đình) đều mặc nhiên được những người con của dòng thứ, hay dòng chú (em cha) tôn trọng nhận là anh, chị, dù là những người đó sinh sau đẻ muộn. Nguyên tắc này vẫn còn được duy trì khá chặt chẽ tại các làng Việt Bắc Bộ.Ai vi phạm nguyên tắc này sẽ bị phê phán. Vì vậy, những người vì những lý do khác nhau, sinh sống xa quê, khi trở về đoàn tụ gia đình sẽ được những người lớn tuổi dẫn đi để làm quen với họ hàng, tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra trong ứng xử với những người trong họ.

     Cũng theo chế độ phụ quyền, người phụ nữ khi đi lấy chồng phụ thuộc vào gia đình chồng. Tài sản trong gia đình (dù nhiều hay ít) đều thuộc về người chồng, không là của con cũng là của họ hàng nhà chồng. Người phụ nữ một nắng hai sương làm ra, nhưng một khi li dị hoặc tái giá thường chỉ được phép ra khỏi nhà chồng với hai bàn tay trắng, không được mang theo con và của cải. Ngày nay, nam nữ bình đẳng vấn đề thừa kế tài sản và nuôi dạy con sau ly dị đã được luật pháp Việt Nam qui định[37]. Tuy nhiên cũng không ít những trường hợp tranh chấp.

     Trong tiến trình sinh hoạt văn hóa xã hội ở làng Việt Bắc Bộ những hình thái sinh hoạt cộng đồng của các dòng họ có rất nhiều. Những sinh hoạt văn hóa xã hội này phản ánh cuộc sống đích thực của các làng Việt Bắc Bộ, nơi lưu giữ các giá trị văn hóa. Để cho các sinh hoạt này được duy trì đòi hỏi phải có nguồn kinh phí. Trước đây nguồn kinh phí này là do hoa lợi thu được từ ruộng hương hỏa, mà làng nào cũng có hoặc ít hoặc nhiều tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng dòng họ. Ngoài ra, cần có sự đóng góp của các thành viên khác trong họ, nhất là những người giàu, những người đỗ đạt. Quỹ họ do trưởng tộc giữ, nhưng người sử dụng lại là tập thể của dòng họ.Mọi chi tiêu tiền quỹ họ đều được bàn bạc, công khai. Khi quỹ đất không còn, quỹ họ chủ yếu do sự đóng góp của các thành viên trong dòng họ. Trong những năm chiến tranh ác liệt, nhiều nhà thờ họ bị tàn phá hoặc hư hỏng. Để giáo dục truyền thống về nguồn, nhiều nhà thờ họ được xây dựng mới hoặc tu sửa lại khá khang trang, trở thành nơi sinh hoạt văn hóa trong dòng họ. Ở một số dòng họ, còn dùng quỹ họ để khuyến khích những thành viên của dòng họ thi đỗ các trường đại học hoặc là những học sinh học giỏi tại các trường phổ thông. Đây là một việc làm rất đáng khuyến khích trong bối cảnh hiện nay khi mà toàn xã hội đang có nhiều quan tâm đến sự nghiệp giáo dục.

     Sinh hoạt văn hóa xã hội của dòng họ là rất nhiều được thể hiện qua các lễ. Chúng tôi nêu lên hai trong nhiều những lễ đó. Sở dĩ chúng tôi có lựa chọn này vì tính chất cũng như quy mô của chúng khác với các lễ khác. Mặt khác, đây là những lễ được tổ chức ở hầu hết các họ, không phân biệt họ lớn hay họ nhỏ. Đó là lễ tảo mộ và lễ tế họ.

     Lễ tảo mộ thường được tiến hành vào dịp thanh minh. Vào dịp thanh minh về nguyên tắc, những thành viên trong dòng họ đến nghĩa địa, nơi chôn cất ông thủy tổ để dọn mới, phát quang mồ mả tổ tiên, đắp cho cao, cho đẹp. Những người lớn tuổi trong họ chỉ cho lớp trẻ vị trí, những đặc điểm nhận biết để lớp trẻ ghi nhớ. Đây là một hình thức biểu thị sự “uống nước nhớ nguồn”, một truyền thống tốt đẹp của người Việt. Tuy là theo nguyên tắc các thành viên trong họ đi tảo mộ, nhưng phần lớn trong các trường hợp chỉ những người lớn tuổi, trưởng các chi phái. Sau khi làm xong công việc ở mộ tổ các chi phái lại tiếp tục tảo mộ ông tổ của các chi. Thông thường các chi phái dòng họ cũng hay tổ chức tế lễ tại nhà thờ họ các chi phái vào dịp này.

     Lễ tế họ thường được tổ chức vào ngày mất của cụ tổ. Vào ngày này người ta sửa sang, thu dọn sao cho nhà thờ họ sạch sẽ hơn, gọn gàng hơn. Kinh phí cho tế lễ họ là nguồn hoa lợi thu được từ ruộng hương hỏa và sự đóng góp của các thành viên trong dòng họ. Khi ruộng hương hỏa không còn, thì mọi chi phí cho tế lễ họ sẽ do các thành viên đóng góp. Trong ngày tế họ người ta phải biện lễ theo truyền thống của từng dòng họ. Những họ nhỏ sẽ là dịp gặp mặt của tất cả thành viên của dòng họ. Còn những họ lớn gồm nhiều chi phái, nhiều người chỉ có những người trưởng các chi phái và những người lớn tuổi trong dòng họ mới có cơ hội có mặt tại nhà thờ họ trong dịp này. Bởi vì, cũng vào thời gian đó tại các nhà thờ của các chi phái cũng sẽ tiến hành lễ tổ.

     Tại buổi lễ, trưởng tộc (chi cả) và trưởng các chi phái khác cũng như những người lớn tuổi trong họ đứng dâng nước, còn các thành phần khác đứng phía sau. Người ta chọn hai người giỏi văn tự đọc gia phả và lời cầu chúc tổ tiên. Sau khi đọc xong gia phả và lời cầu chúc tổ tiên mọi người có mặt đều rất cung kính vái tổ tiên. Lễ tế họ được tổ chức trang nghiêm tại nhà thờ họ với sự kiện của tất cả các thành viên trong dòng họ tạo nên niềm cộng cảm, là sợi dây nối kết mọi người lại để họ hiểu nhau hơn. Cho dù cụ tổ đã mất cách nay vài ba thế kỷ, các thế hệ cháu con đã tăng lên rất nhiều lần, sinh sống ở nhiều làng khác nhau, quan hệ láng giềng đã lấn át quan hệ huyết thống, nhưng niềm cộng cảm chung một cội nguồn đã giúp cho những người tiểu nông gắn bó hơn và có thể bỏ qua cho nhau những mâu thuẫn của đời thường. Quan hệ giữa các thành viên trong một dòng họ tự nó không mang tính giai cấp và ở một chừng mực nào đó quan hệ đó cũng không mang tính đẳng cấp, mặc dù trong thực tế đời sống, vị trí xã hội của các thành viên của một dòng họ cũng không giống nhau, có trường hợp, giữa họ với nhau đã xảy ra sự bóc lột. Về cơ bản, quan hệ dòng họ là quan hệ bình đẳng thương yêu tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạn nạn, khó khăn.

     Mặc dù “làng Việt cổ truyền ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ là một đơn vị dân cư được tập hợp chủ yếu theo quan hệ láng giềng”[38] nhưng quan hệ dòng họ vẫn có vai trò trong đời sống của người nông dân Việt Bắc Bộ. Quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ đã xuất hiện ngay từ ban đầu, ngay trong từng nhóm di dân đến khai phá vùng đất mới đầy rẫy những khó khăn khắc nghiệt. Quan hệ dòng họ đó vẫn có giữa các thành viên của một dòng họ tại quê hương bản quán của họ ở một vùng nào đó ở miền Bắc hay miền Trung, sau vì một lý do nào đó họ phải rời bỏ quê hương để vào vùng đất mới. Trong môi trường mới, mối quan hệ dòng họ tiếp tục được duy trì.

     Các thành viên trong mỗi dòng họ của các làng Việt Nam Bộ vẫn thể hiện rất rõ nguyên tắc “chung tộc danh về phía bố”, mà trong một công trình nghiên cứu Gerald.C.Hakey đã viết về dòng họ của người Việt Nam Bộ. “Đó là một hệ thống thân tộc theo dòng của người cha trong đó con trai được coi trọng hơn con gái và giữ một vai trò ưu thế dẫu rằng con gái cũng không bị gạt xuống một quy chế thấp kém. Tên của con gái cũng mang họ của người cha và đều là những phần tử của dòng họ nội”[39]. Xác định rạch ròi bên nội, bên ngoại là thể hiện rõ chế độ ngoại hôn. Cho dù đã có những biến động lịch sử, sinh sống xa cái nôi văn minh Việt và ảnh hường của Nho giáo cũng rất nhạt nhòa, nhưng người Việt Nam Bộ vẫn giữ được những nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức.

     Theo truyền thống của các gia đình người Việt Bắc Bộ thì người con trai trưởng có trách nhiệm thờ cúng bố mẹ. Ngày tết và những ngày giỗ bố, mẹ, những người con khác trong gia đình sẽ mang lễ vật cũng như đóng góp tiền bạc để người con trai trưởng lo sắm sửa. Vị trí này không ai có thể thay thế, khi người con trai trưởng đó vẫn còn sống, chỉ có thể thay thế vị trí này khi người con trai trưởng chết mà không có con trai.

     Qua quan sát thực tế của chúng tôi ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác ở Nam Bộ thì tộc trưởng của các dòng họ không theo dòng con trưởng. Ở một số dòng họ, tộc trưởng thuộc dòng thứ, ở một số dòng họ khác, tộc trưởng do đại cử tri bầu[42]. Trong công trình nghiên cứu về làng Khánh Hậu, Hickey cũng có một nhận xét tương tự, ông viết: “trách nhiệm cúng giỗ không nhất thiết phải do trưởng tộc đảm nhiệm. Nhiều khi trách nhiệm đó được chia sớt giữa các người thuộc nam phái trong nội tộc để tránh cho một người nào đó phải một mình chịu đựng cái gánh nặng tài chính. Trường hợp này đặc biệt đúng với các gia đình không có hương hỏa và không có nguồn lợi nào khác đặt ra để lo việc cúng giỗ cho nên họ được tự do hơn để kiếm những tiện nghi riêng của họ. Và có một phần tử nào đó trong gia đình giàu có hơn những người khác, thì người đó có thể đảm nhận trách nhiệm cúng giỗ và đãi tiệc, tuy rằng không phải là trưởng tộc”[43].

     Như vậy so với những quan niệm truyền thống đã có những thay đổi. Không theo chế độ tông pháp còn được thể hiện ở chỗ không có sự phân định rõ ràng trong cách xưng hô giữa dòng đích và dòng thứ. Theo chế độ tông pháp, những người con của người con trưởng sẽ được những người con của dòng thứ gọi là anh, chị không phân biệt tuổi tác. Còn ở Nam Bộ, thì phần lớn các trường hợp những người lớn tuổi sẽ được gọi bằng anh, chị dù những người đó ở dòng thứ. Đó có thể do ảnh hưởng của người Hoa, một tộc người hay giữ tục lệ này.

     Các làng Việt Nam Bộ được hình thành trong quá trình khai hoang lập làng ở một vùng đất rất thuận lợi cho việc giao lưu, mà thành phần cư dân khá đa dạng từ nhiều tỉnh, nhiều vùng khác nhau đến khai hoang vùng đất mới tạo dựng những đơn vị cư trú. Những làng Việt Nam Bộ nói chung có tính chất mở nên người dân dễ dàng di chuyển đi nơi khác làm ăn và họ tạo dựng nên những đơn vị cư trú mới. Bởi vậy, cho nên dân cư của các làng không thuần nhất như các làng xã Bắc Bộ. Làng được hình thành trong quá trình khai phá, tập hợp cư dân ở nhiều địa phương khác nhau, nhiều dòng họ khác nhau. Chính vì vậy, trong một làng, số dòng họ khá nhiều[44], không có dòng họ nào chiếm áp đảo dân cư so với các dòng họ khác và cũng không có làng nào lấy lên họ đặt lên cho làng như ở các làng Việt Bắc Bộ. Tuy họ lập thành “dân ấp, dân lân” với nhau, nhưng sự cố kết “họ hàng, làng xã” ở Nam Bộ lỏng lẻo hơn so với các làng Việt Bắc Bộ. Trong bối cảnh cụ thể của Nam Bộ, chính những điều kiện tự nhiên và xã hội đã tác động đến mối quan hệ dòng họ vốn đã ăn sâu vào nếp nghĩ, đời sống của người nông dân Việt, làm cho nó khác so với Bắc Bộ.

     Mặt khác, quá trình khai hoang lập làng hình thành các đơn vị cư trú mới làm cho chế độ sở hữu đất đai ở Nam Bộ hình thành sớm. Ở Bắc Bộ, chế độ công điền công thổ tồn tại khá dai dẳng[45]. Chính công điền, công thổ đã níu kéo các thành viên gắn bó với làng. Dù đi xa cũng cố gắng thực hiện các nghĩa vụ của làng để đến khi phân chia lại công điền, công thổ sẽ được làng dành cho một phần như những thành viên khác đang sinh sống tại làng. Trong tình hình đó, mối quan hệ dòng họ có điều kiện được củng cố thông qua mối liên hệ siêu hình giữa người sống và người chết. Sợi dây liên hệ này chủ yếu là việc thờ cúng tổ tiên. Và mối liên hệ giữa người sống và sợi dây liên hệ này chủ yếu là sở hữu tập thể gồm có đất công và nhà thờ. Hơn thế nữa, vinh hạnh của một người được cả dòng họ đón nhận với tấm lòng trân trọng (một người làm quan cả họ được nhờ). Còn ở Nam Bộ chế độ tư hữu sớm, làng lại không được thiết lập trên nền tảng ruộng công nên vai trò của làng có phần bị hạ so với làng ở Bắc Bộ. Người tiểu nông tuy vẫn mang tình làng nghĩa xóm, nhưng tính cách và vai trò của họ không bị hòa tan trong cộng đồng, tính năng động làm cho họ tùy ý lựa chọn phương thức hoạt động kinh tế của mình. Chính điều đó đã làm cho quan hệ dòng họ có phần lỏng lẻo (bán anh em xa, mua láng giềng gần).

     Và cuối cùng quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ, có phần khác so với quan hệ dòng họ của người Việt Bắc Bộ, chính là những người di dân khai hoang lập làng là “những người nghèo khó, đấu tranh để sống, nhưng lại thiếu chữ, đủ sức làm dân, làm người mà không thuộc Kinh truyện” (Trần Bạch Đằng). Nho giáo du nhập vào Việt Nam dần dần, xác lập được vị trí của mình, được Nhà nước đề cao, nhưng khi chính trị suy vi, Nho giáo cũng mất dần địa vị độc tôn. Khi vào tới Nam Bộ, Nho giáo đã nhạt dần, lại tồn tại trong bối cảnh cư dân vốn là những người nghèo khó, ít học, “nói lý luận là buồn ngủ” (Sơn Nam), nên không có ảnh hưởng chi phối như ở các làng Bắc Bộ. Nho giáo cũng không có ảnh hưởng sâu sắc đến tế bào xã hội – gia đình, điều đó được thể hiện trong quan niệm sinh con cái, trong hôn nhân gia đình. Trong bối cảnh như thế chế độ tông pháp cũng không có những điều kiện để phát triển, khi quan hệ láng giềng đã thay thế quan hệ dòng họ (tứ hải giai huynh đệ).

     Làng và quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ đã và sẽ còn tồn tại gắn bó với họ và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Nhưng làng và quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ đã có những thay đổi so với làng và quan hệ dòng họ của người Việt Bắc Bộ. Cùng với thời gian làng và quan hệ dòng họ của người Việt Bắc Bộ cũng đã có những đổi thay. Nhưng ở Nam Bộ chính môi trường tự nhiên và xã hội ở vùng đất mới tác động đến mọi mặt của người lưu dân, tạo nên những sắc thái địa phương, hình thành vùng văn hóa Nam Bộ – văn minh miệt vườn, văn minh sông nước. Nhưng sự phát triển đó diễn ra theo quy luật tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa người Việt.

—o0o—-

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Nguyễn Công Bình và các tác giả: Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

2) Nguyễn Công Bình và các tác giả: Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.

3) Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Nxb. ĐHQG chúng tôi 2008.

4) Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb.Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1996.

5) Condominas G.: Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1998.

6) P. Gourou: Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (bản dịch), Nxb. Trẻ, 2003.

8) Diệp Đình Hoa: Tìm hiểu làng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

9) Diệp Đình Hoa: Làng Nguyễn –Tìm hiểu làng Việt II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.

10) Nguyễn Văn Huyên: Văn minh Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2005.

11) Vũ Khiêu: Gia đình Nho giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.

12) Vũ Tự Lập và các tác giả: Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.

13) Ngô Văn Lệ: Vài nét về công xã nông thôn ở Đông Nam Á, trong sách Đông Nam Á: Những vần đề văn hóa – xã hội, Nxb. ĐHQG Tp. HCM, 2000.

14) Ngô Văn Lệ: Công xã Đông Nam Á – thống nhất trong đa dạng, Nxb. ĐHQG chúng tôi 2000.

15) Ngô Văn Lệ: Làng Việt Nam Bộ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. ĐHQG Tp. HCM, 2003, trg.82-96.

16) Ngô Văn Lệ,(2003), Về quan hệ dòng họ của người Việt ở ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. ĐHQG chúng tôi 2003, trg.97-109.

17) Leopold Cadiere: Văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1997.

18) Huỳnh Lứa và các tác giả: Lịch sử khai hoang vùng đất Nam Bộ, chúng tôi 1987.

19) Huỳnh Lứa: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

20) Trần Thị Thu Lương: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb. Tp. HCM, 1994.

22) Sơn Nam: Văn minh miệt vườn, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1992.

22) Philippe Papin – OlivierTessier (Chủ biên): Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, Hà Nội, 2002.

23) Nguyễn Hồng Phong: Xã thôn Việt Nam, Nxb. Sử-Địa, Hà Nội, 1958.

24) Nguyễn Hồng Phong: Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998.

25) Nguyễn Hồng Phong: Một số vấn đề về hình thi kinh tế-xã hội, văn hóa và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

26) Nguyễn Phương Thảo: Văn hóa dân gian Nam Bộ – những phác thảo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.

27) Trần Từ: Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền Bắc Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, 1984.

28) Viện Sử học: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

29) Viện Sử học: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

30) Viện Sử học: Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

[1] Theo số liệu điều tra dân số năm 1989 người Việt chiếm 86,8% dân số cả nước, 53 tộc người còn lại chiếm 13,2%.

Theo số liệu điều tra dân số năm 1999, người Việt chiếm 86,2% dân số cả nước,53 tộc người còn lại chiêm13,8%. Dẫn theo Đặng Nghiêm Vạn, 2003: Cộng đồng quốc gia các dân tộc Việt Nam, NXB Đại học Quốc chúng tôi trang 213.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 9-10.

[3] Nguyễn Hồng Phong: Xã hội Việt Nam (1958),

Viện Sử học: Nông dân Việt Nam trong lịch sử (2 tập 1977, 1978)

Diệp Đình Hoa, Tìm hiểu làng Việt (1990); Làng Nguyễn, Tìm hiểu làng Việt (1994).

Trần Từ, 1984: Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền Bắc Bộ..

Bùi Xuân Bính: 1985: Lệ làng phép nước.

P. Gourou, 2003: Người Nông dân châu thổ Bắc Kỳ, NXB Trẻ.

[4] Địa chí Đồng Nai (2001), Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, trg.118-120. Địa chí Tiền Giang(2005), trg.801-803.

[5] Viện Dân tộc học, 1984: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Nam), NXB KHXH

[6] Nguyễn Văn Huyên, 2005: Văn minh Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, trang 117-118.

[7] Dẫn lại, Diệp Đình Hòa, 1994: Làng Nguyễn tìm hiểu làng Việt II, NXB KHXH, trang 13.

[8] Địa chí Đồng Nai, Nxb.Tổng hợp, trg.119.

Toan Anh, 1992: Nếp cũ, Làng xóm Việt Nam, Nxb Tp. HCM, trang 34 – 36.

[9] Nguyễn Văn Huyên, sđđ, trang 121.

[10] Địa chí Tiền Giang, 2005, trang 300 – 302, 384 – 388.

[11] Nguyễn Văn Huyên, sđđ, trang 119.

[12] Địa chí Tiền Giang, sđđ, trang 375.

[13] Nguyễn Hồng Phong, Xã thôn Việt Nam, NXB Văn – Sử – Địa, 1958, trang 127.

[14] Lê Hương, Người Việt gốc Miên, Sài Gòn, 1969.

[15] Phạm Minh Đức, Những làng văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc ở Thái Bình, NXB Văn hóa – thông tin, 2006.

Nguyễn Văn Huyên, sđđ, trang 124.

[16] Lê Trung Hoa (Chủ biên), Từ điển địa danh Tp Sài Gòn – Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, 2003.

[17] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 254 – 260.

[18] Nguyễn Văn Huyên, sđđ, trang 254 – 260.

[19] Toan Anh, sđđ, trang 32-34.

[20] Diệp Đình Hoa (Chủ biên), Tìm hiểu làng Việt, NXB KHXH, 1990, trang 20 – 21.

[21] Địa chí Tiền Giang, sđđ, trang 801 – 803.

[22] Viện sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử.

[23] Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, NXB Văn hóa – Thông tin, 1996, trang 179.

[24] 5 Nguyễn Đổng Chi, Vài nhận xét nhỏ về sở hữu của làng xã ở Việt nam trước CM tháng 8, (trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử), sđđ, trang 55.

[25] Trần Thị Thu Lương, Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Tp Hồ Chí Minh, 1994, trang 179 – 181.

[26] Nguyễn Phương Thảo, sđđ, trang 16 – 17.

[27] Viện sử học, Nông thôn việt Nam trong lịch sử, NXB KHXH, 1978.

[28] Nguyễn Văn Huyên , Văn minh Việt Nam, NXB Hội nhà văn, 2005.

Toan Anh, Nếp cũ, Làng xóm Việt Nam, NXB chúng tôi 1992.

[29] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 169 – 268.

[30] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 169 – 268.

[31] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 186 – 253.

[32] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 234 – 235.

[33] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 236 – 237.

[34] Trần Thị Thu Lương, sđđ, trang 142 – 176.

[35] Sơn Nam, Văn minh miệt vườn, NXBVăn hóa, 1992

[36] Trần Thị Thu Lương, sđđ, trang 46 – 190

[37] Luật hôn nhân và gia đình, 2000

[38] Nguyễn Từ Chi, sđđ, trang 190

[39] Gerald.C.Hukey, 1960, Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam, xã hội học.

[40] Gerald.C.Hukey, sđd, trang 77.

[41] Nguyễn Từ Chi, sđd, trang 192

[42] Ngô văn Lệ, 2003, Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở nam Bộ và Đông Nam Á, NXB Đại học quốc gia, trang 106.

[43] Gerald. C. Hukey, sđđ, trang 85.

[44] Các làng Việt Nam Bộ thông thường có hàng chục dòng họ. Tài liệu điền dã của chúng tôi tại ấp Danh Coi, xã Đông Hưng B và ấp Phát Đạt xã Vân Khánh Tây (An Minh – Kiên Giang) cho kết quả sau. Ap Danh Coi có 102 hộ có 23 họ, ấp Phát Đạt có 327 hộ có 27 họ. Trong đó làng Mộ trạch họ Vũ chiếm 82,8% dân số, 14 họ còn lại chiếm 17,2% dân số. Philippe Papin Olivier tessier (chủ biên), 2002: Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ, Trung tâm KHXH & NV quốc gia, trang 251.

[45] Nguyễn Từ Chi, sđd, trang 179, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, sđđ, trang 97-126, trang 94-95.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam – Cách tiếp cận nhân học”, Bà Rịa – Vũng Tàu, 12-2007

Ban Tu thư ( chúng tôi )

Bức Tranh Toàn Cảnh Về Văn Hóa Làng Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ

2. Khái niệm văn hóa làng vùng đông băng Bắc Bộ

Nói đến văn hóa là nói đến những “nét riêng biệt” có tính đặc trưng, tức là cái hồn, cái chất của một người, một vùng miền hay một dân tộc. Văn hóa bộc lộ tư duy, tình cảm của con người và biểu hiện ở quan niệm sống, hành vi ứng xử của họ. Với Việt Nam nói chung, đồng bằng Bắc bộ nói riêng, cái hồn này thể hiện trong văn hóa làng.

Làng vốn là một từ thuần Việt, dùng để chỉ một cộng đồng dân cư được hình thành trên cơ sở liên hiệp tự nguyện giữa những người nông dân lao động trên con đường chinh phục tự nhiên từ mấy thiên niên kỷ trước, quá trình hàng nghìn năm đấu tranh chống xâm lược để giữ gìn môi trường sản xuất và sinh hoạt của con người nơi đây. Vậy điều gì đã làm cho làng có sức mạnh bền vững và dẻo dai như thế? Đó là văn hóa làng. Văn hóa làng chính là hằng số đồng hành cùng người dân qua những thăng trầm của đất nước. Khẳng định vị trí của làng trong việc hình thành nền văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Từ Chi viết: “Làng là tế bào sống của xã hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên tìm hiểu xã hội Việt nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung, trong sức năng động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu hiện văn hóa, cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó” [4, tr.177].

Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất nằm giữa lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã, nơi tụ cư lâu đời nhất của người Việt (Kinh). Trong quá trình chinh phục tự nhiên và chống xâm lược, người dân ở đây đã sống quần tụ thành làng. Xét về hình thức, làng là một điểm tụ cư, nhưng thực chất nó là một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp. Một mặt, nó được hình thành trên cơ sở nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc, mặt khác, nó là mẫu hình xã hội phù hợp đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy [10, tr.108].

Văn hóa làng là bầu không khí quen thuộc mang sinh khí mạnh mẽ mà người nông dân hít thở hàng ngày. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ là hệ thống những quan niệm, chuẩn mực đạo đức, hành vi được hình thành trong quá trình tổ chức, giữ gìn cuộc sống của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được bộc lộ trong lối sống, phong tục, tâm tính con người, trong kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng – tôn giáo, hương ước… Nó thể hiện ra ở đình, chùa, miếu, lũy tre, cây đa, bến nước,… Những yếu tố vật thể và phi vật thể trên không đứng đơn lập mà hòa quyện vào nhau, tích hợp lại thành bản chất, đặc trưng văn hóa làng, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo ra những ảnh hưởng không chỉ trong xã hội truyền thống mà còn ở xã hội hiện đại, không chỉ ở nơi thôn quê mà tràn ra cả đô thị.

Văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ khác biệt so với văn hóa làng các vùng khác trong cả nước vì hai lý do sau: Thứ nhất, đây là vùng văn hóa hình thành đầu tiên của cả nước. Ngay từ thuở sơ khai, đây là vùng đất đai trù phú, từng là cái nôi của Văn hóa Đông Sơn thời thượng cổ, Văn hóa Đại Việt thời trung cổ với những thành tựu rất phong phú về mọi mặt. Cùng với lịch sử mở cõi của dân tộc, nó cũng là cội nguồn của văn hóa Việt ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ sau này. Thứ hai, văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ là tế bào cơ bản, là tấm gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc chỉ là sự mở rộng và nâng cao của nền văn hóa xóm làng của vùng. Điều kiện sinh thái và dân số là một lý do cơ bản làm cho làng đồng bằng Bắc Bộ chặt chẽ hơn những nơi khác. Do đó, bản chất văn hóa làng được hình thành, bộc lộ cũng đậm nét hơn các vùng còn lại của Việt Nam.

3. Những đặc trưng của văn hoá làng vùng đồng bằng Bắc Bộ

Đồng bằng Bắc Bộ chính là cái nôi hình thành văn hoá Việt Nam và hiện nay vẫn là nơi mà văn hóa Việt Nam bảo lưu nhiều giá trị truyền thống. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều đặc trưng, trong đó theo chúng tôi có 3 đặc trưng nổi bật là tính cộng đồng, tính tự trị và tính dung hợp trong tư duy.

Đây là đặc trưng cơ bản nhất của của văn hóa làng đồng bằng Bắc Bộ. Cộng đồng là một tổ chức của nhiều cá thể. Tính cộng đồng có thể hiểu là sự liên kết các thành viên trong làng với nhau; trong sự liên kết đó mỗi người đều hướng tới những người khác trong tập thể, ứng xử của mỗi người thường theo các tiêu chuẩn mà cộng đồng đó quy định.

Chế độ ruộng công là cơ sở kinh tế cho tính cộng đồng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ. Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa. Ở các làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hầu như làng nào cũng có ít nhất một trong ba biểu tượng này. Đình là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện: hành chính, hội họp; văn hóa, tôn giáo và tình cảm. Bến nước (giếng nước) là chỗ hàng ngày mọi người gặp nhau, vừa làm việc vừa chuyện trò. Cây đa hoặc cây si, cây gạo ở đầu làng, bên cạnh là quán nước của các cụ già là nơi tập trung sự giao lưu của dân làng với khách thập phương [15, tr.98]…

Tính cộng đồng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ thể hiện trong cơ cấu tổ chức xã hội nông thôn theo nhiều nguyên tắc, cơ sở khác nhau: cơ sở huyết thống (gia đình, dòng họ); địa bàn cư trú (xóm, làng), trong đó có theo nghề nghiệp, sở thích (phường, hội), theo truyền thống nam giới (giáp);… Trong các mối quan hệ đó, mỗi người đều tìm thấy vị trí của mình trong cộng đồng.

Tinh thần cộng đồng thể hiện tiêu biểu trong quan hệ huyết thống là gia đình và dòng họ. Người Việt, đặc biệt ở đồng bằng Bắc Bộ, rất coi trọng gia đình. Mỗi người trong gia đình trước hết sống vì nghĩa vụ và trách nhiệm với những thành viên, đồng thời, họ lấy gia đình làm nòng cốt để tạo lập kỷ cương xã hội. Với ý nghĩa đó, gia đình Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ vừa là đơn vị sinh hoạt, đơn vị kinh tế, cũng là đơn vị giáo dục và là tế bào của xã hội.

Nếu gia đình tái sản xuất đời sống con người và góp phần tái sản xuất đời sống xã hội thì dòng họ là một tổ chức xã hội có tính huyết thống xuất hiện sớm, tồn tại phổ biến trong các làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những Nghiên cứu khoa học cho thấy, dòng họ là một kiểu quan hệ khá độc đáo của vùng này. Tính cộng đồng dòng họ của người Việt thể hiện ở chức năng của dòng họ đối với mỗi thành viên và đối với xã hội. Với quan niệm “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, người trong họ tự coi mình có trách nhiệm cưu mang nhau về mặt vật chất (sẩy cha còn chú,…); hỗ trợ nhau về mặt trí tuệ (nó lú nhưng chú nó khôn). Đồng thời, dòng họ còn có chức năng tôn giáo với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Vào những ngày chuẩn bị giỗ, tết,… mọi người “góp giỗ” và tập trung lại bàn bạc việc cúng tế tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên. Như vậy, sức mạnh của dòng họ thể hiện trước hết ở tinh thần đùm bọc, đoàn kết, yêu thương nhau giữa các thành viên, giữa các thế hệ.

Tính cộng đồng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ thể hiện trong quan hệ theo địa bàn cư trú (xóm, làng). Những người sống gần nhau có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau, sản phẩm của lối liên kết này tạo ra xóm, làng. Cộng đồng xóm, làng bổ sung hữu hiệu và kịp thời cho người nông dân trong việc đồng áng, trong đời sống vật chất và tinh thần. Do vậy, bên cạnh quan hệ huyết thống, người dân cũng sống theo quan niệm “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.

Tính cộng đồng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ thể hiện tiêu biểu qua việc thờ Thành hoàng làng và tổ chức lễ hội hàng năm. Đối với dân làng, “Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hi vọng chung của cả làng, lại cũng là một thứ quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho làng thành một đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt chẽ” [1, tr.248]. Ngày giỗ Thành hoàng, người làng dù ở đâu cũng muốn tìm đường về chịu lễ. Như vậy, qua việc thờ vị thần chung, cả cộng đồng làng cố kết lại trên cơ sở cái thiêng vô hình.

Cùng với lễ là hội. Người Việt có câu, “tháng Giêng là tháng ăn chơi”, tức là tháng của hội hè. Hàng năm ở đồng bằng Bắc Bộ có hàng trăm lễ và hội khác nhau. Lễ, hội là dịp để dân làng tập trung lại tổ chức biểu diễn văn nghệ và thể thao dân gian. Cùng với lễ, hội thì tết, hiếu, hỉ,… được tổ chức liên miên đã làm cho dân làng luôn bận rộn, cuốn hút, hòa vào cộng đồng, dù tốn kém cũng phải chịu. Do vậy, các loại lễ hội cũng góp phần tăng cường mối đoàn kết tương thân. Có thể nói, đặc trưng tính cộng đồng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ không chỉ tìm thấy trong đời sống kinh tế, xã hội mà còn thể hiện rõ trong đời sống tinh thần. Tuy vậy, tính cộng đồng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tiểu nông, khép kín, không khoa học, nên cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất là sự thủ tiêu ý thức về con người cá nhân, con người bị hòa tan vào cộng đồng, thậm chí lệ thuộc vào cộng đồng theo kiểu “cùng hội cùng thuyền”. Khi giải quyết công việc thì “dĩ hòa vi quý”. Do đó, nó tạo ra tâm lý ỷ lại “cha chung không ai khóc”, không phát huy được năng lực sáng tạo của mỗi người. Đồng thời nó sinh ra tâm lý sống an toàn “nước nổi thì thuyền nổi” và thói cào bằng, đố kỵ “trâu buộc ghét trâu ăn”. Mặt khác, trong một cộng đồng mọi người đều nghèo khổ, cùng chịu cảnh “thấp cổ bé họng” từ đời này qua đời khác dẫn đến quan niệm xem thường lao động chân tay, khát vọng đổi đời, háo danh, khôn vặt, xu hướng sùng bái cá nhân, óc tôn ti gia trưởng khá nặng nề.

Nói đến văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ không thể không nói đến tính tự trị, tự quản, tức là “tự điều chỉnh – tự điều khiển của làng trong quá trình vận động của kinh tế – xã hội, ít chịu sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền bên trên” [6, tr.87]. Điều đó có nghĩa là, làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến.

Khẳng định tính tự trị của làng Việt truyền thống, Phạm Văn Đồng nhận định: “trong lịch sử lâu đời của dân tộc, làng. có tính đẳng cấp phong kiến”. Hay Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer cũng cho rằng: “mỗi làng xã. là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương” [15, tr.97]. Có thể nói, làng ở đồng bằng Bắc Bộ có tính tự quản cao, nhìn chung, mỗi làng là một đơn vị hành chính tương đối độc lập được quản lý chặt chẽ trong một kết cấu xã hội phân tầng theo chức tước, theo khoa mục, theo tuổi tác, theo trật tự thân tộc.

Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre và cổng làng. Mỗi làng ở đồng bằng Bắc Bộ xưa thường có lũy tre bao bọc khiến làng như một thứ thành lũy kiên cố. Cùng với lũy tre là cổng làng. Trước đây vào làng rất khó, nhiều khi chỉ có một lối đi vào duy nhất là qua cổng làng, cổng được làm chắc chắn, bên trên có mảnh chai làm vũ khí tự vệ, hai bên đường có ao. Từ xa xưa, làng Việt đã được bảo vệ một cách có ý thức. Ngày nay, tình hình an ninh đảm bảo hơn, lũy tre đã dần vắng bóng, nhiều cổng làng đã biến mất nhưng ý thức tự trị trong tư duy con người thì vẫn còn lưu lại.

Tính tự trị của làng Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã có từ xa xưa. Trong lịch sử lâu dài của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng như thời Pháp thuộc, bộ máy cai trị luôn tìm cách xoá bỏ đặc trưng này của làng, tuy nhiên họ luôn phải lùi bước. Tính tự trị của làng thể hiện ở việc: mỗi làng có một luật pháp riêng (thể hiện qua hương ước), có một tiểu triều đình riêng, trong đó hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là cơ quan hành pháp.

Tính tự trị của làng được biểu hiện ở lệ làng. Lệ làng là những quy tắc ứng xử trong đời sống xã hội và tín ngưỡng đòi hỏi dân làng phải tuân theo. Lệ làng có thể được chép thành văn bản, được gọi là hương ước.

Hương ước là công cụ tự quản. Sở dĩ như vậy bởi chức năng của hương ước là tạo ra sự cưỡng chế cộng đồng. Hương ước như một bộ luật của làng, quy định chuẩn mực ứng xử, nghĩa vụ của mỗi thành viên đối với làng và đối với nhau. Hương ước do những người có trách nhiệm (hay được ủy nhiệm) trong làng thảo ra, được dân chúng nhất trí. Ở đồng bằng Bắc Bộ trước đây, hương ước khá phổ biến. Theo thống kê của sách Thư mục hương ước Việt Nam thời kỳ cận đại (1991) thì các tỉnh miền Bắc đều có hương ước, có tỉnh có tới vài trăm hương ước.

Nội dung hương ước đề cập đến đầy đủ các mặt đời sống của người nông dân (như: tế tự, xác định tôn ti, tổ chức quản lý làng, bảo vệ trị an, bảo vệ sản xuất, khuyến khích học hành, giữ gìn nếp sống…) với những quy định về khen thưởng, trừng phạt khá chặt chẽ. Hương ước nhằm ràng buộc con người để duy trì trật tự chung của làng. Nó tạo ra thế mạnh của của cộng đồng bằng hai con đường: vừa kiểm soát hành vi ứng xử của mỗi thành viên trong cộng đồng, vừa quy định trách nhiệm cho cộng đồng kiểm soát các thành viên. Như vậy, hương ước đã giúp cho bộ máy quản lý làng xã có cơ sở để quản lý cộng đồng cư dân.

Hương ước chỉ là một mặt của tính tự trị, có khi không phải là mặt chủ yếu. Mặt chủ yếu là ở kết cấu chính quyền. Từ thời nhà Lý, kết cấu chính quyền làng xã bắt đầu được nhà nước phong kiến quan tâm với việc đặt ra các chức quan cai trị. Nhưng cuối cùng nhà nước phải lùi bước, vừa đặt chức quan của mình, vừa công nhận quyền lực của những người được dân làng tự bầu ra. Đến thời Pháp thuộc, kết cấu chính quyền làng tiếp tục được thừa nhận và mang tính hệ thống hơn.

Từ thời Pháp thuộc, dân chính cư trong làng được chia thành 5 hạng: chức sắc (người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm), chức dịch (người đang làm việc trong làng, xã), lão (người già), đinh (trai tráng), ti ấu (trẻ con). Hai hạng trên cùng và một phần hạng thứ ba tạo thành một bộ phận gọi là quan viên hàng xã. Quan viên hàng xã thường lại chia thành ba nhóm: kì mục (hội đồng kì mục), kì dịch (lí dịch) và kì lão. Kì lão là những người cao tuổi trong làng, tuy không phải là quan nhưng lại có quyền tư vấn cho hội đồng kì mục. Hội đồng kì mục do tiên thứ chỉ đứng đầu có trách nhiệm bàn bạc tập thể và quyết định các công việc của xã. Lí dịch thường do hội đồng kì mục cử ra, có nhiệm vụ thi hành mọi quyết định của Hội đồng kì mục [15, tr.95]. Trực tiếp làm việc với dân, với quan trên là lí dịch. Lí dịch quản lí ba hạng dân bên dưới, đó là lão, đinh và ti ấu. Đứng đầu ban lí dịch là lí trưởng (hay xã trưởng); dưới là phó lí (giúp việc), hương trưởng (lo việc công ích) và trương tuần (hay xã tuần, lo việc an ninh). Phương tiện quản lí chủ yếu của lí dịch qua hai loại sổ: sổ đinh quản lý về nhân lực (trai đinh) và sổ điền quản lý về kinh tế (ruộng đất).

Cách thức tổ chức bộ máy hành chính làng ở đồng bằng Bắc Bộ như trên đã được hình thành dần dần như một sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển văn hóa dân tộc. Chỉ sau Cách mạng tháng Tám, phong trào cải cách ruộng đất và hợp tác hóa thì việc quản lý làng ở đồng bằng Bắc Bộ mới có sự thay đổi căn bản.

Như vậy, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ trong truyền thống là một đơn vị xã hội (có nơi là đơn vị hành chính) mà người nông dân và các thành phần khác tập hợp lại tạo thành sức mạnh cộng đồng có tính tự quản khá sâu đậm. Trong đó, nếu tính cộng đồng nhấn mạnh đến sự đồng nhất thì tính tự trị chú trọng sự khác biệt. Tính tự trị là cơ sở để tạo nên tinh thần tự lập trong cộng đồng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong duy trì cuộc sống, giữ gìn bản sắc văn hóa, trong chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Tuy vậy, nó cũng có những hạn chế nhất định: Một là, “nếp làng” tạo ra tâm lý khép kín, cộng với thói nhòm ngó đã hình thành óc tư hữu, ích kỷ “ai có thân người nấy lo”. Hạn chế này dẫn đến việc nảy sinh tư tưởng địa phương chủ nghĩa khá nặng nề “trống làng nào làng nấy đánh”. Hai là, thói quen điều khiển đời sống xã hội bằng tục lệ và dư luận khiến cho việc tổ chức xã hội theo pháp luật rất khó khăn, tệ “đi cửa sau”, hay “một người làm quan cả họ được nhờ”… Hậu quả là, phép nước không được nghiêm minh, hiệu lực pháp luật bị giảm nhẹ.

3.3. Tính dung hợp trong tư duy

Cùng với tính cộng đồng, tính tự trị, người dân ở đồng bằng Bắc Bộ còn mang tính dung hòa, dung hợp trong tư duy. Nhà văn hóa Đào Duy Anh từng nhận xét: về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường (…) não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hóa thì rất tài” [1, tr.23].

Vì sao người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ mang trong mình tư duy dung hợp? Vấn đề này có thể được giải thích ở khía cạnh xã hội và nhận thức. Do nghề trồng lúa nước trong điều kiện khoa học chưa phát triển nên để thu hoạch được sản phẩm, cùng một lúc con người phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Từ đó về mặt nhận thức, họ hình thành lối tư duy tổng hợp, coi trọng các mối quan hệ hơn các yếu tố riêng rẽ. Về mặt xã hội, đồng bằng Bắc Bộ là vùng có kết cấu xã hội đa dạng, đã từng trải qua nhiều thăng trầm lịch sử… Điều đó làm cho con người ở đây có khả năng thích nghi cao với mọi biến động. Từ những năm 40 của thế kỷ XX, P.Gourou đã nhận xét rằng: tất cả những ai quan sát cách làm ăn của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ “đều phải thán phục sự thích nghi mềm dẻo và sự quan sát của người nông dân” [12, tr.50].

Có thể nói, người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ có sự dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó; họ rất linh hoạt, uyển chuyển, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Với người nông dân, triết lý sống của họ là: ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.

Do vậy, trong ứng xử với tự nhiên, người dân quan niệm “mùa nào thức nấy”, sống hài hòa với tự nhiên. Trong ứng xử xã hội, người dân đồng bằng Bắc bộ từ xa xưa thường phải đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược nhưng họ luôn hiếu hòa. Ngay cả lúc phải chiến đấu, mỗi khi thế thắng cha ông ta thường dừng lại, “trải chiếu hoa” cho giặc về, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự.

Tính dung hợp trong tư duy đời sống tinh thần được thể hiện ở tinh thần khoan dung tôn giáo, tinh thần hoà nhập, học tập tiếp thu những giá trị văn hoá bên ngoài trên cơ sở những giá trị văn hoá bản địa.

Tinh thần khoan dung tôn giáo của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện đậm đặc trong việc tiếp nhận Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo nước ngoài được du nhập vào đồng bằng Bắc Bộ khá sớm và được người dân tiếp nhận một cách dễ dàng. Tư tưởng từ bi, bác ái, ở hiền gặp lành của Phật giáo đã cuốn hút các tầng lớp nhân dân. Đa phần các làng ở đồng bằng Bắc Bộ đều có chùa thờ Phật. Dân làng nào cũng tin Phật, họ thường đi trẩy hội chùa ở nơi khác hoặc đi lễ ở chùa gần nhất.

Tính bao dung tôn giáo thể hiện ngay trong một ngôi chùa ở đồng bằng Bắc Bộ. Ở nhiều nơi, tín ngưỡng Phật với tín ngưỡng dân gian bản địa được thờ hỗn hợp trong chùa (tiền Phật hậu thần, hay ngược lại). Hiện tượng tín ngưỡng dung hợp này phản ánh tư duy bao dung của người Việt.

Bên cạnh đình và chùa, làng quê Bắc Bộ còn có miếu, quán, nhà thờ… Tuy vậy, các tôn giáo, tín ngưỡng này ở đồng bằng Bắc Bộ cùng song song tồn tại, nhiều khi bổ sung, hỗ trợ nhau. Trong lịch sử, người ngoại quốc khi đến Việt Nam thường chê dân ta có tín ngưỡng hỗn độn. Thực chất, người dân đồng bằng Bắc Bộ chấp nhận một cách khoan dung bất cứ tín ngưỡng, tôn giáo nào mà giáo điều không đi ngược lại căn bản đạo đức dân tộc. Trong những trường hợp cụ thể, giáo lý của những tôn giáo này lại phải thay đổi cho phù hợp với truyền thống dân tộc. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, tinh thần khoan dung là rất đáng quý. Đó là cơ sở để thực hiện một trong mục tiêu “cùng chung sống” trong xã hội hiện đại.

Tuy nhiên, tính dung hòa trong tư duy của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng có hạn chế nhất định: tác phong ăn xổi, tùy tiện, phong cách làm việc không kế hoạch, tật co giãn giờ giấc, thiếu tác phong công nghiệp. Văn hóa làng Việt vốn mang tính mềm dẻo, nhưng nhiều khi có xu hướng thái quá: “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”. Nhìn ra thế giới, chúng ta dễ nhận thấy hậu quả của hạn chế này đối với cuộc sống cá nhân và sự phát triển của xã hội.

4.Kết luận

Trong lịch sử phát triển lâu dài, vùng đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành nhiều đặc trưng văn hóa làng độc đáo. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ có vai trò đặc biệt không chỉ với quá khứ mà với cả hiện tại. Trong sự nhận thức mới về vai trò của nông nghiệp và nông thôn, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nông thôn sẽ chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa của con người. Làng quê Việt Nam hiện đại trong viễn cảnh là nơi nuôi dưỡng tinh thần và làm phong phú đời sống tâm hồn người Việt. Tuy nhiên, văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng mang trong mình những nét tiêu cực nhất định cần phải khắc phục. Trong điều kiện hiện nay, khi sự phân biệt giữa các dân tộc dần được đo bằng sự phát triển của văn hóa, thì việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa làng, cần được quan tâm hơn nữa từ nhiều phía. Điều đó không chỉ có tác dụng trong hiện tại, mà còn có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững vì tương lai.

[1] Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. [2] Toan Ánh (1999), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. [3] Toan Ánh (2000), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua Lễ – Tết – Hội hè, Nxb Thanh niên, Hà Nội. [4] Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. [5] Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] Đinh Xuân Dũng (Chủ biên) (2005), Xây dựng làng văn hóa ở đồng bằng Bắc Bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8] Phạm Xuân Đại (2014), “Xóm ở làng quê Bắc Bộ qua các thời kỳ lịch sử”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (81). [9] Lê Thị Lan (2023), “Tư tưởng làng xã ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 3 (88). [10] Vũ Tự Lập, Đàm Trung Phường (1991), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [11] Vũ Duy Mền (Chủ biên) (2001), Hương ước làng xã Bắc bộ Việt Nam với luật làng KanTo Nhật Bản (Thế kỷ XVII – XIX), Nxb Viện Sử học, Hà Nội. [12] Nhiều tác giả (2008), Nông dân, nông thôn và nông nghiệp những vấn đề đặt ra, Nxb Tri thức, Hà Nội. [13] Phan Thanh Tá (2012), Văn hóa cổ truyền trong làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội. [14] Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (2005), Phong tục làng xóm Việt Nam, Nxb Phương Đông. [15] Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [16] Nguyễn Huy Thông (Chủ nhiệm chương trình) (1991), Thư mục hương ước Việt Nam: Thời kỳ cận đại, Nxb Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. [17] Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Theo TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Tags: Văn hóa Việt, Nông thôn, Đồng bằng sông hồng