Sự Khác Nhau Trong Đời Sống Văn Hóa – Xã Hội Giữa Mỹ Và Việt Nam

Văn hóa xã hội Việt và Mỹ nói chung là khác nhau 180 độ, có những nét khác nhau lớn đến nỗi chúng ta khó chấp nhận, nhưng cũng có những nét chúng ta nên hiểu, nên biết để mở rộng tầm nhìn và hoà đồng dễ hơn vào môi trường sống mới. Do đó cách nhanh nhất để hòa nhập và vượt qua cú shock văn hóa trong môi trường học tập mới chính là trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về văn hóa, xã hội và con người nước bạn.

Mỹ là quốc gia đông dân và đa dạng về chủng tộc. Thật khó để có thể miêu tả về một người Mỹ điển hình. Bởi xã hội Mỹ được tạo nên từ những con người đến từ nhiều quốc gia với những đa dạng về chủng tộc văn hóa, xã hội, hoàn cảnh kinh tế và cả vấn đề nhân sinh quan.

Tại Mỹ, sự độc lập và tự chủ luôn được ưu tiên. Trước hết, họ tự hào về tính cá nhân và sự khác biệt của mình. Mặc dù có quan hệ chặt chẽ với gia đình và cộng đồng, song tính cá nhân và nhân quyền là điều quan trọng nhất với họ. Điều này nghe có vẻ giống thái độ ích kỷ nhưng chính nó lại khiến người Mỹ thành thật, biết tôn trọng các cá nhân khác và biết đòi hỏi quyền bình đẳng con người. Ngoài ra, ở người Mỹ, độc lập là một phần của sự đề cao con người trong văn hóa. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em đã được dạy để tự đứng lên trên đôi chân của mình – một sự khởi đầu cho tính độc lập. Đa phần học sinh Mỹ tự chọn lớp học, ngành học cho mình, tự chi trả một phần hay toàn bộ học phí, tự tìm việc, tự lên kế hoạch hôn nhân cho bản thân thay vì ỷ lại vào gia đình.

Đặc biệt, người Mỹ đánh giá rất cao các thành quả mà họ đạt được, vì vậy họ rất hay ganh đua với nhau. Chúng ta có thể tìm thấy những cuộc thi có tính chất giao hữu đồng thời cũng đầy ganh đua ở khắp mọi nơi. Từ cách đùa vui cho đến việc thêm từ vào câu và cách trả lời nhanh, thông minh hóm hỉnh cũng là hình thức ẩn dụ của sự cạnh tranh. Tuy vậy, nhưng người Mỹ cũng luôn thể hiện tính tập thể và sự hợp tác với mọi người trong quá trình làm việc để đạt được mục đích chung. Và một điều quan trọng hơn cả trong xã hội Mỹ, đó là việc đúng giờ. Họ sắp xếp các cuộc hẹn và cuộc sống bản thân theo một thời gian biểu. Họ luôn đến đúng giờ. Đối với sinh viên quốc tế, sinh viên Mỹ dường như luôn vội vàng và lỗ mãng. Nhưng người Mỹ lại luôn đạt hiệu quả cao trong công việc nhờ sự vội vàng này.

Do vậy có thể thấy, văn hoá và phong tục Mỹ có khá nhiều nét khác biệt so với Việt Nam. Có thể điểm qua một số nét khác biệt tiêu biểu sau:

Người Việt chấp nhận việc bi quan hay lạc quan như là chuyện thường tình. Còn người Mỹ lạc quan và xem thường bi quan. Những người có cách nói chuyện bi quan thường bị người khác xa lánh. Trong cách nói chuyện, người Việt thường phải hạ mình xuống như một hình thức khiêm nhường. Còn người Mỹ thì luôn nâng mình lên như là một sự tự tin. Người Việt đặt trọng tâm vào việc hiểu nhau một cách âm thầm tế nhị. Nhưng người Mỹ lại cho rằng nếu anh không nói ra thì tôi không biết được. Vì vậy, trong các cuộc đàm phán hay trong cuộc sống hàng ngày, trong sở làm, người Việt hay nhẫn nhịn chịu đựng một số điều mà họ cho là bất công, hay sai quấy trong khi người Mỹ thì cứ tươi cười hạnh phúc một cách vô tâm. Đặc biệt, người Mỹ có tinh thần trọng luật rất cao, đôi khi trở thành máy móc, cứ đúng luật là được, còn có công bằng hay có tình nghĩa không thì không cần. Ngược lại, người Việt rất chú tâm vào các khuôn mẫu đạo đức chung chung hơn là luật.

Trong việc phát triển tài năng thì ở hai nước cũng có sự khác biệt rõ rệt. Người Mỹ vô cùng chú trọng nên rất thích giao việc cho cấp dưới càng nhiều càng tốt. Nhưng việc thông tin giữa cấp trên và cấp dưới lại rất chặt chẽ để công việc chung của cả nhóm mạnh lên. Đối với các cuộc họp hàng ngày, cấp dưới hay sao gửi cho cấp trên các thư từ, thư điện tử để cấp trên luôn biết mọi chuyện cấp dưới làm. Hơn thế nữa, người Mỹ rất thích đặt câu hỏi, và nếu người đối thoại không đặt câu hỏi thì cho là không quan tâm đến vấn đề hay đến họ. Còn người Việt lại khá ngại hỏi.

Đối với mỗi quan hệ giữa vợ và chồng hay bình đằng giới thì cũng vô cùng khác nhau. Tại Mỹ sự bình đẳng thể hiện khá rõ nét, người chồng và người vợ cũng có trách nhiệm đối với gia đình như nhau. Nhiều khi đàn ông làm các công việc gia đình thậm chí còn nhiều hơn cả phụ nữ, kể cả chăm sóc con cái. Quan niệm về cuộc sống gia đình là cả hai vợ chồng đều cũng phải chia sẻ gánh vác và cùng nhau làm các công việc, nó sẽ giúp cho vợ chồng gắn bó với nhau hơn. Còn ở Việt Nam lại trái ngược lại, người chồng đi làm kiếm tiền là chủ yếu, người vợ đi làm với số lương ít hơn thì hầu như công việc gia đình được giao nghiễm nhiên cho phụ nữ. Anh chồng đi làm về gần như không động tay vào công việc gia đình. Các bữa nhậu vui vẻ với bạn bè, đối tác được cho là làm việc. Nhiều phụ nữ Việt Nam khá vất vả vì vừa phải đi làm, vừa phải chăm sóc con cái, vừa phải lo toan hầu hết các việc gia đình.

Nguyễn Chí Hoàng Anh

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Sự Khác Nhau Giữa Văn Hóa Hàn Và Việt

Bên cạnh quốc gia có nền giáo dục xuất sắc trong khu vực châu Á cũng như luôn đứng top trong các nước có đầu tư cao về giáo dục. Hàn Quốc còn là một quốc gia với nền văn hóa vô cùng đa dạng và phong phú. Việc tìm hiểu văn hóa Hàn trước khi đến du học Hàn Quốc không chỉ giúp bạn hiểu hơn về nơi bạn sắp đến mà còn giúp bạn hòa nhập và không bị “sốc văn hóa” trong những tháng ngày ở Hàn Quốc.

Những thói quen hằng ngày

Sự khác nhau giữa văn hóa Hàn và văn hóa Việt thể hiện qua việc vệ sinh răng miệng, người Hàn thường “ngâm” rất lâu bàn chải đánh răng trong miệng, vừa lục sục chải răng vừa làm việc khác như làm tiếp bài tập, dùng điện thoại hay laptop thậm chí là nói chuyện với người khác. Trong khi đó người Việt coi hành động này là mất lịch sự, chỉ nên làm trong phòng vệ sinh và đi ra ngoài khi đã sạch sẽ tươm tất.

Trong khi đi ăn ở ngoài, người Hàn thường order từng món riêng lẻ, ví dụ ăn xong món thịt nướng mới tiếp tục gọi cơm hoặc mì ăn thêm, không ăn kèm 2 món cùng một lúc và thanh toán ngay tại quầy thu ngân. Người Việt thường kêu nhiều món cùng một lúc, ăn kết hợp với nhau, sẽ gọi nhân viên thanh toán tại bàn.

Bữa sáng ở Hàn Quốc được chuẩn bị sẵn ở nhà, cả nhà quay quần cùng một bàn ăn trước khi bắt đầu một ngày làm việc, học tập. Trái lại, người Việt ít ăn sáng ở nhà, thường mua thức ăn ở ngoài hoặc dừng lại một quán ven đường ăn bánh mì, xôi, khoai luộc, phở, bún, cơm sườn, …

Bữa sáng ở Hàn Quốc được chuẩn bị sẵn ở nhà

Vào ngày nghỉ, người Hàn thường hẹn bạn bè, đồng nghiệp ăn uống ở ngoài hoặc tham gia các hoạt động rèn luyện sức khỏe vào cuối tuần như leo núi, đi bộ, chơi goft. Người Việt sẽ dành ngày nghỉ bên cạnh gia đình nhiều hơn.

Ở Hàn Quốc dễ bắt gặp các cụ già thường đi một mình, hoặc hai cụ cùng đi với nhau, các cụ còn thường tụ họp đi chơi với nhau theo nhóm còn Việt Nam các cụ già thường được con cháu đưa đi.

Việt Nam thì thường có vụ tip, tiền bo trong khi Hàn Quốc không có văn hóa tip, bồi dưỡng cho nhân viên dịch vụ đã tính trong giá dịch vụ rồi, người Hàn quan niệm hành động đưa tiền tip cho nhân viên là hành động thiếu tôn trọng và bất lịch sự.

Đặc điểm về con người

Người Hàn khá thẳng thắn, bộc trực, không ôn hòa như người Việt. Họ thường thể hiện cảm xúc nóng giận vui buồn rõ ngoài mặt, người Việt kín đáo, giỏi che giấu cảm xúc và khá điềm tĩnh hơn.

Hầu như tất cả phụ nữ ở Hàn dù còn trẻ hay già đều thích trang điểm, trang điểm thường xuyên. Các cô gái trẻ thì thường muốn cải thiện vẻ đẹp nên chấp nhận phẫu thuật thẩm mỹ đau đớn. Trong khi người Việt đề cao vẻ đẹp tự nhiên, thường trang điểm vào những dịp đặc biệt hoặc chỉ khi đi làm đi học. Đàn ông Hàn thường được đề cao về tiêu chuẩn lịch lãm, ga lăng, điềm đạm, mày râu nhẵn nhụi. Trong khi đàn ông Việt mạnh mẽ, bề ngoài gai góc, thẳng thắng.

Ở Hàn, nhà thường xây với phong cách khá thấp, nhiều phòng nhỏ, còn Việt Nam xây nhà với tiêu chí “nhà cao cửa rộng”. Người Hàn Quốc không tin tưởng tín ngưỡng như ở Việt Nam, rất ít nhiều theo đạo. Tuy nhiên ở Việt Nam, tôn giáo và tín ngưỡng khá phong phú.

Hàn Quốc thường xây nhà với phong cách khá thấp, nhiều phòng nhỏ

Người Hàn có tính đề cao dân tộc, bảo thủ, bảo hộ thị trường và văn hóa trong nước như các sản phẩm trong nước, không tin tưởng dùng hàng nhập từ nước ngoài. Trong khi người Việt ưa chuộng hàng “ngoại”, suy nghĩ thoáng nên xã hội mang tính hội nhập cao.

Cả hai dân tộc đều có ngày lễ và Tết. Người Hàn trong những ngày này về thăm ông bà cha mẹ theo luật lệ, không ai dám làm trái. Làm luật xong rồi thì về nhà đi chơi, ăn bánh nếp ngọt, nấu mi-yok-kuk, ăn khoảng 4-5 loại món ăn truyền thống như sườn bò xào ngọt, miến ngọt … Nét khác biệt giữa văn hóa Hàn và Việt còn thể hiện ở tính kỷ luật cao, chấp hành nghiêm túc nghĩa vụ của một công dân, thậm chí thanh niên Hàn rất hào hứng và vui mừng khi tham gia nghĩa vụ quân sự.

Văn hóa ăn uống

Ẩm thực Hàn Quốc chỉ gồm 1 đến 2 vị chính và không có nhiều rau thơm như ở Việt Nam. Ở Việt Nam một món ăn có thể kết hợp nhiều gia vị, nguyên liệu và được chế biến theo trình tự và nguyên tắc để đảm bảo độ dinh dưỡng, không sống cũng không quá chín. Trong khi người Hàn Quốc không có bước tẩm ướt nguyên liệu trước khi nấu, họ thường chế biến theo kiểu bỏ cùng một lúc và nấu chín lên.

Người Hàn ăn từng miếng to, ăn nhanh

Bữa ăn của người Hàn thường chỉ có một món chính nhưng có rất nhiều món ăn kèm như các loại kim chi rau dưa. Trong khi người Việt, một mâm ăn có 2- 4 món chính như: món kho mặn, rau luộc hoặc xào, món canh và một chén nước mắm. Người Hàn ăn từng miếng to, ăn nhanh, đó là cách để thể hiện sự biết ơn với người nấu món ăn, để họ biết món ăn đó rất ngon. Còn người Việt ăn uống khá từ tốn, ăn theo cách thưởng thức món ăn.

Người Hàn dùng bàn thấp và ngồi bệt dưới đất, không bao giờ nâng bát lên, họ chỉ thích uống rượu Soju. Người Việt có nhiều loại loại rượu khác nhau, mỗi nhà sẽ có một bình rượu quý để mời khách đến chơi.

Với bài viết, sự giống và khác nhau giữa văn hóa của người Hàn và Việt phần nào giúp cho bạn khám phá cuộc hành trình văn hóa tại xứ Hàn dễ dàng hơn. Nhất là những bạn du học sinh sắp đi du học Hàn Quốc, sẽ nhanh chóng hòa mình với nền văn hóa đó.

Sự Khác Nhau Giữa Đám Cưới Việt Nam Và Mỹ

Mới đây, MC Kỳ Duyên có vài nhận xét về sự khác nhau giữa tiệc cưới ở Mỹ và Việt Nam. Cô viết:

Thêm 3 nét khác biệt giữa đám cưới Mỹ và Việt:

– Khi đứng lên phát ngôn chú rể Mỹ thường nói về cô dâu và cảm xúc cho vợ, chú rể Việt Nam thường nói nặng hơn về công ơn sinh thành của cha mẹ

– Khách Việt Nam đi phong bì và thường giá trị nhiều hơn Mỹ đi quà

– Đám cưới Việt Nam nhiều đồ ăn hơn (9, 10 món thay vì Mỹ chỉ có 3). Nói chung là ngon hơn.

Thực tế, đây chỉ là một số khác biệt trong văn hóa tiệc cưới Mỹ nói riêng và phương Tây nói chung so với tiệc cưới truyền thống Việt Nam. Mỗi nơi đều có đặc trưng riêng, cũng như mỗi nơi đều có những điểm hay, điểm dở. chúng tôi sẽ so sánh 10 điều điểm khác nhau cơ bản để cô dâu chú rể hiểu hơn về văn hóa từng nơi, cũng như học hỏi những điều hay cho đám cưới của mình.

1. Thời gian gửi thiệp mời

– Cô dâu chú rể phương Tây gửi thiệp trước vài tháng để đặt lịch hẹn sớm với khách mời, nên dù khách ở xa vẫn có thể thu xếp về dự tiệc cưới.

– Cô dâu chú rể Việt Nam thường chỉ gửi thiệp cưới trước khoảng 2 tuần, thậm chí có người chỉ mời trước vài ngày. Mời khách quá muộn gây bất tiện vì khách không thu xếp được. Ngoài ra nhiều người khó tính không hài lòng vì rằng mời gấp là không tôn trọng khách. Vì vậy uyên ương nên cân nhắc mời cưới từ sớm.

2. Thời gian tổ chức tiệc cưới

– Tiệc cưới phương Tây thường diễn ra vào buổi tối cuối tuần (dao động từ thứ 6 tới chủ nhật).

– Tiệc cưới ở Việt Nam diễn ra cả buổi trưa hoặc buổi tối, có thể diễn ra vào các ngày trong tuần hoặc cuối tuần tùy theo gia đình đã xem ngày từ trước đó.

3. Tính chất tiệc cưới

– Tiệc cưới phương Tây là dịp gia đình, bạn bè của cô dâu chú rể tụ họp, giao lưu và chia sẻ hạnh phúc cùng uyên ương.

– Tiệc cưới Việt Nam còn mang nặng tính hình thức, nhiều ý kiến còn cho rằng đây là dịp để “trả nợ” nhau bằng tiền mừng, quà mừng.

– Cô dâu chú rể là người chịu chi phí cũng như chịu trách nhiệm tổ chức toàn bộ bữa tiệc đãi khách trong đám cưới phương Tây.4. Người tổ chức tiệc cưới

– Ở Việt Nam, đám cưới không chỉ dành cho uyên ương mà còn do bố mẹ hai bên quyết định phần lớn. Phụ huynh thường đứng ra lo liệu chi phí chính và có quyền quyết định về bữa tiệc.

5. Khách mời

– Số lượng khách trong đám cưới phương Tây thường ít, chủ yếu là bạn bè thân thiết của uyên ương cùng người thân trong gia đình.

– Khách mời trong đám cưới Việt Nam tối thiểu là vài trăm người, thậm chí có đám cưới mời hơn 1.000 khách. Bởi cha mẹ uyên ương là người tổ chức chính, nên phụ huynh muốn mời thêm bạn bè, người quen tới dự tiệc của con cái. Có uyên ương mời cả khách xã giao, chỉ giao thiệp quen biết trong công việc hay chỉ gặp mặt 1-2 lần. Đây là điều còn hạn chế trong đám cưới ở Việt Nam. Điều này cũng làm tăng chi phí tổ chức lên đáng kể. Cô dâu chú rể nên thuyết phục cha mẹ mời ít để đám cưới nhỏ gọn, thân mật. Gia đình chỉ nên mời những người họ hàng, bạn bè thân thiết, khách mời cả hai gia đình nên dưới 300 khách.

6. Thời gian khách tới dự tiệc

– Trong đám cưới phương Tây, khách thường tới từ sớm để dự tiệc. Mỗi khách sẽ được xếp chỗ từ trước và vị trí ngồi sẽ được thông báo trong thiệp.

– Ở Việt Nam, việc khách đến muộn hơn giờ ghi trong thiệp cưới là điều phổ biến. Đây cũng là điều khiến nhiều uyên ương “đau đầu” vì khó sắp xếp chỗ ngồi cũng như tính toán số khách mời.

7. Quà mừng

– Khách mời thường tặng quà cho cô dâu chú rể phương Tây. Bởi khách là những người thân thiết nên có thể hỏi uyên ương trước về quà tặng hoặc họ tự tin chọn quà vừa ý với cặp đôi.

– Khách mời trong đám cưới Việt Nam thường mừng bằng tiền. Vì nhiều khách không thân thiết, không hiểu rõ sở thích uyên ương nên họ hạn chế chọn quà mà thay bằng tiền mừng để cặp đôi tự lựa chọn quà hoặc trang trải cho chi phí đám cưới.

– Đám cưới phương Tây và đám cưới Việt Nam đều có nghi lễ trao nhẫn, cắt bánh cưới, cùng uống rượu mừng.8. Nghi lễ trong tiệc

– Đám cưới phương Tây có một phần không thể thiếu là cô dâu chú rể phát biểu. Cặp đôi thường chia sẻ về câu chuyện tình yêu của hai người và phát biểu những điều về kỷ niệm, về đám cưới.

– Hầu hết uyên ương Việt Nam không phát biểu trong tiệc cưới mà dành phần này cho bố mẹ. Cha cô dâu hoặc cha chú rể sẽ phát biểu cảm ơn khách và mời mọi người dùng tiệc. Gia đình cũng sẽ ít đề cập đến tình yêu của cặp đôi.

9. Ngân sách cho tiệc cưới

– Đám cưới phương Tây thường tiêu tốn nhiều tiền bởi không chỉ chú trọng vào thực đơn, địa điểm cưới mà uyên ương cũng muốn trang trí tiệc lộng lẫy hay thuê wedding planner để lo liệu tiệc chu toàn. Nhiều người còn tổ chức cưới kết hợp du lịch, mời khách tới những thành phố nổi tiếng để dự tiệc.

– Đám cưới truyền thống ở Việt Nam đơn giản hơn nên ngân sách chi phụ thuộc vào khả năng kinh tế của gia đình. Ngoài ra không phải uyên ương nào cũng thuê người tổ chức cưới chuyên nghiệp hay trang trí tiệc cưới cầu kỳ nên chi phí này được cắt giảm.

10. Thực đơn trong tiệc

– Tiệc cưới phương Tây thường chia thành 3 phần, gồm khai vị, món chính và tráng miệng. Số lượng món ăn vì thế cũng không nhiều. Một số đám cưới tổ chức tiệc cưới buffet.

– Tiệc cưới Việt Nam thường có ít nhất 8-12 món với niều món ăn đặc trưng trong các bữa cổ truyền thống.

Theo: ngoisao.net

Đôi Nét Về Văn Hóa Mỹ Và Việt Nam

Mỹ là một quốc gia đông dân, đa dạng về chủng tộc, văn hóa, xã hội,… chính vì thế tạo nên những nét đặc trưng mà không phải quốc gia nào cũng có.

Tính cá nhân: Người Mỹ luôn tôn trọng tự do cá nhân, điều này không có nghĩa là cô lập với cộng động xung quanh mà người Mỹ coi trọng tính cá nhân và độc lập của mỗi người, đảm bảo quyền bình đẳng con người. Đây là một nét đặc trưng trong văn hóa Mỹ.

Tính tự lập: Bên cạnh sự tôn trọng tự do cá nhân thì tính độc lập, tự lập cũng là một nét tiêu biểu của người Mỹ. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em đã được dạy để tự đứng trên đôi chân của mình. Đến khi đi học, phần lớn sinh viên Mỹ sẽ tự chọn ngành học, lớp học thậm chí là tự chi trả một phần hoặc toàn bộ học phí,… Khi ra trường sẽ tự tìm việc, chủ động cho cuộc sống,…

Tình bạn: Bởi tính độc lập của người Mỹ mà tình bạn của họ so với những nền văn hóa khác thường mang tính ngẫu nhiên nhiều hơn. Người Mỹ khá rõ ràng trong phân loại tình bạn như: bạn ở trường học, bạn nơi làm việc, bạn trong độ bóng,… hay bạn trong những mối quan hệ gia đình. Người Mỹ sẽ là một người bạn tốt và chân thành khi họ thấy được thiện ý từ đối phương.

Sự thoải mái: Trong văn hóa người Mỹ thì sự thoải mái luôn được coi trọng. Họ ăn mặc, giải trí và giao tiếp với nhau một cách thoải mái kể cả khi có sự khác biệt về tuổi tác, địa vị xã hội. Sinh viên và thầy cô có thể gọi nhau bằng tên khi giao tiếp (điều này có thể gây bất ngờ cho phần lớn sinh viên quốc tế khi đến đây, nhưng đây lại là một phần của văn hóa Mỹ).

Sự nhiệt tình: Bên cạnh việc thích đặt câu hỏi thì người Mỹ cũng rất nhiệt tình giải đáp những thắc mắc mà người đối diện đưa ra. Vì vậy khi đến Mỹ mà không hiểu vấn đề gì thì bạn cũng đừng ngần ngại khi đặt câu hỏi.

Sự năng động: Mỹ là một đất nước năng động, luôn vận chuyển và biến đổi. Nếu là một người có lối sống bình thản và chậm rãi thì bạn sẽ thấy chóng mặt với nhịp sống của người Mỹ, và bạn sẽ phải mất một thời gian để làm quen với nhịp độ này. Nếu là một người có lối sống năng động thì bạn sẽ rất hứng thú với nhịp sống ở nơi đây.

Không thích sự yên lặng: Ở một đất nước năng động như nước Mỹ tất nhiên người Mỹ cũng không thích sự yên lặng, họ thà nói về thời tiết (nói chuyện về thời tiết được coi là một việc nhàm chán) còn hơn là ngồi im lặng khi giao tiếp.

Coi trọng thành tích: Thành tích được coi là một cách để người Mỹ thể hiện bản thân, họ không ngần ngại khi chia sẻ và được người khác đánh giá những thành tích của mình, đây như là một sự tôn trọng lẫn nhau của người Mỹ. Một ví dụ tiêu biểu đó là sách báo, một bộ phim hay một tác phẩm âm nhạc thường ít được đánh giá dựa vào chất lượng mà dựa trên số lượng được bán ra và lợi nhuận thu được.

Sự cạnh tranh và hợp tác: Người Mỹ thường cạnh tranh với nhau một cách công khai. Khi người nước ngoài đến Mỹ sẽ thấy ngạc nhiên khi thấy sự cạnh tranh xuất hiện ở mọi nơi, mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Bên cạnh đó người Mỹ cũng có tinh thần làm việc nhóm rất cao, sự hợp tác của các thành viên trong nhóm thường mang đến kết quả cao hơn của một cá nhân.

Coi trọng thời gian: Đối với văn hóa nước Mỹ thì đúng giờ là điều cực kỳ được coi trọng. Người Mỹ thích sắp xếp cuộc sống theo một thời gian biểu, họ luôn đúng giờ trong mỗi cuộc hẹn hay trong công việc. Đối với các quốc gia khác thì người mỹ có vẻ luôn vội vã, nhưng việc coi trọng thời gian lại giúp họ đạt được những thành quả cao trong công việc cũng như trong cuộc sống.

Đặt câu hỏi: Khi gặp những người lạ hay sự lạ lẫm thì người Mỹ thường đặt ra nhiều câu hỏi để hòa nhập với nhau. Những câu hỏi có thể vu vơ hoặc cũng có thể là câu hỏi riêng tư, sẽ không cần phải trả lời tất cả những câu hỏi mà bạn cảm thấy khó chịu. Những câu hỏi ở đây chỉ giúp mang lại sự thoải mái hơn trong giao tiếp.

Bị coi là thực dụng: Ở Mỹ, thành công của một người thường được đo đếm bằng số tiền mà người đó kiếm được, hay lượng tài sản mà người đó đang sở hữu. Nhưng khi đã đạt được sự thành công nhất định về mặt vật chất, người Mỹ thường dành thời gian để tìm hiểu những giá trị văn hóa, tinh thần trong cuộc sống.

Tips – phí dịch vụ: Tips là một trong những điểm đặc trưng trong văn hóa của người Mỹ, tiền dịch vụ sẽ không tính cùng hóa đơn do đó khách hàng thường phải trả thêm 10 – 15% tổng số tiền trong hóa đơn cho người phục vụ. Trong nhiều trường hợp thì tiền tips cũng là một khoản thu nhập của người phục vụ.

Văn hóa Mỹ và Việt Nam có gì khác biệt?

Người Mỹ rất coi trọng cái tôi và tính cá nhân trong nhiều mặt của cuộc sống. Họ lạc quan, không ngần ngại ca ngợi bản thân để thể hiện sự tự tin. Người Mỹ không ngại thể hiện quan điểm cá nhân cũng như cạnh tranh trong công việc.

Người Việt khi nói chuyện thường hạ mình xuống như một sự khiêm nhường. Người Việt chấp nhận sự lạc quan hay bi quan như một chuyện thường tình. Người Việt coi trọng sự nhường nhịn vì vậy trong một tập thể dễ bị người Mỹ lấn át. Nhưng cũng chính sự nhường nhịn và lối sống hòa nhập này giúp cộng đồng người Việt sống tình cảm hơn.

Người Mỹ thích đặt câu hỏi và coi đây như một phương thức giao tiếp, họ cũng tôn trọng và trả lời câu hỏi của người đối diện. Còn người Việt thì ngại hỏi, đặc biệt là với người lạ.

Người Mỹ rất hay khen nhau, họ có thể khen nhau về mọi phương diện từ kiểu tóc mới, chiếc áo đẹp, đôi giày thời trang,… Đặc biệt với người lạ thì họ coi lời khen như một cách bắt chuyện và càng được sử dụng nhiều hơn.

Trái lại, người Việt chỉ sử dụng lời khen khi thực sự cần thiết, lời khen nếu được sử dụng quá nhiều sẽ bị cho là khác sáo thậm chí là nịnh nọt hay giả dối.

Đặt vấn đề và giải quyết sự việc

Người Mỹ với tính cách thẳng thắn thường sẽ đi thẳng vào vấn đề. Họ coi trọng kết quả sau cùng, sẵn sàng đối đầu với mọi cản trở để đạt được kết quả nhanh và hiệu quả nhất.

Người Việt thì đề cao sự mềm mỏng, khéo léo nên khi đặt vấn đề thường vòng vo mà không đi thẳng vào vấn đề. Họ không thích xung đột nên có thể chấp nhận đi vòng một chút (có thể tốn thời gian hơn) để đạt được kết quả mà không mất quá nhiều sức lực.

Đối với người Việt Nam, cũng có sự trao đổi giữa sếp và nhân viên, nhưng thường sẽ dừng lại ở việc nhân viên đưa ra ý kiến để cấp trên xem xét, rất ít thấy trường hợp cấp trên và nhân viên tranh luận gay gắt trong công việc. Chính vì vậy hiệu quả công việc sẽ bị ảnh hưởng rất lớn bởi năng lực cá nhân của người lãnh đạo.

Còn đối với người Việt thì việc xê dịch giờ hẹn một chút không phải là vấn đề gì quá lớn. Người Việt sẽ đến sớm hơn khi đó là một cuộc hẹn quan trọng.

Người Mỹ có tinh thần trọng luật rất cao, thậm chí trở lên máy móc. Đối với họ cứ đúng luật là được, còn có tình có nghĩa hay không thì không quan trọng.

Đối với người Việt, bên cạnh pháp luật thì còn rất chú trọng vào khuôn mẫu đạo đức. Chính vì vậy người Việt thường muốn giải quyết vấn đề theo hướng “hợp tình hợp lý”.

Xếp hàng là một nét nổi bật trong văn hóa của người Mỹ. Vào cơ quan hành chính, vào rạp chiếu phim, chờ thanh toán ở siêu thị, đi mua hàng, lấy đồ ăn,… họ luôn xếp hàng, không chen lấn xô đẩy. Đặc biệt là trong mùa bán hàng hạ giá, để mua được món hàng ưng ý người Mỹ có thể đến từ sáng sớm, xếp hàng rất dài trước cửa các siêu thị, shop bán hàng.

Ở Việt Nam, văn hóa xếp hàng đang dần hình thành và trở nên phổ biến hơn (được thể hiện rõ ở những thành phố lớn) nhưng nó vẫn chưa thực sự ăn sâu vào nếp sống của mỗi người. Chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh có người chen ngang hàng, chen lấn, xô đẩy và gây ồn ào nơi công cộng.

Ở Việt Nam (nhất là những thành phố lớn), người dân thường đổ ra đường, đến các trung tâm mua sắm và khu vui chơi để giải trí. Đặc biệt, chính quyền còn tổ chức các khu phố đi bộ vào dịp cuối tuần.

Trước đây, người Mỹ coi ô tô là phương tiện di chuyển hiệu quả nhất. Ngày nay, họ coi xe đạp là phương tiện di chuyển “lành mạnh” nhất, vừa bảo vệ môi trường, vừa rèn luyện sức khỏe.

Ở Việt Nam, trước đây phương tiện di chuyển chủ yếu là xe đạp. Ngày nay, phương tiện di chuyển chủ yếu của người Việt là xe máy, nếu có điều kiện hơn thì là ô tô.

– Nuôi dạy trẻ em

Trẻ em ở Mỹ được dạy đi từ khi còn rất nhỏ, và được khuyến khích đi làm thêm ngay khi còn đi học để có tiền tiêu xài riêng. Khi đến 16 tuổi (tuổi trưởng thành) gia đình sẽ cho ra ở riêng với một khoản tiền nhất định, tự bươn trải cuộc sống chứ không dựa dẫm vào gia đình.

Ở Việt Nam, trẻ em được quan tâm, che chở bởi mọi thành viên trong gia đình. Nhưng cũng chính sự quan tâm quá mức này làm cản trở lối sống độc lập của trẻ từ nhỏ và trẻ thường có xu hướng dựa dẫm vào gia đình.

Ở Mỹ, người cao tuổi thường được đưa đến những viện dưỡng lão, ở đây người cao tuổi sẽ làm bạn với những người cao tuổi khác và được chăm sóc y tế đầy đủ. Người Mỹ cũng không có nghi thức cúng giỗ ông bà, cha mẹ. Với họ, người mất là hết, làm gì cũng không có ý nghĩa nữa.

Người Việt Nam rất coi trọng truyền thống uống nước nhớ nguồn, ông bà được gia đình chăm sóc đầy đủ và sống quây quần bên con cháu. Khi cha mẹ, ông bà mất sẽ cúng giỗ để tưởng nhớ người đã mất và cũng là dịp để anh, chị, em và người thân trong gia đình quây quần. Đối với người Việt, không thể cúng giỗ ông bà, tổ tiên là nỗi bất hạnh lớn. Đây là truyền thống văn hóa rất đáng trân trọng của người Việt.

Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Phương Tây Và Việt Nam

Sự đối lập văn hóa ngàn đời giữa Đông và Tây vẫn rất rõ ràng trong nội tại, chỉ là vì chúng ta lướt qua chúng quá nhanh và không để ý đến những điều đó. Chỉ khi bước chân ra khỏi đất nước hình chữ S này thì chúng ta mới bỡ ngỡ nhận ra sự khác biệt mà bấy lâu nay vô tình bị lãng quên.

Việt Nam nằm ngay vùng trung tâm hàng hải và giao thương kinh tế giữa Ấn ĐộDương và Thái Bình Dương, đâylà một trong những nguyên nhân chính khiến Việt Namcàng trở nên hội nhập với các quốc gia khác với những nền văn hóa đa dạng. Tại những trung tâm du lịch, tài chính, văn hóa như Sài Gòn, , Đà Nẵng hay Nha Trang thì chúng ta khó có thể thấy được sự khác biệt trong văn hóa giữa người bản địa cũng như du khách vì dường như quá trình giao thoa văn hóa diễn ra từng ngày khiến chúng trở nên quá quen thuộc. Tuy nhiên, sự đối lập văn hóa ngàn đời giữa Đông và Tây vẫn rất rõ ràng trong nội tại, chỉ là vì chúng ta lướt qua chúng quá nhanh và không để ý đến những điều đó. Chỉ khi bước chân ra khỏi đất nước hình chữ S này thì chúng ta mới bỡ ngỡ nhận ra sự khác biệt mà bấy lâu nay vô tình bị lãng quên. Do đó, việc tìm hiểu sự khác biệt văn hóa rất quan trọng, giúp chúng ta có thể sẵn sàng tinh thần với những cú shock văn hóa.

Bài viết sau đây của ELLE MAN là danh sách liệt kê những sự khác nhau cơ bản giữa văn hóa phương Tây và Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày.

1. Chuyện tình cảm yêu đương và gia đình:

Phương Tây: Nam, nữ nắm tay nhau hoặc hôn nhau tại chốn công cộng là chuyện hoàn toàn bình thường. Những người xung quanh cũng chẳng hề bận tâm về chuyện đó.

Thậm chí đối với những người là bạn bè thân lâu năm, đàn ông hay đàn bà vẫn có thể dành cho nhau những cái nắm tay, khoác lên vai nhau hoặc trao cho nhau những nụ hôn phớt lên má hoặc cả lên môi.

Trong một gia đình, vợ chồng trao nhau những cái ôm hoặc những chiếc hôn trước mặt lũ trẻ một cách rất vô tư và những đứa trẻ thích nhìn bố mẹ chúng làm vậy. Bố mẹ cũng rất thương xuyên trao những nụ hôn cho con trẻ, họ xem đó là sự biểu hiện tình cảm yêu thương và con cái cũng như những người bạn thân.

Việt Nam: Thường thì ta ít thấy những cặp đôi hôn nhau tại chốn công cộng trừ thế hệ trẻ ngày nay, những người có cái nhìn thoáng hơn trong chuyện yêu đương. Tuy nhiên, họ sẽ nhận được những cái nhìn “ái ngại” từ người lớn xung quanh.

Đối với bạn bè, việc đụng chạm thân thể nhau là cực kì hạn chế dù là những người bạn thân lâu năm, bởi không khéo sẽ đưa cả 2 từ friendzone chuyển sang love affair tự lúc nào không hay.

Vợ chồng cũng ít khi hôn nhau trước mặt con cái, mà họ thường làm chuyện ấy khi không có ai như cái thuở trốn ông bà để cùng nhau đi hẹn hò. Những người bố thườngít khi hôn con trẻ, họ rất yêu thương chúngnhưng cách thể hiện thường đôi khi “ít gần gũi” hơn người phương Tây.

2. Tiệc tùng và lễ hội:

Phương Tây: Giáng sinh và Tết Dương lịch là những ngày lễ quan trọng nhất trong một năm. Họ thường đi nghỉ lễ xa nhà hoặc chỉ quây quần cùng nhau.

Đối với một người châu Âu, sinh nhật và đám cưới là những dịp quan trọng nhất trong đời. Tại sinh nhật, người thân sẽ tụ tập ca hát, nhảy múa, tặng quà và ăn tiệc nhẹ. Trong đám cưới, người phương Tây thường tổ chức tiệc ngồi lẫn buffet, nhưng họ thường ăn nhẹ, ca hát và nhận quà tặng từ người thân và bạn bè. Ít khi nhận tiền mừng, trừ một số vùng văn hóa đặc biệt như Sicily của Ý.

Việt Nam: Tết Âm lịch là dịp lễ hội quan trọng nhất trong một năm. Là dịp để mọi người xa xứ tụ họp về quê hương, quây quần bên nhau bên mâm cỗ gia đình và bái cúng tổ tiên.

Người Việt Nam tổ chức đám giỗ lớn hơn cả sinh nhật, đây là dịp để họ hàng cùng họp mặt nhau trong mâm cơm. Họ bàn về những kí ức xưa của người đã khuất, những điều tốt đẹp về họ. Đối với đám cưới, người Việt Nam cũng tổ chức rất cầu kì, bao gồm nhiều công đoạn tùy vào từng địa phương nhưng thường sẽ có Lễ Đám Hỏi trước Lễ Đính Hôn, là ngày để gia đình họ trai bưng mâm quả qua nhà gái để hỏi cưới. Họ tổ chức tiệc cưới khá long trọng và người đi dự đám cưới thường phải biếu tiền mừng.

3. Ăn uống

Phương Tây: Người phương Tây, điển hình là người Mỹ, không dành quá nhiều thời gian cho việc nấu nướng thường nhật, trừ khi họ là một đầu bếp hoặc một người sành ăn. Họ thường có thói quen mua dự trữ lương thực cho cả một tuần do tính chất cuộc sống, công việc hối hả và bận rộn. Đa phần theo Cơ Đốc giáo nên họ thường sẽ cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa trước khi ăn (không khác biệt lắm so với những người Việt Nam theo Cơ Đốc giáo).

Cách chế biến món ăn cũng rất khác người châu Á, điển hình là Việt Nam, với thức ăn không quá dậy mùi gia vị và không hề cay, ngoại trừ những nền ẩm thực chú trọng gia vị sau chế biến như Hy Lạp, Ý hay Pháp.

Dao, muỗng, nĩa là những vật dụng thường thấy trên bàn ăn, thức ăn thường là thực phẩm khô nguội và súp thì được đựng trong dĩa. Người Mỹ chỉ có một bữa ăn chính là ăn chiều, khi các thành viên trong gia đình quây quần cùng nhau. Thức ăn được chia đều cho mọi thành viên gia đình, và khi ăn họ thường không gây nên tiếng sột soạt (lý do vì sao, tôi sẽ giải thích sau).

Việt Nam: Người Việt chúng ta dành rất nhiều thời gian để chế biến và nấu nướng bởi tính chất ẩm thực Việt Nam khá cầu kì với muôn vàncác loại gia vị. Họ thường mua sắm lương thực hàng ngày tại những khu chợ truyền thống hay trong siêu thị bởi tính chất của ẩm thực Á Đông là nền ẩm thực tươi ngon và nóng hổi khi chế biến, nên sẽ không phù hợp lắm khi dự trữ thức ăn cho cả tuần.

Cách chế biến thức ăn của Việt Nam khá nồng mùi gia vị và rất cay, đây cũng chính là đặc điểm chung của nền ẩm thực Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Người Việt thường ăn bằng đũa và muỗng, thức ăn được đặt trong đĩa và tô, đặt chung trên mâm cơm và mọi người gắp vào chén (bát) của mình để ăn, canh (súp) thường được đặt giữa mâm cơm. Lý giải cho điều này chính là văn hóa cộng đồng trong cách ăn ở và sinh hoạt có từ ngàn năm trước. Trước khi ăn, các hậu bối(người nhỏ tuổi) phải mời các trưởng bối trong gia đình xơi (ăn) cơm rồi mới đượcđụng đũa. Khi ăn một món ăn ngon, đặc biệt là canh hay những món nước, thường thì họ gây ra tiếng sột soạt khi húp.

Tôi sẽ lý giải một chút ở phần này, do bị ảnh hưởng quá nhiều của văn hóa Tây phương mà ngày nay nhiều người xem việc ăn ra tiếng là bất lịch sự và mất vệ sinh. Điều này đúng mà cũng không đúng, vì sao? Bởi đặc tínhcủa cả 2 nền ẩm thực là hoàn toàn khác nhau, thức ăn phương Tây vốn dĩ lấy lúa mạch làm nền tảng nên trên bàn ăn sẽ thường xuất hiện bánh mì cùng nhiều loại thức ăn khô nguội, việc ăn không gây tiếng động là điều hiển nhiên; còn ẩm thực Việt Nam thường rất cay nồng và chỉ thực sự ngon khi được dùng ngay lúc nóng, điều này tạo ra cử động chóp chép và hít hà khi ăn để làm dịu thức ăn trong miệng. Cũng giống như người Nhật và Hàn Quốc, khi được gia chủ mời dùng bữa, việc gây tiếng động sột soạt sẽ tạo cho họ cảm giác vui vẻ vì chứng tỏ họ nấu ăn ngon.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là cổ súy việc ăn uống gây quá nhiều tiếng động và vương vãi lung tung, như vậy thật sự là bất lịch sự và không vệ sinh.

4. Cung cách chào hỏi

Phương Tây: Trong cách chào hỏi, người phương Tây có xu hướng bình đẳng giới nên bắt tay giữa 2 người khác giới là điều rất bình thường. Đối với những người bạn, họ thường trao nhau những nụ hôn lên má hoặc hôn phớt trên môi khi chào hỏi lúc gặp mặt hoặc chia tay.

Họthường vẫy tay chào hỏingười khác kể cả với người lớn hơn, và việc vỗ nhẹ vào lưng từ đằng sau để chào hỏi đối với những người thân quen là điều hoàn toàn bình thường. Khi trở về nhà hoặc viếng thăm nhà bạn bè, người phương Tâythường chào hỏi bất cứ thành viên nào trong gia đình mà họ gặp đầu tiên.

Việt Nam: Rất ít khi thấy những người khác giới bắt tay nhau, đàn ông Việt thường không chủ động bắt tay với người lớn tuổi hơn hay với phụ nữ mà sẽ đợi hành động đó từ họ. Khi bắt tay, họ chỉ nắm vừa đủ và không quá lâu,dùng cả hai tay và cúi đầu chào để thể hiện sự kính trọng với người lớn tuổi hơn. Phụ nữ thường không bao giờ bắt tay nhau.

NgườiViệt chẳng bao giờ dành cho nhau những nụ hôn bạn bè, đặc biệt là giữa hai người khác giới, thậm chí đó còn là điều cấm kị đối với những phụ nữ đã có gia đình.

Chỉ có người lớn mới được dùng động tác vẫy tay để kêu trẻ nhỏ, hoặc bạn bè cùng trang lứa kêu lẫn nhau. Việc vỗ nhẹ vào lưng chỉ được chấp nhận đối với bạn bè với nhau, nhưng đối với những người lớn thì điều đó hoàn toàn bị cấm kị, đặc biệt là đàn ông không được làm điều đó với một phụ nữ trưởng thành.Khi vào nhà một gia đình Việt, bạn cần chào hỏi người trưởng tộc hay người lớn tuổi nhất, vào chào từ lớn đến nhỏ.

Bài viết: Đức Nguyễn – Hình ảnh: Sưu tầm