Chuyên đề: SỰ HÌNH THÀNH VÀ SỤP ĐỔ CỦA TRẬT TỰ VÉC XAI – OASINHTƠN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939) diễn biến phức tạp, gắn liền với sự tồn tại của trật tự Véc xai- Oasinhtơn. Vậy, trật tự Véc xai- Oasinhtơn đã hình thành và sụp đổ như thế nào sau Chiến tranh thế giới thứ nhất? Nó có liên hệ gì với sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai? Quan hệ quốc tế trong những năm 1919-1939 liệu có phải là giai đoạn hưu chiến giữa hai cuộc chiến tranh thế giới? Để tìm ra lời giải cho những thắc mắc này, chúng ta cùng phân tích. 1. Sự hình thành trật tự Véc xai – Oasinhtơn 1.1. Tương quan lực lượng giữa các nước sau chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục của chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới đặc biệt là đối với châu Âu. – Chiến trường chính của cuộc chiến tranh diễn ra ở châu Âu, vì thế các cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của Mĩ. Italia, một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, Áo – Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc Đức và Áo – Hung bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. – Trong khi đó các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật, không bị tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây. – Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế giới tư bản chủ nghĩa.
gây ra cuộc chiến này, và đòi họ phải giao Wilhelm II (người phát động cuộc chiến) và khoảng 800 tội phạm chiến tranh khác cho các nước Hiệp ước để họ xét xử, còn các nước đế quốc khác thì dường như “vô tội”. Ngoài ra, hạt Sarre của Đức cũng giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết định hạt Sarre sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Sarre đã thuộc về nước Đức). Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ… quản lí. Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền (do Hội nghị Luân đôn tháng 4 – 1921 qui định) là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%… Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước Vécxai đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Vécxai không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30. Các hoà ước khác. Cùng với hoà ước Vécxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 – 1920. Với hoà ước Saint – Germain kí với Áo ngày 10 – 9 – 1919 và Hoà ước Trianon kí với Hunggari ngày 4-6-1920, đế quốc Áo – Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc áo – Hung cũ đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc áo – Hung: Rumani được thêm vùng Bukovine và Transylvanie, Italia được thêm vùng Trentin – Istrie, Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galicia thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga. Ở bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc ốttôman cũng được quyết định. Với hoà ước Neuilly kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng Thrace cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng Dédéagatch và lối ra biển Egée và cắt tỉnh Dobroudja cho Rumani. Ngoài ra,
Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp cho các nước láng giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư, Hi lạp, Rumani) 37.000 gia súc lớn, 33.000 gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá 20.000 người. Hoà ước Sevres với Thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 – 8 – 1920 đã chính thức xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc Ottoman. Syria, Libăng, Palextin và Irắc tách khỏi thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và Pháp. Ai Cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh. Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ Istambul và vùng ngoại ô). Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm soát của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản. Toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Vécxai. Đây là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Trật tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh. Anh chẳng những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển vẫn được giữ vững. Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên, những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Versailles đối với các nước chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của giới cầm quyền Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo ở Washington. 1.3. Hội Quốc Liên Một trong những vấn đề cơ bản được các nước tham dự Hội nghị Vécxai nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên, được thành lập theo tinh thần và nội dung của Điểm 14 trong “Chương trình 14 điểm” của Uyn-xơn. Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế… Ngày 10 – 1 – 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập, Hội quốc liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9), Hội đồng thường trực (gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia – sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban thư ký thường trực (do Tổng thư ký đứng đầu) thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên, đóng trụ sở ở Geneve. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn
(HCR) … Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự quản”… Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện pháp quân sự. Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với “chế độ uỷ trị”, Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Uyn-xơn nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực hiện trong Hội nghị Vécxai. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này. 1.4. Hiệp ước ký ở Oasinhtơn Hội nghị Vécxai kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa các cường quốc thắng trận đặc biệt là mâu thuẫn trong quan hệ Anh – Mĩ và Mĩ – Nhật. Các nguyên nhân dẫn đến việc ký hòa ước này là: – Hòa ước Vécxai không giải quyết được mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, ngay cả trong nội bộ các nước đế quốc. Trên thực tế, Anh là nước có nhiều quyền lợi hơn cả, được giữ vững hệ thống thuộc địa và không cho một đế quốc nào khác mạnh hơn và qua mặt mình. Pháp và Nhật cũng giành được nhiều quyền lợi qua Hệ thống hòa ước Vécxai. Còn Mỹ chưa giành được quyền lợi nào đáng kể. Cụ thể, Mỹ rất bất bình trước việc Anh, Pháp làm cho Đức quá suy yếu. Về bồi thường chiến tranh, trong khi Anh, Pháp đòi Đức bồi thường 480 – 600 tỉ mac, Đức chấp nhận 100 tỉ mac, thì Mỹ chỉ chấp nhận có 200 tỉ mac mà thôi. Chính giới Mỹ cũng bất bình khi Hiệp ước Vécxai quyết định trao Sơn Đông cho Nhật, là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mỹ ở Viễn Đông. – Sự thất bại của Uyn-xơn. Đúng vậy, Uyn-xơn chưa có những hành động tích cực bảo vệ quyền lợi của Mỹ trong Hệ thống hòa ước Vécxai. Trong các hòa
Nước Nga Xô viết – một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự hội nghị. Quyền lãnh đạo hội nghị nằm trong tay bốn nước: Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị Washington được thể hiện trong ba hiệp ước: Hiệp ước 4 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật) , Hiệp ước 9 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc) và Hiệp ước 5 nước (Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia). Hiệp ước 4 nước Được gọi là Hiệp ước “không xâm lược ở Thái Bình Dương” kí ngày 13-121921 và có giá trị trong 10 năm. Các bên thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở vùng Thái Bình Dương” thực ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu vực rộng lớn này. Đồng thời cũng nhân dịp này Mĩ gây áp lực với Anh để liên minh Anh – Nhật (được kí kết từ năm 1902) không còn hiệu lực nữa (điều 4). Với Hiệp ước này, Mĩ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh – Nhật mà còn trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương. Hiệp ước 9 nước Kí ngày 6 – 2 – 1922, gồm 9 điều, công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa” và “khả năng đồng đều” cho các nước trong các hoạt động thương mại và công nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, một công ước đặc biệt được ký kết thống nhất thuế hải quan của Trung Quốc với tỉ lệ bằng 5% giá trị hàng hóa, và Trung Quốc không được tăng thuế lên mức 12,5%. Tóm lại với hiệp ước này, Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Đặc biệt là Mĩ đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung Quốc. Hiệp ước 5 nước Kí kết cùng ngày 6-2-1922, được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương theo tỉ lệ: 5 – 5 – 3 – 1,75 – 1,75 (cụ thể: Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000 tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn). Đồng thời các nước này cũng qui định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và tầu tuần dương hạm. Với hiệp ước này, Mỹ giành được quyền bình đẳng hải quân với Anh với nguyên tắc “sức mạnh gấp đôi” bị phá vỡ, Nhật cũng giành được thắng lợi quan trong khi 5 nước tuyên bố không xây dựng các căn cứ quân sự ở Thái Bình Dương, giúp nó nắm ưu thế trên vùng biển rộng lớn này. Kết hợp với hệ thống Hoà ước Versailles, các hiệp ước của Hội nghị Washington đã tạo nên Hệ thống Versailles – Washington. Đó là trật tự thế giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mĩ giành được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch” theo cách nói của Lê-nin. Những điều khoản ký kết ở Véc xai và Oasinhtơn còn là sự chà đạp trắng trợn đến quyền dân tộc của các nước đế quốc bại trận cũng như
tướng Pháp có nhiều công lao lớn trong Thế chiến I, đã không ngừng phản đối Clemenceau rất kịch liệt và không bằng lòng với những nội dung Hòa ước đã ký với Đức, ông ta cũng dự báo về những thất bại của Hòa ước đó. Ông ta từng chứng kiến quân Đức hủy hạm đội của mình để tránh rơi vào tay giặc, quân và dân Đức đốt cháy lá cờ Pháp ở nước Đức mà quân Đức cướp trong cuộc chiến 1870 – 1871, nhằm ngăn cản việc giao các lá cờ này cho Pháp… Ông viết thư cho vợ: “Bọn họ nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình của Clê-măng-xô”. Do đó, Foch từ chối làm lễ ký kết Hiệp ước này vào ngày 28 tháng 6 năm 1919 tại Versailles. Foch có lời tuyên bố, mà sau này càng trở nên đúng: “Đây không phải là một Hòa ước. Đây là một Thỏa ước ngừng bắn trong vòng 20 năm”. Bất chấp sự nỗ lực lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này thất bại vì không thể thay đổi sự cân bằng chiến lược Đức – Pháp: Đức thì đông dân, có tiềm lực quân sự, chính trị mạnh nhưng trong khi đó quân đội Pháp lại quá yếu, ảnh hưởng rất nhỏ bé trong phe Hiệp ước nên rất khó đương đầu với Đức. Chính vì vậy, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối phê chuẩn bản Hòa ước này vào tháng 1 năm 1920, và liên minh giữa Anh Quốc và Pháp bắt đầu suy sụp. Foch chán ghét một liên minh quân sự Pháp – Anh – Mỹ, cái mà Clemenceau đặt niềm tin to lớn. Thành thử không những chiến thắng của Pháp vào năm 1918 hoàn toàn là một chiến thắng mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập một nền hòa bình lâu dài. Người Nhật cũng thể hiện sự không bằng lòng một cách kín đáo: trong hội nghị, đại diện của Nhật nở nụ cười bí hiểm, hướng ánh mắt xa xăm về Châu Á – Thái Bình Dương. “Cơm không lành, canh không ngọt”, nguyện vọng vươn lên vị trí bá chủ của nước Mỹ chưa được thỏa mãn. Họ nhanh chóng triệu tập hội nghị ở Oasinhtơn ngay sau đó ít lâu. Hội nghị Washington hoàn toàn có lợi cho Mĩ, trong khi nước Anh phải chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc “sức mạnh quân sự gấp đôi” đã có từ năm 1914, theo đó hải quân Anh phải có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại, đồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh – Nhật. Từ đây hải quân Mĩ ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ còn thực hiện được việc xâm nhập vào thị trường viễn Đông và Trung Quốc thông qua chính sách “mở cửa”. Với hệ thống Hiệp ước Washington, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở Châu Á – Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. Người Nhật cũng có điều kiện phát triển lực lượng hải quân, phục vụ cho những kế hoạch tiếp theo của mình. Chúng ta có thể nhận ra mong muốn cân bằng quyền lực giữa các nước lớn đặc biệt là của Anh và Pháp nhằm tạo ra một trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất có lợi cho họ. Tuy nhiên, những toan tính này vấp phải mưu đồ riêng của Mỹ và Nhật, hai quốc gia đã mạnh lên rất nhiều sau chiến tranh, đặc biệt, Mỹ là chủ nợ của toàn châu Âu. Những giành giật, giao kèo mới ở Véc xai và sau
đó là Oasinhtơn khiến các nước lớn không tìm ra được tiếng nói chung, dần rà, họ xa cách trong các việc xử lý các vấn đề nóng bỏng sau này. Đó là điều kiện vô cùng thuận lợi để nước Đức, và các nước phát xít có thời cơ hành động. 2.1.2. Vấn đề thực hiện Hoà ước Vécxai kí với Đức. Tiếng nói chung trong việc giải quyết vấn đề Đức đã không xuất hiện. Việc thực hiện các điều khoản của Hoà ước Vécxai kí với Đức chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm 20. Về vấn đề bồi thường chiến tranh, Hội nghị Luân Đôn ngày 30 – 4 – 1921 đã qui định số tiền bồi thường của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả từ mùa hè năm 1921. Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng diễn ra ở Đức đã khiến cho nước này không có khả năng thực tế để trả món nợ đó. Sau việc liên quân Pháp – Bỉ chiếm đóng vùng Ruhr (11 – 1 – 1923), nơi sản xuất 90% sản lượng than và 70% sản lượng gang của nước Đức, không mang lại hiệu quả trong vấn đề bồi thường của Đức, một Hội nghị quốc tế đã được triệu tập ở Luân đôn để xem xét lại vấn đề này. Hội nghị Luân đôn khai mạc ngày 16 – 7 – 1924 với sự tham gia của các đại diện Anh (MacDonald), Pháp (Herriot), Italia (Stefani), Nhật (Hayashi), Bỉ (Teinic), Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Rumani, và Mĩ (Kellogg) (về danh nghĩa Mĩ chỉ tham gia với một số quyền hạn chế nhưng trên thực tế Mĩ có ảnh hưởng lớn trong Hội nghị). Hội nghị Luân Đôn đã thông qua kế hoạch Dawes có giá trị trong vòng 5 năm với nội dung chủ yếu là Mĩ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục hồi và phát triển kinh tế – tài chính để nước này có khả năng trả được các khoản bồi thường chiến tranh theo lịch trình được Uỷ ban 5 nước Anh, Pháp Mĩ, Italia qui định như sau: – Năm thứ nhất trả 1 tỉ mác vàng; – Năm thứ hai: 1,22 tỉ mác vàng; – Năm thứ 3: 1,2 tỉ mác vàng; – Năm thứ tư: 1,75 tỉ mác vàng; – Từ năm thứ năm: mỗi năm 2,5 tỉ mác vàng. Với kế hoạch Dawes, Pháp đã phải có những nhượng bộ quan trọng: Pháp phải rút khỏi vùng Ruhr (năm 1925) việc giải quyết vấn đề bồi thường chiến tranh đã tuột khỏi tay Pháp chuyển sang tay người Mĩ. Mĩ và Anh có điều kiện mở rộng ảnh hưởng về kinh tế – tài chính vào nước Đức. Kế hoạch Dawes đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức. Những trận “mưa đô la” từ Mĩ và Anh qua kế hoạch này đã tạo điều kiện trang bị những kĩ thuật hiện đại và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức. Trong năm đầu thực hiện kế hoạch Dawes, khi số tiền Đức cho vay được ấn định là 800 triệu mac, thì trên thực tế Đức nhận được đến 921 triệu mac (461 triệu của Mỹ, 227 triệu của Anh). Từ đó đến năm 1929, Đức đã nhận viện trợ của Mĩ, Anh để vay, tín dụng và đầu tư vào công nghiệp khoảng 20 – 25 tỉ mac vàng. Số tiền viện trợ đó không những đủ để trả nợ cho các đế quốc thắng trận (Đức trả lại cho họ tới 11 tỉ mac) mà còn đủ để phát
trung lập trong trường hợp bên kia bị một nhóm nước hay nước thứ ba tấn công, nếu các bên một nhóm nước hay nước thứ ba tẩy chay, bao vây, thì bên kia sẽ không tham gia các hoạt động chống lại bên đã ký hiệp ước. Phía Đức còn thông báo là sẽ không bị ràng buộc bởi các quyết định của Hội để chống Liên Xô. Hiệp ước Xô – Đức là một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Nga Xô viết khi đó. Sau đó, Liên Xô có ký kết các hiệp ước với một loạt các nước khác nhau để khẳng định, củng cố vị thế lúc đó. Như vậy, sự kiện các hiệp ước Xô – Đức, Locarno, Thổ Nhĩ Kì và Đức gia nhập Hội Quốc Liên…đã làm sáng lên những tia hy vọng về một nền hòa bình có cơ may được xác lập ở châu Âu và trên toàn thế giới. Trong bối cảnh lòng tin vào an ninh tập thể lên đến đỉnh cao mà tháng 4 – 1927, Ngoại trưởng Pháp Aristide Briand đề nghị với Ngoại trưởng Mĩ Frank B. Kellogg về việc Pháp và Mỹ ký một hiệp ước “hữu nghị vĩnh viễn, theo đó hai nước cam kết từ bỏ việc chiến tranh như là một phương tiện chính trị quốc gia”. Ngoại trưởng Mĩ đồng ý, nhưng sẽ mở rộng hiệp ước cho nhiều nước cùng tham gia. Sau nhiều cuộc đàm phán liên tục, ngày 27 – 8 – 1928 tại Pari đã diễn ra lễ ký kết Hiệp ước từ bỏ chiến tranh nói chung, còn được gọi là Hiệp ước Briand – Kellogg. Hiệp ước này đã được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng và có tới 57 quốc gia kí kết tham gia, trong đó có Liên Xô. Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Hiệp ước và mong muốn Hiệp ước này sớm có hiệu lực. Một năm sau, nhằm thúc đẩy việc vận dụng vào thực tế hiệp ước này, theo sáng kiến của Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Maxim Litvinov (1876 – 1951), 8 nước (Liên Xô, Rumania, Latvia…) đã cùng nhau ký “Nghị định thư Litvinov” (9 – 2 – 1929) kêu gọi hiện thực hóa hiệp ước Briand Kellogg vào thực tiễn mà không chờ đợi cho đến khi nó được các nước khác phê chuẩn. Mặc dù Hiệp ước Briand – Kellogg được đánh giá là “đánh dấu đỉnh cao của làn sóng hoà bình trong thập niên 20,” nhưng thực tế cho thấy việc đặt niềm tin vào hiệp ước này là “một ảo tưởng nguy hiểm” bởi lẽ chỉ vài ngày sau khi kí kết hiệp ước Briand – Kellogg, Anh và Pháp đã tiến hành kí kết ngay một thoả hiệp riêng rẽ vấn đề vũ khí Hòa bình và an ninh tập thể trong khuôn khổ trật tự Versailles Washington, Hội Quốc Liên là rất mong manh, xa vời. Những diễn biến tiếp theo trong quan hệ quốc tế thập niên 30 sẽ tiếp tục chứng minh điều đó. Những toan tính riêng vì lợi ích dân tộc của các nước lớn đặc biệt là Mỹ, Anh, Pháp đã khiến họ xa cách, và không tìm được tiếng nói chung trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, đặc biệt là vấn đề Đức. Nước Đức không hề bị suy yếu hoàn toàn sau chiến tranh, nung nấu ý định phục thù, và có điều kiện phục thù. Trật tự Véc xai- Oasinhtơn từng bước bị xói mòn nhanh chóng. 2.2. Sự sụp đổ của trật tự Vécxai – Oasinhtơn 2.2.1. Sự hình thành các lò lửa chiến tranh
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 – 10 – 1929, đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những năm 1929 – 1933. ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929 – 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai – Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp… đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế – xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ thống Vécxai – Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập – một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Versailles – Washington dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới. Lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vécxai – Oasinhtơn bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaka đã vạch một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức bản “tấu thỉnh”‘, trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất công mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Oasinhtơn (1921 – 1922) và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới. Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc), ngày 18 – 9 – 1931 Nhật Bản dựng “Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc.
Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến vùng Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới. Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn điều tra V. Lytton do Hội Quốc Liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24 – 2 – 1933 Hội Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Mãn Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật dựng lên nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc. Như vậy, Hội Quốc liên đã không công khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm lược và không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân sự, Hội Quốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó không đem lại kết quả nào”. Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 – 3 – 1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông á do Hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 – 1933. Có thể nói, lực lượng quân phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước Versailles. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính phủ Hermann Muller – chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Weimar – và việc Heinrich Bruning lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì chuyển biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một chính quyền ”mạnh”, một nền chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực lượng thực tế có thể đáp ứng được nhu cầu đó và Adolph Hitler được coi là “người hùng” có thể ngăn chặn được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa Bônsêvích”. Ngày
30-1-1933 Tổng thống P. Hindenburg đã cử Hitler, lãnh tụ của Đảng Quốc xã thay Schleicher làm Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức. Việc Hitler lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức, mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”. Bởi lẽ, “đối mặt với Hitler, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp và chủ nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ tiếp theo” Quốc tế cộng sản đã chỉ ra rằng “chủ nghĩa phát xít – đó là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sôvanh nhất và đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”. Quả thật, ngay từ những năm 20, Hitler và Đảng Quốc xã đã công khai bày tỏ tham vọng bá chủ thế giới của mình. Trong tác phẩm “Cuộc chiến đấu của tôi” tác phẩm lý luận chủ chốt của Đảng Quốc xã mà Hitler là tác giả, đã đề cập đến “Kế hoạch lục địa”, theo đó Đức dự định là sẽ chinh phục châu Âu, trong đó chủ yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đông châu Âu, trước hết là Nga và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hitler cũng không loại trừ một cuộc chiến tranh với phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó nước Pháp được coi là “kẻ thù truyền thống”. Hitler còn đề ra kế hoạch Âu – Á (Eurasia) và Âu – Phi (Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Phi, châu Á và châu Mĩ. Việc làm đầu tiên của Hitler sau khi lên nắm quyền là tái vũ trang nước Đức và thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược. Tháng 10 – 1933 Chính phủ Đức quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở Genova và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 – 3 – 1935, Hitler công khai vi phạm Hoà ước Versailles, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân, thành lập 36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 – 6 – 1935 Đức kí với Anh Hiệp định về hải quân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội tàu nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh. Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Vécxai và tăng cường sức mạnh quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hitler tìm cách bí mật thủ tiêu các chính khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng Rumani I. Duca, Ngoại trưởng Pháp L. Barthou, nhà vua Nam Tư Alexandre I và thủ tướng Áo E. Dollfuss. Không dừng lại ở đó, ngày 7 – 3 – 1936 Hitler ra lệnh tái chiếm vùng Rheinanie, công khai xé bỏ Hoà ước Versailles, Hiệp ước Locarno và tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu. Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu