So Sánh Văn Hóa Việt Nam Và Nhật Bản / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

So Sánh Văn Hóa Nhật Bản Và Văn Hóa Việt Nam

Theo cách phân chia thông thường hiện nay thì Việt Nam và Nhật Bản ở vào hai khu vực văn hoá khác nhau. Nhật Bản là một nước Đông á, còn Việt Nam thuộc Đông Nam á. Không dễ gì đem văn hoá thuộc hai khu vực khác nhau để so sánh, nhưng chúng ta lại rất cần đến nghiên cứu so sánh để có thể hiểu sâu thêm từng đối tượng và hiểu rộng thêm mối quan hệ giữa các đối tượng này. Mặt khác, sự phân chia thành các khu vực văn hoá, thực chất cũng chỉ là một cách làm của các nhà khoa học nhằm phân lập một cách tương đối một thực thể nào đó, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chia cắt chúng một cách tuyệt đối. Hơn thế, do tác động của hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc thuộc các khu vực văn hoá khác nhau lại có nhiều mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì vậy so sánh để tìm ra những mối liên hệ, rút ra những điểm tương đồng và dị biệt lại là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Nhật Bản và Việt Nam có thể coi là những trường hợp như thế. Hơn nữa, Việt Nam và Nhật Bản lại cùng chịu nhiều ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa, nên có không ít những điểm tương đồng, nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn những biểu hiện của ảnh hưởng này lại tìm ra những khác biệt đáng kể.

Chọn Nhật Bản để so sánh, tác giả muốn đạt tới sự nhận thức sâu sắc hơn về văn hoá Việt Nam và qua đó, góp phần hiểu thêm về mối quan hệ Đông á và Đông Nam á.

Có nhiều phương pháp so sánh nhưng phương pháp được sử dụng trong bài này là so sánh theo tiêu chí. Theo chúng tôi có thể chọn 5 tiêu chí sau đây:

1. Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái.

Với nhận thức của khoa học ngày nay, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ quan trọng đến sáng tạo văn hoá của con người. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá.

2. Sự hình thành nhà nước đầu tiên.

Đây là sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi dân tộc vì sự xuất hiện nhà nước vừa là cái mốc bước nhảy vọt của một cộng đồng cư dân đưa họ bước vào thời đại văn minh vừa là sự kết tinh của những thành tựu về văn hoá đã đạt được trước đó, bước đầu định hình một bản sắc văn hoá.

3. Những đặc điểm về cư dân và đặc trưng văn hoá truyền thống.

Nói tới văn hoá, không thể không xem xét chính chủ thể của văn hoá, nên nguồn gốc, quá trình tộc người và đặc điểm của cả cộng đồng là những yếu tố không thể bỏ qua. Còn đặc trưng của văn hoá truyền thống ở đây là xét trên những đặc trưng chung nhất của 4 thành tố cấu thành văn hoá.

4. Các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử.

Từ khi nhà nước hình thành, mặc dù là sản phẩm của văn hoá do chính con người tạo ra nhưng các hình thức tổ chức nhà nước có tác động rất mạnh mẽ đến chiều hướng phát triển của lịch sử và chi phối những đặc trưng của xã hội.

5. Ứng xử với văn hoá ngoại lai.

Văn hoá được sản sinh trong một không gian nhất định và giới hạn của nó thường là môi trường tự nhiên, nhưng văn hoá không bao giờ là đóng kín. Sự lan toả những giá trị của một nền văn hoá này tới những nền văn hoá khác là một hiện tượng tự nhiên, nhưng cách ứng xử trước hiện tượng tự nhiên ấy là phụ thuộc vào, và vì vậy, phản ánh đặc trưng của chính những nền văn hoá chịu những tác động ấy. Vì vậy đây có thể coi là một trong những tiêu chí để có thể xét sự tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hoá.

Xét theo tiêu chí thứ nhất về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, có thể thấy Việt Nam là một bán đảo với diện tích tự nhiên hơn 33 vạn km2 và hơn 3000 km bờ biển. Chỉ số duyên hải (ISCL) tính được ” 106. Trong khi đó, Nhật Bản là một quần đảo với 3.600 hòn đảo lớn nhỏ quây quần xung quanh 4 hòn đảo lớn. Tổng diện tích tự nhiên ” 377.000 km2 và 29.000 km bờ biển, chỉ số ISCL ” 13 (1).

Do địa hình dốc, mưa theo mùa tạo thành mạng lưới sông ngòi dày đặc (trên có tới gần 3.000 con sông lớn nhỏ), xoè theo hình nan quạt ở phía bờ biển. Do bồi lấp không hoàn chỉnh, vùng đồng bằng hay có úng lụt, tạo thành vùng sinh thái có nhiều mặt nước chiếm chỗ. Người Việt gọi Tổ quốc mình là nước.

Khí hậu Việt Nam tương đối đa dạng. ở miền Bắc có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt. Miền Nam chia thành 2 mùa Khô và Mưa. Đặc điểm chung là nóng, ẩm, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh. Cùng vớí chế độ nhiệt đới gió mùa, hằng năm có bão, thiên nhiên cũng đặt ra không ít những thử thách hiểm nghèo. Mưa, lũ, bão, ẩm, dịch bệnh là những thiên tai mà người Việt thường xuyên phải đối phó.

Do lãnh thổ trải dài trên 15 vĩ tuyến, lại có nhiều mạch núi cắt ngang, tạo thành nhiều âu khí hậu khác nhau mà rõ nhất là Bắc, Trung, Nam Bộ. Cùng với sự đa dạng về địa hình, sự khác biệt về khí hậu là những yếu tố tự nhiên nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá phân bố theo vùng, miền.

Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú, nhưng nhìn chung trữ lượng không cao. Ưu thế tài nguyên chủ yếu là đất. Nông nghiệp đã xuất hiện sớm và là ngành kinh tế chủ đạo trong suốt mọi thời kỳ lịch sử.

Một đặc điểm nổi bật của điều kiện tự nhiên Việt Nam là vị trí địa lí giao tiếp, là nơi giao lưu của nhiều dòng văn hoá và là nơi luôn bị tác động của khu vực và thế giới. Lãnh thổ quốc gia được mở rộng dần theo thời gian.

Tuy có diện tích tự nhiên rộng hơn, nhưng khác với Việt Nam, Nhật Bản có tới 75% diện tích là núi và 67% rừng xanh che phủ. Với lượng mưa không lớn (trung bình khoảng 300mm/năm) và do địa hình núi gần biển, Nhật Bản không có nhiều sông. 13 con sông được ghi trong các sách địa lý đều ngắn, nhỏ và nghèo phù sa. Nhật Bản hầu như không có đồng bằng châu thổ (2). Ngay cả những vùng được gọi là đồng bằng như vùng Kanto và Kansai, thực chất cũng chỉ là những thung lũng lớn được tạo thành bởi nham thạch của núi lửa. Nhật Bản có tới 200 núi lửa, 60 ngọn trong số đó vẫn còn đang hoạt động. Chính vì vậy mà biểu tượng của người Nhật là núi lửa Fuji.Cả nước có khoảng 300 thung lũng, bị chia cắt thành 7 vùng núi lửa.

Bù lại sự chật hẹp về đất đai cư trú và trồng trọt, Nhật Bản có hệ thống cảng biển dày đặc.

Khí hậu Nhật Bản có sự cách biệt khá xa. Có vùng lạnh như Siberi (đảo Hokkaido), lại có vùng ấm như Đông Nam á (Okinawa và các đảo cực nam). Quanh năm có 4 mùa rõ rệt nhưng độ ẩm không cao. Khí hậu nói chung không thật thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Trong khi đó, Nhật Bản được coi là nước thiên tai rất khắc nghiệt với sự hoành hành thường xuyên của động đất, lũ quét, sóng thần, bão biển và núi lửa.

Do địa hình chia cắt, văn hoá Nhật Bản có thể chia thành nhiều vùng – địa phương. Nghèo về tài nguyên (3) kể cả đất canh tác, Nhật Bản chỉ có khoảng 2,5 triệu ha đất có thể canh tác được nhưng chỉ trong một vụ xuân hè.

Nhật Bản nằm giữa biển, nhưng trong các giai đoạn lịch sử trước khi có sự xuất hiện của người châu Âu, vị trí địa lý của quần đảo tương đối cách biệt nên ít chịu tác động tự nhiên mà thường chủ động du nhập các yếu tố văn minh từ bên ngoài.

Những nét tương đồng có thể thấy qua những đặc điểm mang tính hình thức như diện tích tự nhiên (33 vạn/38 vạn km2), địa hình, khí hậu đa dạng với đủ các vùng rừng núi, đồng bằng và duyên hải. Cả hai quốc gia đều phải đối phó với những thiên tai hiểm nghèo… Phân tích sâu hơn những tham số tự nhiên thì thấy những điểm dị biệt là rất đáng kể. Trước hết đó là sự khác nhau giữa một bán đảo với một quần đảo, do đó chỉ số ISCL chênh nhau tới hơn 8 lần (13/106). Do đặc điểm này mà tác động của yếu tố biển tới đời sống văn hoá của mỗi dân tộc rất khác nhau. Sự khác biệt còn thể hiện ở mức độ thuận lợi và thử thách do thiên nhiên đem lại như khắc nghiệt của thiên tai, sự phong phú giàu có về tài nguyên và ảnh hưởng của vị trí địa lý.

Trong tiêu chí thứ hai: cư dân và đặc trưng văn hoá, Việt Nam luôn được nhận diện như một quốc gia đa tộc người, ít nhất có tới 54 tộc người với ngôn ngữ và truyền thống văn hoá khác nhau, nhưng có một dân tộc chủ thể là người Kinh (hay Việt).

Đặc trưng văn hoá Việt được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài do tác động của nhiều nhân tố, nhưng về đại thể có thể coi những nhân tố sau đây có vai trò tác động chính yếu:

– Tác động của môi trường “nước”. Do tác động này mà hình thành các dạng thức văn hoá sông – nước với những tính cách của cư dân ở gần/trên sông, nước (can đảm, linh hoạt, mềm dẻo, dễ thích ứng, giỏi xử lí tình huống…).

– Tác động của hoàn cảnh lao động sản xuất (nông nghiệp trồng lúa nước). Trong quá trình chinh phục đồng bằng châu thổ, đắp đê, điều tiết nước để sản xuất và hợp lực phòng chống lũ lụt, người Việt cần tới sức mạnh cộng đồng. Làng, một loại hình tụ cư đậm tính cố kết trở thành hội điểm của rất nhiều đặc trưng văn hoá. Trong bảng giá trị truyền thống, đoàn kết (cố kết cộng đồng), hiếu với cha mẹ (gia đình hạt nhân là tế bào xã hội) và trọng lão (trọng kinh nghiệm) luôn là những chuẩn mực được đề cao. Nhưng cũng do hoàn cảnh sản xuất mà người nông dân Việt không quen hạch toán và lường tính xa. Bình quân (chia đều) trở thành một phương thức hữu hiệu duy trì mối quan hệ hoà đồng trong làng xã.

– Tác động của hoàn cảnh lịch sử mà nổi bật là phải thường xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược. Tác động này đã tạo nên truyền thống bất khuất kiên cường, có ý thức độc lập tự chủ cao. Đồng thời cũng chính do tác động này mà thiết chế cộng đồng được gia cố thêm.

Về tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt coi trọng đạo thờ cúng tổ tiên. Trong quá trình tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, ấn Độ và phương Tây, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo lần lượt được du nhập vào Việt Nam. Các tôn giáo ngoại lai và các loại hình tín ngưỡng bản địa đã dung hợp nhau cùng tồn tại và phát triển. Việt Nam trở thành một xứ sở hỗn dung tôn giáo.

Khác với Việt Nam, Nhật Bản là một quốc gia thuần chủng, có bản sắc chung rất rõ nét. Trong kết cấu cư dân hiện nay, 99,4% dân số là người Nhật, bộ phận những cư dân khác còn lại chỉ chiếm 0,6% (gồm 600.000 người Triều Tiên, 40.000 người Trung Quốc và khoảng 20.000 Ainu). Quá trình “thuần chủng hoá” này đã diễn ra trong một quá trình lịch sử lâu dài trong điều kiện quần đảo Nhật Bản sống tương đối tách biệt với thế giới bên ngoài. Địa hình bị chia cắt bởi núi non, thung lũng và đảo dẫn tới sự hình thành nhiều dạng thức văn hoá địa phương. Người ta đã từng chia Nhật Bản thành 6 vùng văn hoá là Bắc hải đạo (đảo Hokkaido), Bắc lục đạo (vùng núi phía bắc, giáp biển Nhật Bản, chủ yếu là các tỉnh Nigata, Kanazawa), Đông hải đạo (vùng đồng bằng Kanto), Kinki (vùng đồng bằng Kansai), Tây hải đạo (đảo Kyushu), Nam hải đạo (đảo Shinkoku và các đảo phía nam).

– Xét về tác động của môi trường có thể thấy biển, núi, thung lũng, khí hậu ôn đới, núi lửa và động đất là những nhân tố tự nhiên tác động mạnh mẽ và thường xuyên đến quá trình hình thành văn hoá truyền thống Nhật Bản. Do tác động đó mà tính cách Nhật Bản cứng rắn, tiết kiệm, trung thành với các giá trị truyền thống và rất cầu toàn. Vị trí địa lý tương đối biệt lập (của cả quần đảo và của từng vùng) đã tạo nên tính cách đóng kín nhưng lại luôn có mặc cảm “bị bỏ rơi” nên luôn mong muốn hội nhập và học tập cái hay ở người khác.

– Về hoàn cảnh lịch sử, có thể thấy trong suốt thời kỳ trung đại, ngoại trừ hai lần tấn công xâm lược nhưng không thành của quân Mông – Nguyên, Nhật Bản hầu như không phải đối phó với ngoại xâm. Thay vì các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, nội chiến giữa các thế lực phong kiến địa phương diễn ra tương đối thường xuyên và kết cục dẫn đến sự hình thành thiết chế Mạc phủ mà thực chất là sự thống trị của chính quyền quân sự, đứng đầu là các dòng họ Shogun (Tướng quân) song song với sự tồn tại phần nhiều trên danh nghĩa một chính quyền dân sự do Thiên hoàng (Teno) đứng đầu. Hoàn cảnh lịch sử này đã tạo nên tính kỉ luật, đề cao vai trò người chỉ huy. Chuẩn mực đạo đức là đề cao giữ chữ tín. Sự phát triển mạnh mẽ của các phong kiến địa phương tại mỗi thung lũng đã dẫn tới sự hình thành các đơn vị thân binh (Samurai) sau thành trở thành một tầng lớp có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội dưới tên gọi Vũ sĩ (Bushi). Trong xã hội truyền thống, đại bộ phận cư dân sống ở nông thôn. Họ tụ cư thành các đơn vị gọi là mura (thôn). Khác với cấu trúc làng ở Việt Nam, trong các mura của Nhật Bản, xã hội có cấu trúc theo chiều dọc, nghĩa là có trật tự, lớp lang. Mọi thành viên đều có chức năng, bổn phận rất rõ ràng. Quan niệm “cá mè một lứa” hay “cá đối bằng đầu”, một kiểu dân chủ làng xã theo lối bình quân chủ nghĩa thường thấy ở Việt Nam, rất xa lạ với xã hội Nhật Bản.

Tôn giáo giữ vị trí độc tôn ở Nhật Bản là Shinto (Thần đạo). Tôn giáo này đã hoà trộn nhiều yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng thờ tổ tiên là nữ thần mặt trời. Các tôn giáo khác ở Nhật rất kém phát triển, trừ phật giáo Đại thừa. Nhật Bản đã có thời coi văn minh Trung Hoa là mẫu hình lý tưởng để học theo, nhưng Nho giáo khi du nhập vào Nhật Bản không phải là nguyên mẫu. Người Nhật đã chọn lựa từng bộ phận nhưng rất tuân thủ giáo lý. Hệ thống tuyển chọn quan lại bằng thi cử hoàn toàn không được người Nhật áp dụng.

Trên bình diện cư dân và đặc trưng văn hoá, những nét tương đồng của Việt Nam và Nhật Bản thể hiện ở chỗ cả hai cộng đồng đều thuộc chủng Mongoloid và có chung yếu tố Nam á.

Văn hoá truyền thống của cả hai dân tộc đều hình thành trên nền tảng sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên những đặc trưng như tính cộng đồng cao, trọng kinh nghiệm, tuổi tác, kinh nghiệm đều có nhiều nét tương đồng. Cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa nên Nho giáo, Đạo giáo và nhiều chuẩn mực Trung Hoa có thể tìm thấy trong văn hoá cả hai nước.

Tuy nhiên, tính chất đa dân tộc của cộng đồng cư dân Việt Nam rất khác với đặc điểm thuần chủng của người Nhật. Mặt khác sự trội vượt của yếu tố phương Nam và sự thiếu vắng hoàn toàn hoạt động không du mục của cư dân Việt và tính trội yếu tố phương Bắc với sự hiện diện của kinh tế du mục trong một thời kỳ lịch sử của Nhật Bản đã dẫn tới sự khác biệt đáng kể trong hai nền văn hoá. Nếu như ở Việt Nam, ảnh hưởng từ dưới lên là đặc trưng chủ đạo thì với văn hoá Nhật Bản ảnh hưởng từ trên xuống lại là xu hướng chi phối.

Việt Nam không có quốc đạo trong khi đó ở Nhật Bản đạo Shinto được coi là quốc giáo. Sự khác biệt trong văn hoá còn thể hiện ở tính cách ứng xử của hai dân tộc. Một bên là mềm mỏng, linh hoạt, dễ thích ứng, một bên coi trọng nguyên tắc, kỉ luật. Trong bảng giá trị đạo đức, người Việt trọng hiếu còn người Nhật thì trọng tín.

Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam được xác định vào cuối thời Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2500 – 2700 năm. Như vậy là tương đối sớm. Tuy nhiên đây không phải là kết quả của một quá trình phân hoá xã hội sâu sắc mà trên cơ sở phát triển nhất định của các tiền đề kinh tế xã hội, những tác động khách quan của nhu cầu sản xuất và chống xâm lấn đã đẩy nhanh quá trình này. Ngay sau khi ra đời, nhà nước Văn Lang và sau đó là Âu Lạc đã phải liên tục đương đầu với quá trình bành trướng xuống phương Nam của các đế chế Trung Hoa. Đây là điểm khác biệt lớn của lịch sử Việt Nam so với Nhật Bản. Từ giai đoạn văn hoá Yayoi (thế kỷ III TCN – III SCN), kỹ thuật luyện kim và nghề trồng lúa nước du nhập vào Kyushu đã tạo nên bước nhảy vọt trong lịch sử Nhật Bản. Cùng với sự phát triển về kinh tế, phân hoá xã hội trở nên ngày càng sâu sắc. Vào giữa thế kỉ I SCN, tầng lớp Shucho (thủ lĩnh) giàu có xuất hiện. Sau đó hàng loạt Kuni (một loại hình nhà nước sơ khai) được hình thành, trong đó mạnh nhất là nước Wa. Ngay sau khi thành lập, vào năm 57 SCN, nước này đã xin thần phục nhà Hán mở ra một thời kỳ phát triển theo quỹ đạo của văn minh Trung Hoa.

Về các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử, mặc dù đã từng tồn tại nhiểu kiểu loại nhà nước khác nhau, nhưng xu hướng chủ đạo là sự thắng thế của hình thức nhà nước trung ương tập quyền. Dưới thời Lý-Trần (1009 – 1400), mô hình “tập quyền thân dân” tồn tại gần 4 thế kỷ. Cả thế kỷ XV là thời kỳ thịnh trị của mô hình “tập quyền quan liêu” và thế kỷ XIX là thời kỳ thống trị của mô hình “tập quyền chuyên chế”. Duy có giai đoạn từ năm 1600 đến 1789 trong bối cảnh chiến tranh phe phái triền miên, ở đàng Ngoài tồn tại một thiết chế khá đặc biệt với sự tồn tại song song hai chính quyền: triều Lê trên danh nghĩa và Chúa Trịnh (chính quyền quân sự) nắm thực quyền.

Ở Nhật Bản, từ thế kỷ VII, dưới tác động của mô hình cai trị của nhà Đường, Nhật Bản cũng cố gắng xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên hoàng. Tuy nhiên từ thế kỷ X, chính quyền trung ương suy yếu vì các vị Kokushi do chính quyền trung ương cử đến đứng đầu Kuni ngày càng có nhiều trang viên (Shoen) do được tặng biếu.

Trong thời kỳ này hình thức xin thầu khai khẩn đất hoang (Myo) rất phát triển. Người trúng thầu gọi là Tato. Người nhiều ruộng gọi là Daimyotato. Những người này có rất nhiều Samurai (người hầu cận) làm cơ sở cho việc hình thành lực lượng vũ trang riêng. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới những cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến địa phương và sự hình thành thể chế Mạc phủ (Bakkufu) từ năm 1192 và kéo dài cho đến tận cải cách Minh Trị (1868).

Những điểm tương đồng về tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có thể thấy ở 3 điểm:

– Cùng chịu ảnh hưởng từ mô hình Nho giáo của Trung Hoa

– Đều chú trọng pháp luật

– Đặc biệt là thiết chế hai chính quyền ở Việt Nam từ 1600 đến năm 1789 và thiết chế Mạc phủ ở Nhật Bản từ 1192 đến 1868.

Sự khác biệt thể hiện ở chỗ:

– Việt Nam luôn thiết lập được thiết chế tập quyền mạnh còn ở Nhật Bản, chính quyền ở các địa phương mới là thế lực chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Thể chế Mạc phủ chỉ có thể khống chế địa phương về mặt quân sự.

– Do cần tới một đội ngũ quan lại hùng hậu, các chính quyền phong kiến Việt Nam bắt đầu từ triều Lý (1076) đã tiến hành tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài, từ đó hình thành một hệ thống lưỡng ban (văn và võ). Chính quyền phong kiến Nhật Bản chưa bao giờ áp dụng hệ thống này. Vì vậy tầng lớp sĩ ở Nhật Bản chính là các Samurai văn võ kiêm toàn.

Trong quá trình tiếp xúc với văn hoá ngoại lai, Việt Nam có ưu thế về vị trí địa lý. Và trên thực tế đã tiếp thu không ít những giá trị từ những nền văn hoá khác. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng, ứng xử truyền thống của người Việt với văn hoá ngoại lai thường bắt đầu từ sự hoài nghi, rồi sau đó buộc phải chấp nhận nhưng tìm mọi cách cải biến theo chuẩn mực của mình. Trong khi đó, do hoàn cảnh lịch sử và những đặc trưng văn hoá khác biệt, người Nhật luôn cho rằng ở ngoài Nhật Bản có rất nhiều giá trị văn hoá cao hơn, nếu tiếp thu được sẽ tạo cho văn hoá của họ những bước nhảy vọt (kỹ thuật đúc đồng, lúa nước, các chuẩn mực văn minh Trung Hoa…), vì vậy ứng xử truyền thống của người Nhật là xác định đâu là đỉnh cao rồi cố chí học theo. Điều này còn bao hàm cả việc sau khi nhận ra một mô hình nào đó đã lỗi thời, họ sẵn sàng từ bỏ để đến với những chuẩn mực cao mới. Đó là trường hợp Nhật Bản quay lưng lại với mô hình Trung Hoa sau khi chiến tranh thuốc phiện chấm dứt với thắng lợi của người phương Tây. Từ đây chuẩn mực mà người Nhật quyết chí noi theo là văn minh phương Tây.

1. Ta thường nói đến sự tương đồng văn hoá giữa Việt Nam và Nhật Bản (đồng văn, đồng chủng). Điều này đúng vì cả hai dân tộc đều có những giá trị chung của châu á lấy nghề trồng lúa nước làm nền tảng kinh tế, đều chịu ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa và xét trên nhiều khía cạnh cụ thể cũng có thể tìm ra những điểm tương đồng, Chẳng hạn như sự tồn tại hai chính quyền quân sự và dân sự trong một thời kỳ lịch sử. Đấy là cơ sở thuận lợi trong quá trình giao lưu, hợp tác và học hỏi lẫn nhau.

2. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng sự tương đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản lớn tới mức có thể dùng chuẩn mực của nền văn hoá này để suy ra những đặc điểm tương tự ở nền văn hoá kia. Chẳng hạn như tính cách nông dân trồng lúa nước của Việt Nam hoàn toàn không thể dùng để quy chiếu tính cách nông dân Nhật Bản.

3. Để có thể học tập và mở rộng hợp tác, nhất thiết phải có những nghiên cứu cụ thể và sâu sắc. Điều này không chỉ đúng với trường hợp Việt Nam và Nhật Bản mà còn đúng với các trường hợp khác. Nói rộng ra về sự tương đồng và khác biệt văn hoá của hai khu vực Đông á và Đông Nam á cũng cần tính tới việc phải xem xét thật cụ thể từng trường hợp và từng tác nhân dẫn tới sự tương đồng và khác biệt đó.

GS.TSKH Vũ Minh Giang

1. Chỉ số duyên hải được tính bằng công thức: ISCL = å A / å L (Tổng diên tích tự nhiên chia cho tổng chiều dài đường bờ biển). ở Nhật Bản ISCL ” 13, Việt Nam ” 106, có nghĩa là 1 km đường bờ biển chỉ che phủ tương ứng với mỗi nước là 13 km2 và 106 km2 diện tích lục địa. Theo đó, chỉ số ISCL càng thấp thì tác động của biển tới văn hoá càng mạnh.

2. Trong một số sách địa lý của Nhật Bản có nhắc đến châu thổ sông Ota, tức vùng có thành phố Hiroshima, nhưng thực ra đấy chỉ là nói về đặc trưng thành tạo chứ quy mô bồi tụ và chất lượng phù sa của vùng này không giống với châu thổ ở các nơi khác trên thế giới.

3. Thực ra Nhật Bản đã từng có những mỏ khoáng sản lớn như đồng, bạc, vàng… nhưng tất cả hầu như nhưng đã khai thác hết từ thế kỷ XVII.

So Sánh Văn Hoá Việt Nam Với Văn Hoá Nhật Bản

thời đại mới TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

 

Số 8  - Tháng 7/2006

 

Một cách nhìn mới về văn hoá Việt Nam thông qua việc so sánh với văn hoá Nhật Bản

Nhân đọc Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá của Vĩnh Sính

Vương Trí Nhàn Hà Nội, Việt Nam

        

Qua người hiểu mình là một trong những con đường nhận thức được nhiều người công nhận là cần thiết và “có triển vọng”, tức có khả năng tạo nên hiệu ứng có giá trị đích thực đối với những chủ thể đang muốn tự hiểu về mình.

Nhưng lâu nay ở Việt Nam, việc làm này có nhiều chỗ khó. Do những lý do thuộc về địa lý và lịch sử, dân ta thường ít đi rộng ra ngoài mảnh đất sinh sống, từ đó những hiểu biết của mỗi chúng ta về những xứ sở khác, những con người khác, thường thiếu hệ thống thiếu toàn diện, không đủ giúp ta có dịp tốt để đối chiếu so sánh. Mặt khác ta chưa sẵn sàng muốn tái khám phá bản thân. Ta quá tự tin, và tưởng sự mình biết về mình đã quá đủ, không mấy ai ngồi tính xem cần đi đâu thêm, hỏi thiên hạ thêm điều gì nữa. 

May thay, vào những ngày này, những hạn chế ấy có điều kiện để khắc phục. Người Việt có mặt trong khắp thế giới hòa nhập vào đời sống khoa học quốc tế, từ đó có dịp nhìn về quê hương mình sáng rõ hơn.

Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá[1] là một tập sách có nội dung khá phong phú. Có bài khái quát Vị trí lịch sử của Trung quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản hoặc đề cập tới Trục giao lưu văn hoá Nhật Bản Trung quốc Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.  Có bài giới thiệu về các nhân vật của lịch sử Nhật như Fukuzawa Yukichi và Asaba Sakitarô, những người mở đầu nền mậu dịch Nhật Việt như Suminokura Ryooi và Yoichi. Có bài so sánh những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ với những đề án có tính cách khải mông của những học giả trong hội trí thức Meirokusha. Có bài giới thiệu tác phẩm cổ điến văn học Nhật như bản dịch Lối lên miền Oku của Matsuo Bashô.

Đằng sau những câu chuyện cụ thể ấy, theo ý tôi, phần nội dung có tính chất nền tảng của tập sách lại là những nhận thức của tác giả về một số khía cạnh cấp bách của văn hoá Việt Nam, quá trình nhận thức này được tiến hành thông qua việc so sánh với quan niệm về những vấn đề đó ở Nhật Bản.

rút ra từ Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá. Nếu cách đọc của tôi không trùng với cách đọc của nhiều người, thậm chí không trùng với cách đọc mà chính tác giả đề nghị, thì xin cũng được coi là điều bình thường.

Mối quan hệ giữa lòng yêu nước và  nhu cầu chung sống với thế giới

Một trong những bài viết quan trọng nhất của tập sách này là dành để đề cập tới “Quan niệm về độc lập quốc gia của Việt Nam và Nhật Bản thông qua trường hợp Phan Bội Châu và Fukuzawa”.

Xuất phát từ nhu cầu mở cửa đất nước trong thời đại toàn cầu hoá, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam gần đây đã trở lại với tình hình đầu thế kỷ XX, trong đó có trường hợp Phan Bội Châu và phong trào Đông Du do Phan khởi xướng. Nhưng cách chúng ta giới thiệu còn chung chung và cũ. Hoặc nói nhiều tới các hoạt động hơn là tìm hiểu tư tưởng Phan Bội Châu. Hoặc cũng đề cập tới những quan niệm có tính cách mạng, chẳng hạn tư tưởng dân chủ mà Phan tiếp nhận được, song không đi vào phân tích cụ thể, trong mối liên hệ với các quan niệm thiết yếu khác. Còn trong Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá, Vĩnh Sính có điều kiện lần tới những vấn đề cơ bản đặt ra với cả xã hội ta đầu thế kỷ XX. Ông bắt đầu từ quan niệm về quốc gia của nhà cách mạng Việt Nam, và lấy nhà tư tưởng hàng đầu của nước Nhật là Fukuzawa để so sánh.

Theo cách trình bày của Vĩnh Sính, đặc điểm của lòng yêu nước ở Fukuzawa (1834-1901) là tính chất lý trí của nó. Lòng yêu nước ấy được thận trọng chuyển hoá vào trong công việc suy nghĩ và nghiên cứu. Fukuzawa quan niệm : Khi người nước ngoài tới, trước tiên ta phải tìm hiểu họ, xem họ như thế nào, có gì khác mình giống mình, tại sao họ lại đến được nước mình. Phải thấy về lâu dài, một nước thả nào cũng tìm được tiếng nói chung với các nước khác trên thế giới. Cái gì mình chưa biết thì phải học, học để trở nên văn minh. Công thức tóm tắt “ Phương sách giữ gìn độc lập không thể tìm đâu ngoài văn minh… Độc lập quốc gia là mục tiêu và nền văn minh quốc dân là phương tiện để đạt được mục tiêu đó” (tr. 152).  

Từ trường hợp của Fukuzawa,Vĩnh Sính đưa ta quay trở lại soi tỏ trường hợp Phan Bội Châu. Trong khi chăm chú vào công việc cấp bách, Phan ít có cái nhìn rộng ra ngoài. “Phan không bao giờ có ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp”, “Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa chủ quan.” ( tr. 299 ). Ông không nhận chân được tình hình chính trị phức tạp và đa dạng của thế giới cận đại cùng những nguyên nhân đã đưa Nhật Bản và các nước phương Tây lên địa vị phú cường. Ngay đối với nước Nhật mà ông muốn cậy nhờ, sự hiểu biết của ông cũng “sơ sài, chủ quan và nông cạn” (tr. 148). Ông sẽ chẳng lặn lội đi đâu, nếu ở trong nước mà cứu được nước. Với ông kẻ thù đến là đánh, dùng biện pháp gì để đánh cũng được, bất cứ giá nào cũng chấp nhận miễn là thành công. Trong bức tranh toàn cảnh về một đất nước Việt Nam như Phan mong muốn, điều quan trọng là nhất thiết không có cường quốc bảo hộ, ngoài ra các vấn đề quan hệ đối ngoại không được đặt ra.[2]

Trong khi Fukuzawa chủ trương chấp nhận trật tự thế giới lúc bấy giờ và từng bước canh tân Nhật Bản theo mô hình các nước phương Tây, thì Phan Bội Châu có xu hướng thiên về ảo tưởng, và cả sự manh động, với hy vọng “đảo ngược thời cuộc” (tr. 143 -144). Lòng yêu nước ở ông có phần đơn giản. Nó dựa trên tình cảm hơn nhận thức. Đúng hơn có thể mượn lời Phan Châu Trinh[3] mà nói thẳng Phan Bội Châu là một nhà đại hào kiệt “có lòng thương nước” nhưng đã “không biết cái đạo thương nước” (tr. 302 ).  Nguồn gốc của những thất bại của Phan một phần bắt nguồn từ đấy chăng ? Nhưng chẳng phải là nhờ thế, nó lại có ích cho chúng ta hôm nay như một vết xe đổ phải tránh?

Không khó khăn gì lắm, có thể tìm ngay ra được rất nhiều nhân tố để bảo rằng nhà khai sáng Nhật Fukuzawa có gì đó may mắn hơn Phan Bội Châu: Đất nước Phù Tang không bị rơi vào ta kẻ xâm lược, mà chỉ có vài hiệp ước bất bình đẳng buộc phải ký. Và người dân của đất nước ấy đã trải qua nhiều cuộc tiếp xúc khôn ngoan, nhiều bước giác ngộ sâu sắc để có sự trưởng thành trên nhận thức, cũng như bản thân Fukuzawa sớm có dịp tìm hiểu văn hoá nước ngoài và các mối quan hệ quốc tế một cách khoa học.  Còn với Phan Bội Châu, dân trí thấp kém là một tình trạng có thật, nếu cứ chờ dân trưởng thành thì không bao giờ giải quyết được công việc. Những hạn chế của Phan chính là hạn chế của dân tộc khi chưa chuyển sang thời hiện đại.

Những liên hệ với tình hình trước mắt

   Cần nhớ là bên cạnh lòng yêu nước theo kiểu kịch liệt và thiên về bạo động của Phan Bội Châu, đương thời còn có lòng yêu nước trước tiên đặt vấn đề phải nâng cao dân trí học hỏi phương Tây rồi hãy làm tiếp, một cách yêu nước mới mẻ và khó khăn mà Phan Châu Trinh là đại diện.

   Nghĩa là cách nghĩ như của Phan Bội Châu không phải là định mệnh.

   Trong khi đó thì cho tới hôm nay, nhiều người chúng ta lại gần như chỉ chấp nhận một cách nghĩ như thế và xem nó là duy nhất đúng. Lòng yêu nước bị chúng ta tuyệt đối hoá.Ta chỉ cho nó có một cách hiểu. Ta xem nó thiêng liêng nên không cho phép ai được bàn thêm, mọi sự bàn bạc đều bị xem là báng bổ có lỗi. “Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ nông cạn, vô trách nhiệm”: Một cách nói rất dứt khoát như thế – Fukuzawa đã viết trong cuốn Khuyến học – đối với chúng ta dễ gây sốc. Yêu nước thì bao giờ cũng tốt đẹp chứ làm sao lại có thứ yêu nước hàm hồ nông cạn và vô trách nhiệm? – ta nghĩ đơn giản vậy. Tóm lại, ta để cho lòng yêu mến và kính trọng với Phan Bội Châu bao trùm tất cả dẫn đến suy tôn một chiều, mà không tìm cách nhận thức và đánh giá lại, và tìm ra cái cách yêu nước mà thời đại đang đòi hỏi.[4]  Mỗi khi cần đặt Phan Bội Châu bên cạnh Phan Châu Trinh thì bao giờ cảm tình của chúng ta cũng nghiêng về Sào Nam, và nhiều người lại còn có cái nhìn gọi là “mang nhiều thông cảm” với sự ngây thơ của Tây Hồ (!).

    Ở đây có một lý do sâu xa. Nửa thế kỷ qua, tư tưởng của Phan Bội Châu là một trong số không nhiều những tư tưởng chi phối sự vận động của xã hội Việt Nam. Nay là lúc những mơ ước cháy bỏng của Sào Nam đã được thực hiện. Nghĩ lại về ông, người ta cho rằng ông chỉ thất bại vì không biết tổ chức quần chúng. Chứ đúng ra Việt Nam giành được độc lập một phần là nhờ kiên trì tư tưởng của ông. Từ đó khái quát lên, cách hiểu về lòng yêu nước của Phan trở thành một di sản chỉ cho phép nói tới với niềm tự hào và lời hứa nhất nhất tuân theo. Bảo rằng nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử có thể rất yêu nước nhưng vẫn “không biết cái đạo thương nước” thì nhiều người sẽ giãy nẩy lên,và sẵn sàng hạ một câu xanh rờn “về yêu nước thì không ai phải dạy cho người Việt”. Vâng, về căn bản, đó là những ý nghĩ thường trực trong ta! Có thể có một lúc nào đó, một số chúng ta cũng bắt đầu mang máng cảm thấy rằng yêu nước theo kiểu ấy ngày nay là không đủ nữa. Nhưng chết nỗi nó là cả một kỷ niệm đẹp, là tuổi trẻ oai hùng của cộng đồng và người ta không muốn tự làm phiền mình, không muốn nghĩ lại mọi sự. Ngay cái chỗ mà Phan Bội Châu về sau phản tỉnh, tự cho là mình sai, và người sau nên rút kinh nghiệm để tránh (Vĩnh Sính đã dẫn ở tr. 302), thì chúng ta vẫn cứ ngần ngại, không dám vạch rõ sự thật. Bởi Phan thời đang hoạt động giống chúng ta quá! Sự dừng lại của Phan lúc ấy góp phần củng cố sự trì trệ của chúng ta hôm nay.[5]

      Như thế đấy, tuy không nói ra một cách rành mạch, nhưng đằng sau các dòng chữ, có cảm tưởng là cái thực trạng của nhận thức và tâm lý sau chiến tranh được Vĩnh Sính hiểu khá kỹ càng. Ở chỗ nhiều nhà nghiên cứu chỉ biết ca ngợi một chiều và lảng tránh đi vào thực chất, thì ông đi tiếp. Bằng cách đó, Vĩnh Sính cho thấy sự có mặt của ông là cần cho mọi người. Từ thực tế Nhật Bản, ông giới thiệu với chúng ta một tinh thần yêu nước theo nghĩa hiện đại, nó là thứ tình cảm được soi rọi dưới ánh sáng của lý tính, tức là được đặt trong mối quan hệ với một quan niệm mới mẻ về độc lập quốc gia. Thứ nữa, đây không phải là thứ lý tính với nghĩa tư biện hoặc ra vẻ uyên bác mà là thứ lý tính thâu tóm được bản chất để trở thành tinh hoa của đời sống.  Cần chú ý rằng khi nói về Fukuzawa, Vĩnh Sính ghi nhận đây là con người “vừa yêu nước nồng nhiệt vừa có những nhận thức thực dụng sắc bén” (tr. 149 ), thực dụng với nghĩa “ không câu nệ bởi những lý tưởng chính trị hay ý thức hệ xa vời để lỡ mất thời cơ” (tr. 151). Lời đề nghị của tác giả Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá đã quá rõ, vấn đề chỉ còn ở chỗ chúng ta có nghe ra hay không thôi.

 Về một khía cạnh tâm lý dân tộc đang là rào cản cho quá trình hòa nhập của Việt Nam với thế giới

   Ngoài trường hợp Fukuzawa nói trên, một người Nhật khác được giới thiệu trong tập sách tương đối kỹ là Shiba Ryôtarô (1923-1996). Theo cách nói của Vĩnh Sính, ông là một trong những tác giả đại diện cho nước Nhật và một trong những người viết sử có ảnh hưởng nhất ở Nhật. Ông có viết riêng một cuốn sách ở đó quá trình lịch sử Việt Nam được phân tích khá sắc bén. Trong một nhận xét ngắn gọn rằng ở Việt Nam, “làng xã vẫn là một đơn vị xã hội có tầm quan trọng hơn nhà nước (tr. 280), người ta nhận ra một nhân tố gốc, nó quy định trình độ phát triển của xã hội chúng ta, nó là nguyên nhân cắt nghĩa nhiều thành công cũng như thất bại của chúng ta hôm nay. Trên đường đi vào tâm lý dân tộc, nhà nghiên cứu Nhật không quên ghi nhận người Việt có một số căn bệnh chưa biết bao giờ mới chữa nổi, như cái tình trạng thiếu tinh thần hợp tác với nhau để làm việc chung; đặc biệt, theo Shiba Ryôtarô, một khuynh hướng của người Việt là “xem dân tộc mình ưu việt so với người dân tộc khác” (tr. 288 –289), do đó là một sự cản trở đối với việc học hỏi và chung sống với thế giới.

   Vậy là không chỉ quan niệm yêu nước mà nhiều vấn đề khác của văn hoá Việt Nam cũng được Vĩnh Sính mang ra so sánh với Nhật (hoặc với Hàn quốc). Việc giao thiệp với các nước ngoài, đúng hơn cái khả năng của một quốc gia trong việc tiếp nhận và làm giàu thêm cho mình bằng việc nhận thức tình thế và sẵn lòng chung sống với thế giới chung quanh – cái khả năng mà ông từng nói trong bài về Phan Bội Châu – được Vĩnh Sính trở lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức, cả bao quát lẫn cụ thể. Bao quát thì như trong bài viết về Minh Trị duy tân, ông khái quát là phải tri kỷ tri bỉ để đưa đất nước tiến lên đài văn minh. Cụ thể thì như ở trang 159, ông đưa ra một bảng thống kê về lượng sách Anh, Pháp, Hà Lan được dịch ở Nhật tính đến thập kỷ cuối cùng thế kỷ XIX, qua đó không chỉ cho thấy tình trạng tiếp thu văn hoá nước ngoài của Nhật, mà cả cái cách họ tiếp nhận nữa. Họ không chỉ dịch sách văn học, cụ thể là mấy cuốn tiểu thuyết thời danh, để ra vẻ mình cũng cập nhật tình hình, theo sát thế giới (!). Cái mà họ ưu tiên hơn là sách học thuật, tức các lĩnh vực của khoa học xã hội. Đối chiếu với tình hình Việt Nam vào thời Tự Đức, chúng ta đủ nhận ra sự chậm trễ là đến mức nào. Hơn nữa,đó không phải chỉ là kém cỏi trong số lượng mà là sự tụt hậu trong trong thang bậc của nhận thức, một điều đến nay vẫn còn tiếp tục diễn biến, và chưa biết bao giờ mới thay đổi được.

  Khác với các tiểu luận nói trên, Thiên kỷ III đang mỉm cười có dáng dấp mấy trang sổ tay, ở đó Vĩnh Sính chỉ kể lại ít điều ông ghi nhận được từ một hội nghị văn hoá châu Á tổ chức ở Hàn quốc vào tháng 11-1998. Song sự định hướng của Vĩnh Sính trước sau là nhất quán. Công thức mà ông đề nghị bao giờ cũng bao gồm hai vế (1) mở cửa ra với thế giới, và (2) biết mình biết người, chỉ có đủ hai vế đó thì mới bảo đảm cho tiến bộ. Chẳng hạn, khi bàn về giáo dục, trước hết ông nhắc lại ý kiến của học giả Trung Quốc Hà Phương Xuyên là vươn lên tầm thời đại, chuẩn bị hành trang cho cuộc giao lưu văn hoá. Rồi ngay sau đó ông dừng lại khá kỹ ở một thứ chủ nghĩa quốc gia văn hoá, hay gọi đích danh ra là một thứ “chủ nghĩa sô-vanh văn hoá” cần phê phán. Nguyên đây là một ý trong bài phát biểu của giáo sư Hàn quốc Park Seong Rae. Ông này thẳng thắn bàn về Hội chứng độc lập (independence syndrome) hay nói nôm na là “bệnh độc lập” của người đồng bào mình. Theo Park Seong Rae “nếu người Hàn quốc càng nhấn mạnh độc lập văn hoá của nước họ đối với các nước láng giềng (Nhật Bản và Trung Quốc) – chẳng hạn như cảm xúc nghệ thuật độc đáo của người Hàn quốc – thì chính bản thân họ lại càng phải chịu thiệt thòi nhiều hơn” (tr. 336). Liên hệ tới Việt Nam, Vĩnh Sính viết “Hội chứng độc lập trong con người Việt Nam cũng khiến đa số chúng ta thiếu tinh thần tiếp thu những điều hay cái lạ của các nền văn hoá khác, đồng thời chỉ thích nói về những gì hay ho ưu việt trong văn hoá Việt Nam hơn là nói ra những khuyết điểm của mình để sửa chữa. Hội chứng độc lập cũng khiến ta thiếu tinh thần khách quan khi buôn bán làm ăn hay giao lưu với nước ngoài, chỉ biết mình nhưng không biết người” ( tr. 337).

 Từ văn hoá thế kỷ XVII nói riêng tới văn hoá Việt Nam nói chung

Chu Thuấn Thủy (1600-1682) là một trí thức Trung Quốc sống ở thời nhà Minh bị Mãn Thanh xâm chiếm. Trong quá trình vận động phản Thanh phục Minh, có mấy lần Chu đã lưu lạc sang Việt Nam. Chính quyền đương thời tức các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã có lúc tính chuyện dung nạp ông, nhưng việc không thành, về sau Chu sang ở hẳn Nhật, trở thành một trí thức có công giúp đỡ cho việc đưa nước này vào một giai đoạn hưng thịnh. Trước tác của Chu Thuấn Thuỷ có nhiều, và chắc là phần chủ yếu là về nước Nhật. Tuy nhiên Chu cũng đã kịp ghi chép những ngày làm việc với người Việt, qua tập sách mỏng An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự về việc phục dịch ở An Nam 1657).

Tại sao Vĩnh Sính, với tư cách người dịch và giới thiệu An Nam cung dịch kỷ sự, đưa nó vào tập chuyên khảo của mình?[6] Hẳn là nhà nghiên cứu suốt đời sống xa quê của chúng ta tìm thấy ở đây nhiều điều mà bản thân ông cũng thường suy nghĩ? Cung cấp bức tranh xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới con mắt Chu Thuấn Thủy, Vĩnh Sính dường như muốn tìm cho những nhận xét của mình về văn hoá Việt (mà ở trên chúng tôi đã ghi nhận) một cơ sở lịch sử chắc chắn, do đó vấn đề đặt ra có thêm sức ám ảnh. 

Thực vậy, dưới con mắt Chu, xã hội Việt Nam hiện ra với những nhược điểm cố hữu và rất khó sửa chữa. Đó là một xã hội ít tiếp xúc với các xã hội bên ngoài. Ngay với thế giới Trung Hoa tưởng là quá quen thì chúng ta cũng không hiểu gì. Vừa gặp Chu, các nha lại địa phương đã giở trò hống hách, bắt người ta lạy, hỏi người ta bằng cấp gì, và nếu bảo rằng không có bằng cấp thì lập tức coi thường. Đúng là cái bệnh quá quê mùa và hay chấp nhặt mà ngày nay chúng ta còn bảo lưu khá đầy đủ! Đến như những câu chuyện mà các bậc gọi là thức giả bấy giờ quây vào hỏi Chu Thuấn Thuỷ thì phần lớn cũng là chuyện tầm thường. Sự non kém trong đời sống tinh thần của xã hội bộc lộ ở nhiều mức độ. Thứ nhất là lối học chỉ hớt lấy những cái lạ mà thiếu cơ sở học thuật, một sự ngây thơ trong tư duy khiến đương sự phải cười thầm “ Người quý quốc đọc những truyện như Tam quốc diễn nghĩa hoặc Phong thần mà cả tin là thật, cứ đến đây hỏi tôi hết chuyện này sang chuyện khác mãi không thôi. (Trong khi ấy thì lại bỏ qua không nghiên cứu những sách kinh điển như Ngũ Kinh, Tam sử.) Tựa như bỏ vàng ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa xanh mà trồng cỏ tranh, không hiểu cái gì phải lấy, cái gì phải bỏ” (tr. 393). Thứ hai là mê muội vì những trò mà nói theo thuật ngữ hiện đại là văn hoá tâm linh. “ Nhưng tại sao chư quân tử từ trên xuống dưới lại cứ đến đòi xem tướng số. Hỏi thật không nhằm chỗ, đến cuối cùng không biết là đã làm nhục Du (Tức CTT. Người coi tướng, người xem sao đông biết bao nhiêu mà đếm cho hết. Trong tứ dân (tức sĩ nông công thương – VS chú) và chín học phái (tức cửu lưu: Nho gia, đạo gia, âm dương gia vv… –  VS chú ), họ là hạng người thấp hèn nhất. So họ với nhà nho có đức nghĩa, khác xa một trời một vực, như đen với trắng, như nước với lửa, hoàn toàn tương phản” (tr. 392).

Dù đã kín đáo và lo phòng thân, cuối cùng người khách lạ cũng phải ghi trên mặt giấy cái nhận xét chung mà chúng ta ngày nay đọc lại có thể rất khó chịu, song phải nhận là không thể nói khác: “Tuy là nước nhỏ, nhưng khí kiêu ngạo, học vấn nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể tuyển chọn được người tài năng trong nước Dạ Lang của mình, nhưng không tránh được vẻ ếch ngồi đáy giếng” (tr. 401). Theo ghi chú của Vĩnh Sính, “nước Dạ Lang” nói ở đây là một ẩn dụ, bắt đầu từ câu chuyện có thật về một nước nhỏ thời Hán, trong giao thiệp với thiên hạ mắc bệnh hoang tưởng, từng tranh luận với các sứ giả Lang tự đại đã thành một thành ngữ có ghi cả trong các từ điển phổ thông như Tân Hoa, Tứ giác, chuyên để chỉ những cộng đồng quen sống biệt lập nên không có ý thức đúng đắn về vị trí của mình trên thế giới.

    

Đoạn kết : một đề nghị

Trong quan niệm của Phan Bội Châu, yếu tố đầu tiên của một nước Việt Nam mới là không có bóng cường quyền của nước ngoài. Trong khi đó, như nhiều tài liệu đã có nhắc và Vĩnh Sính cũng có ghi lại (tr. 300), trong một cuộc bút đàm, Lương Khải Siêu đã khuyên Phan “Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mả chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập. Thực lực của quý quốc là dân trí dân khí và nhân tài”.

  

Những nhận xét này không chỉ mới mẻ mà còn thiết thực và chắc chắn là rất cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay. Nó cũng là một trong những ý tưởng chính toát ra từ công trình nghiên cứu của Vĩnh Sính khi giới thiệu một số nhân tố trong giao lưu văn hoá Nhật Việt. Vốn đã có cách đánh giá riêng về tình hình trong nước, nên khi đi vào các hiện tượng văn hoá xứ người để làm việc so sánh, nhà nghiên cứu này luôn luôn tìm được những đồng minh sắc sảo và đáng tin cậy.

Nhân đây nhắc lại một xu thế chi phối cách nghiên cứu văn hoá ở ta. Nhìn chung các tác giả ít đi vào tìm hiểu mối quan hệ văn hoá Việt Nam với văn hoá nước ngoài. Ta không coi đây là một con đường để tự nhận thức. Cực chẳng đã, khi cần nói về những ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài tới văn hoá Việt Nam, chúng ta thường chỉ nói cho phải phép, để rồi sau đó không quên nhấn mạnh là người Việt rất thông minh, rất cởi mở, và nhất là rất bản lĩnh trong quan hệ với thiên hạ. Xét về mặt này, cuốn sách của Vĩnh Sính rẽ hẳn sang một lối riêng. Tác giả đã làm được cái việc mà nhiều người chỉ mang máng cảm thấy là cần thiết, nhưng không đủ sức đi đến cùng. (Ở tr. 342, khi nhắc tới việc Quán Chi Đào Trinh Nhất đã có bài giới thiệu Chu Thuấn Thủy trên báo Trung Bắc chủ nhật 21-9-1941, Vĩnh Sính lưu ý rằng đó là một tiếng chuông thức tỉnh độc giả về thái độ thủ cựu và bài ngoại của sĩ phu nước ta. Vĩnh Sính chỉ dừng lại ở thái độ sĩ phu nói riêng, nhưng tôi tưởng cần xem đây là một đặc điểm của xã hội Việt Nam nói chung.)

Một đặc điểm nữa thường thấy trong các công trình nghiên cứu giao lưu văn hoá là chúng ta chỉ thích nói tới những nền văn hoá lớn và có quan hệ với ta quá sâu sắc như văn hoá Trung Hoa và văn hoá Pháp. Còn với các nền văn hoá khác kể cả văn hoá các nước Đông Nam Á mà ta gần gũi về mặt địa lý, hoặc văn hoá Hàn quốc, văn hoá Nhật mà ta có nhiều điểm chung, thì mọi việc càng chểnh mảng, tài liệu quá ư nghèo nàn, làm cho lấy lệ, xưa đã vậy mà nay cũng vậy.Về phần Vĩnh Sính, ông có cái may mắn là giữa hai nền văn hoá Việt Nhật có nhiều mối giao lưu thật, và chỉ viết riêng về những sự kiện đó cũng đã rất hấp dẫn. Song ông không dừng lại ở các sự kiện bên ngoài mà để công tìm trong hoàn cảnh lịch sử của hai bên những hoàn cảnh tương tự, rồi phân tích cách giải quyết của mỗi bên, từ đó lý giải các đặc điểm dân tộc đã hình thành trong lịch sử. Trước mắt người đọc, hiệu ứng qua người hiểu mình được chứng nghiệm.

Hướng đi mà Vĩnh Sính đã mở ra, theo tôi cần được tiếp tục. Chẳng hạn, tôi ước ao lúc này có ai đó hiểu biết về lịch sử và văn hoá Thái Lan, thử tìm những mối tương đồng và dị biệt giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá Thái Lan. Tôi tin là khi làm việc này, một nhà nghiên cứu nghiêm túc có lòng lo lắng cho tình trạng văn hoá đương thời và muốn góp phần vào qúa trình tự nhận thức của dân tộc – một tác giả như thế có thể có nhiều phát hiện bổ ích, tương tự như trường hợp Vĩnh Sính. Nghiên cứu theo lối so sánh là lĩnh vực mà các nhà nghiên cứu khoa học xã hội người Việt đang sống ở nước ngoài có thể có nhiều đóng góp. Mỗi người thêm một phần công sức thì rồi quá trình tự nhận thức của xã hội Việt Nam mới được đẩy tới và tạo ra một bước ngoặt cần thiết.

 

 

[1] Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá của Vĩnh Sính giáo sư đại học Alberta, Canada, Nhà xuất bản Văn nghệ TP HCM và Trung tâm Nghiên cứu quốc học xuất bản, 2001 Những số trang ghi

Việt Nam hình ảnh một nước Việt Nam mới của phong trào Đông Du, in trong Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu, NXB Nghệ An và TT Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2005

[3] Đây là chữ Phan Châu Trinh đã dùng khi nói về Phan Bội Châu. Nguyên văn viết bằng chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt là “ hữu ái quốc chi tâm nhi bất tri sở dĩ ái quốc chi đạo ”. Dẫn theo bài viết của Vĩnh Sính Thử tìm hiểu ý nghĩa tác phẩm Pháp Việt liên hợp của Phan Chu Trinh, in trong Từ đông sang tây, NXB Đà Nẵng, 2005, tr. 142.

[4] Lấy một ví dụ sách Khuyến học của Fukuzawa đã hai lần được dịch ra tiếng Việt và in ra ở hai NXB khác nhau, một dưới cái tên Nhật Bản cách tân giáo dục thời Minh Trị ở nhà Chính trị quốc gia 1995, và một giữ nguyên tên Khuyến học ở nhà Trẻ, 2004. Lưu ý là chính câu nói trên “Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do, thì lòng yêu nước cũng hàm hồ nông cạn, vô trách nhiệm ” được đưa ra bìa 1 của bản in ở nhà Trẻ. Những tư tưởng của Fukuzawa đã bắt đầu được người Việt hôm nay hiểu đúng chăng, và chúng ta bắt đầu nghĩ khác đi về lòng yêu nước ? Song không hẳn vậy, theo sự ghi nhận được của chúng tôi thì cuốn sách gần như không được một tờ báo lớn nào nhắc nhở tới.

[5] Một ví dụ nữa. Theo Vĩnh Sính, “ Phan không đánh giá những khó khăn trong việc tiếp thu văn hoá và kỹ thuật nước ngoài đúng mức nên đâm ra quá lạc quan ” khi nói về tương lai (tr 142). Đọc lại một nhận định Phan viết trong Tân Việt Nam, và được Vĩnh Sính dẫn lại “ Việc học tập tinh thông nghề nghiệp ở các nước Anh Nhật Đức Mỹ nhanh cũng đến hai năm, noi theo đó chớ nên lấy khó ; việc học tập thành thạo các ngành binh công nông thương có nhanh cũng đến năm năm, ta chớ lấy làm lâu !” (cũng trang trên), chúng ta như bắt gặp chính sự ngây thơ và ảo tưởng ngự trị trong đầu óc nhiều người đương thời, ngay sau những ngày thống nhất đất nước 1975.

[6] Trước đó ông đã cho in thành một bản riêng, Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Tạp chi Xưa và nay xuất bản, 1999.

 

©  Thời Đại Mới

Trở về trang chủ Thời Đại Mới

So Sánh Sự Khác Biệt Văn Hóa Trung Quốc Và Việt Nam

Giới thiệu sơ lược về văn hóa Trung Quốc

Là một đất nước rộng lớn với sự đa dạng của các dân tộc, khó ai có thể nhìn nhận văn hóa Trung Quốc một cách chính xác. Văn hóa Trung Quốc được đánh giá là phức tạp nhất thế giới. Nó ảnh hưởng rất lớn đến những nước lân cận như Triều Tiên, Việt Nam và Nhật Bản.

Nơi đây là sự giao thoa của ít nhất 5 nền văn hóa mang những nét đặc trưng riêng biệt bao gồm: văn hoa du mục ở vùng sa mạc Tây Bắc, văn hóa mang tính chất Ấn Độ ở vùng Tây Tạng, văn hóa Đông Nam Á ở vùng Hoa Nam, văn hóa ảnh hưởng phương Tây ở ven biển Hoa Nam và văn hóa ở khu vực sông Hoàng Hà. Có thể nói rằng chính văn hóa ở lưu vực sông Hoàng Hà đã ảnh hưởng rất nhiều đến Việt Nam.

Tìm hiểu sự khác biệt văn hóa Trung Quốc và Việt Nam

Sự khác biệt về chữ viết

Chữ viết Trung Quốc còn nổi bật với cách viết thư pháp đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa đòi hỏi ở người viết rất nhiều yếu tố như cảm thụ, lực cầm bút, lực ngòi bút, thế cầm bút và cái hồn của người viết chữ. Trong khi cái đẹp của thư pháp Việt Nam nói riêng và tiếng Việt nói chung là cái đẹp về hoa tay được trao dồi. Ngày xưa ông cha ta tham gia khoa cử đều phải khổ luyện chữ viết rất khó khăn.

Thời Khổng Tử ở Trung Quốc, học trò phải học đến 6 môn: Lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số trong khi nhà Nho Việt Nam xưa hoàn toàn không có đủ điều kiện để học đầy đủ những bài học này.

Nếu văn hóa Trung Quốc mang tính quy phạm đặc biệt thể hiện trong khoa cử thì điều này không đúng với Việt Nam. Nước ta chủ yếu là văn hóa làng xã, do vậy Việt Nam truyền thống chỉ nằm ở khu vực gia đình, thôn xóm với quy chế không được thắt chặt như Trung Quốc.

Nghệ thuật hội họa

Người Trung Quốc rất xem trọng thư pháp. Một bức thư pháp có thể gọi là tranh. Người Trung gọi đó là tả họa (viết tranh). Những bức tranh thư pháp được mở ra xem dần chứ không phô bày như hội họa của những quốc gia khác. Công bút ở thư pháp được xem là đỉnh cao của hội họa phép thuật thư pháp của Trung Quốc.

Trong khi đó, hội họa Việt Nam lại cô cùng đơn giản khi dựa trên những chất liệu hiện có ở làng xã. Tranh Đông Hồ là một ví dụ. Có thể nói tranh Đông Hồ chính là kết tinh của làng xã truyền thống khi nó lấy đề tài, chất liệu vẽ hoàn toàn từ những thứ gần gũi với người dân. Không rắc rối và điều luật như Trung Quốc, nghệ thuật hội họa Việt Nam rất đơn giản và chân chất.

Nghệ thuật ẩm thực

Thức ăn Trung Quốc được chế biến rất cầu kỳ. Một ví dụ tiêu biểu đó chính là “ngũ long đại hội”, “Phượng hoàng chuyển cánh”,… được chế biến vô cùng cầu kỳ. Trong khi đó, ẩm thực Việt Nam lại khá đơn giản. Nhắc đến ẩm thực cầu kỳ nhất nhất theo chuẩn Việt Nam đó chính là ẩm thực cung đình Huế. Tuy nhiên, ẩm thực Huế thật sự không phải là cái chuẩn của cầu kỳ đối với Trung Quốc. Món Huế khác biệt ở chỗ nó làm sang những vật liệu nấu ăn thông thường mà thôi.

Văn hóa Trung Quốc đề cao cái vô

Khác với văn hóa Trung Quốc, văn hóa Việt Nam không tồn tại những thứ khiến người ta khiếp sợ. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rằng văn hóa Trung Quốc là nền văn hóa bất bình thường, một nên văn hóa không biết đến mức độ.

Nó không tuân theo những quy luật tự nhiên vốn có. Tất cả mọi thứ đều có thể xuất hiện trong nền văn hóa này. Từ thứ lớn nhất là Di Hoà Viên đến cái nhỏ nhất là những bài phú được khắc trên tấm ngọc nhỏ,… Cái vô bao trùm lên nền văn hóa Trung Quốc hoàn toàn trái ngược cái hữu trong văn hóa Việt Nam.

Cá tính trong nền văn hóa Việt Nam

Những trình bày ở trên không tránh khỏi những ý kiến cho rằng nền văn hóa Việt Nam vô cùng nhạt nhòa nhưng sự thật không phải vậy. Cái đặc biệt trong văn hóa Việt Nam chính là đỉnh cao của bình dị và gần gũi, nói không với cực đoan. Trong suốt quá trình phát triển của mình, văn hóa Việt Nam luôn mang trong nó bản chất riêng của đất nước, của dân tộc Việt Nam. Nó như một viên ngọc tinh khôi được mài giũa trong nội tại của dân tộc.Đây là nền văn hóa của chính Việt Nam chứ không phải là bản sao của bất kỳ nền văn hóa nào khác.

“Lực hấp dẫn” từ Trung Quốc

Đất nước cùng con người Trung Quốc thu hút nguồn đầu tư rất lớn từ nước ngoài. Nó được xem như một thị trường béo bở trong rất nhiều lĩnh vực. Nhắc đến hành trình vượt đại dương hoành tráng nhất 2019 không thể không nhắc đến Lionel Messi.

Văn Hóa Giao Thông Nhật Bản

Văn hóa giao thông Nhật Bản – những quy tắc chung

Tay lái bên phải, di chuyển bên trái: ở Nhật, các phương tiện giao thông xe cộ sẽ đi bên trái, người đi bộ đi bên phải. Để phù hợp với hướng di chuyển thì ghế ngồi của tài xế ở bên Nhật sẽ được thiết kế ở bên phải, điều này trái ngược với Việt Nam.

Không được phép rẽ khi có đèn đỏ: Ở Việt Nam khi có tín hiệu đèn đỏ, các phương tiện được phép rẽ phải. Ở Nhật thì ngược lại, việc rẽ trái/ rẽ phải khi có đèn đỏ là vi phạm luật giao thông.

Bắt buộc nháy đèn xi nhan khi muốn thay đổi làn đường: ở Nhật có quy định khắt khe về việc khi bạn muốn thay đổi làn đường/nhập làn đường mới. Tất cả các phương tiện tham gia giao thông bắt buộc phải nháy xi nhan trước 3 giây khi muốn nhập làn cùng các xe khác.

Người Nhật luôn quan niệm khi tham gia giao thông, không bấm còi, xe lớn phải ưu tiên xe nhỏ, và người đi bộ là được quyền ưu tiên nhất

Tất cả mọi người đều phải sử dụng dây an toàn: Thiết kế xe ở Nhật luôn có lắp dây an toàn cho cả người ngồi sau xe. Cần chú ý rằng việc thắt dây an toàn khi ngồi trên xe là bắt buộc, kể cả khi bạn đi taxi.

Tay lái bên phải, di chuyển bên trái: ở Nhật, các phương tiện giao thông xe cộ sẽ đi bên trái, người đi bộ đi bên phải. Để phù hợp với hướng di chuyển thì ghế ngồi của tài xế ở bên Nhật sẽ được thiết kế ở bên phải, điều này trái ngược với Việt Nam.

Ở Nhật có một hệ thống biển báo rất chi tiết hướng dẫn cho người tham gia giao thông và yêu cầu tất cả phải tuân theo hệ thống đèn tín hiệu và biển báo. Hệ thống biển báo bao gồm:

Tham khảo bài viết về cách cúi chào của người Nhật

Văn hóa giao thông dành cho người đi bộ:

Quy tắc dành cho người đi bộ ở Nhật Bản là phải tuyệt đối tuân thủ các tín hiệu đèn giao thông ngay cả khi bạn đang vội.

Với những nơi có vỉa hè, người đi bộ phải đi lên vỉa hè, nơi không có vỉa hè phải đi bên phải đường.

Không nên băng qua đường từ giữa các xe đang dừng và đậu lại

Tất cả các phương tiện giao thông đều phải nhường đường cho người đi bộ, phải luôn đảm bảo rằng người đi bộ đã đi lên vỉa hè an toàn rồi mới di chuyển tiếp.

Văn hóa giao thông dành cho người đi xe đạp

Luôn luôn tuân thủ hệ thống biển báo, đèn tín hiệu

Khi tham gia giao thông bằng xe đạp, bạn chỉ được phép đi 1 mình, tuyệt đối không được chở thêm người khác.

Người đi xe đạp phải đi bên phải đường, không đi song song cùng các phương tiện khác

Hạn chế đi xe đạp vào buổi tối, nếu có bắt buộc phải bật đèn/ gắn thiết bị phản quang để cảnh báo các phương tiện khác, tránh nguy hiểm

Văn hóa giao thông dành cho người lái xe máy/ô tô

Luôn luôn tuân thủ hệ thống đèn tín hiệu và biển báo

Người chưa lấy bằng lái xe/ người uống rượu bia thì tuyệt đối không được điều khiển phương tiện. Ở Nhật, lỗi lái xe khi trong tình trang say xỉn bị xử phạt rất nặng. Dù chỉ một lần bị phát hiện bạn có thể bị tước bằng vĩnh viễn, đồng nghĩa với việc sẽ không thể lái xe, và không có cơ hội hối lỗi.

Khi lên xe hơi, tất cả người lái xe, người ngồi sau xe đều phải thắt dây an toàn

Với người điều khiển xe máy, không được phép chở thêm người khác, chỉ được đi một mình.

Khi lái xe ô tô, không được sử dụng điện thoại.

Luôn chú ý nhường đường cho người đi bộ. Đặc biệt, gần đây tai nạn của người già ngày càng nhiều do đó, khi lái xe gặp người cao tuổi phải đặc biệt lưu tâm, chú ý an toàn.

Văn hóa giao thông ở Nhật Bản không chỉ được thể hiện ở cách các chủ phương tiện trực tiếp lái xe. Những nét văn hóa giao thông ấy còn được thể hiện khi họ tham gia các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, tàu điện ngầm, hay là đi thang cuốn…

Các chuyến tàu điện ở Nhật được chia làm hai loại: tuyến thông thường và tuyến cao tốc (tuyến tàu nhanh)

Tuyến tàu cao tốc chỉ dành cho loại tàu nhanh và dừng ở các ga lớn để tiết kiệm thời gian. Hình ảnh tàu cao tốc Shinkansen- chạy dưới chân núi Phú Sĩ phủ đầy tuyết trắng luôn là niềm tự hào của nước Nhật hiện đại.

Tùy vào từng loại tàu mà loại vé sử dụng cũng khác nhau.

Ví dụ: Khi lên tàu Futsu và tàu Kaisoku thì chỉ cần mua vé thường ( vé Futsu ), nhưng với tàu Kyuukou, Tokkyuu, Shinkansen thì ngoài vé thường còn phải mua thêm vé tương ứng cho loại tàu đó. Ở Nhật, hệ thống kiểm soát vé ở nhà ga là hoàn toàn tự động.

Ở bất kì ga tàu nào của Nhât cũng có lối đi riêng dành cho người tàn tật. Trên mọi con đường ở ga đều có một vệt sơn vàng, kí hiệu nổi, người khiếm thị có thể phân biệt đâu là đường dành cho mình,đi tàu mà không cần sự trợ giúp của người khác.

Chỗ ngồi trên tàu theo quy đinh ” ai đến sớm ngồi trước” tuy nhiên luôn có ghế ưu tiên cho người lớn tuổi, trẻ em, phụ nữ có thai, người khuyết tật…Chú ý không để hành lý lên ghế ngồi, hãy để hành lý lên giá để đồ.

Trong trường hợp để quên hành lý, bạn có thể liên hệ với nhà ga để cung cấp thông tin. Thông thường, gần như bạn sẽ nhận lại được hành lý của mình một cách nguyên vẹn

Thông thường trên tàu điện ngầm ở Nhật, mọi người sẽ hạn chết nói chuyện, giữ trật tự chung. Phần lớn là tranh thủ ngủ, đọc sách báo …

Có bất kì thắc mắc câu hỏi gì chứ rõ về giá vé,lịch trình, thời gian… bạn hoàn toàn có thể hỏi trực tiếp nhân viên nhà ga, họ luôn thân thiện và hướng dẫn hành khách chu đáo.

Tất cả tài xế taxi, hay xe bus ở Nhật đều là người lớn tuổi. ở Nhật quy đinh, chỉ những người trên 38 tuổi mới được lái xe chở khách nhằm đảm bảo tài xế đủ kinh nghiệm và trách nhiệm đảm bảo an toàn cho người ngồi trên xe.

Tài xế lái xe mà uống rượu bia sẽ bị phạt rất nặng, nhiều lái xe bus ở Nhật trước khi đoàn khởi hành đều phải trải qua bộ phận kiểm tra nồng độ cồn để đảm bảo sự an toàn cao nhất trên đường đi.

Cũng là một phần nhỏ trong cuộc sống hàng ngày, nhưng văn hóa đi thang cuốn của người Nhật cũng thể hiện phần nào văn hóa giao thông của nước Nhật hiện đại. Có những quy định khi đi thang cuốn ở Nhật, bạn có thể tham khảo như sau:

Những chia sẻ trên của chúng mình hi vọng giúp bạn tìm hiểu thêm được về những nét đặc biệt của văn hóa giao thông Nhật Bản. Qua đó mỗi chúng ta đều nhận ra được những điều làm nên một Nhật Bản hiện đại đông đúc nhưng không hề lộn xộn. Đó là: ý thức xếp hàng, mọi thứ luôn có trật tự và luôn luôn tôn trọng sự riêng tư của người khác…