So Sánh Văn Hóa Phương Đông Và Phương Tây / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Không Thể So Sánh Văn Hóa Phương Đông Và Phương Tây

Nếu anh Mark tìm hiểu lịch sử Việt Nam về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, anh Mark sẽ hiểu rằng xã hội Việt Nam trong một thời gian dài là chế độ mẫu hệ, trong đó vai trò của người phụ nữ trong gia đình là rất lớn. Điều đó ít nhiều vẫn được duy trì đến ngay nay, với nhiều người phụ nữ Việt Nam có vị trí lớn trong xã hội. Vì thế, khi nói phụ nữ Việt Nam khổ cực thì xin hãy đưa ra những cơ sở để so sánh.

Về việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, tôi xin nói rằng phần nhiều vì muốn mưu cầu một cuộc sống vật chất tốt hơn ở Việt Nam. Ngược lại, không ít đàn ông nước ngoài tìm đến phụ nữ Việt Nam là vì họ không có tiền để lấy vợ bản địa và thấy người phụ nữ Việt Nam có rất nhiều nét truyền thống như phục vụ và biết chiều chuộng họ hơn phụ nữ bản địa. Chẳng hạn như đàn ông Đức rất thích lấy vợ Thái Lan cũng một phần bởi lý do này. Nhưng đó chỉ là một vế của vấn đề tổng thể. Người phụ nữ Việt Nam khi lấy chồng ngoại cũng có rất nhiều cái khổ, chứ cũng không trọn vẹn, ví dụ như bất đồng ngôn ngữ văn hóa, lối sống…

Về lý do tại sao phụ nữ Việt Nam và châu Á thường theo chồng và nhà chồng, trong cuộc sống phương Tây, tính tự lập của mỗi người là rất lớn, con cái trưởng thành, lập gia đình thường sống riêng và bố mẹ cô quạnh ở trong viện dưỡng lão. Nhưng trong văn hóa phương Đông, chúng tôi sống trong quần thể gia đình lớn và người phụ nữ thường phải theo lề thói chồng và nhà chồng. Đây là điều đương nhiên, không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Á châu.

Điều quan trọng ngược lại bù đắp thiếu sót đó của người phụ nữ nằm ở chỗ mức độ “phải” đến đâu, chồng và nhà chồng đối đãi thuận lợi ngược lại nhằm bù đắp với người vợ thế nào. Vì thế, tôi muốn nói rằng văn minh phương Tây ở điểm này không phải là văn minh phương Đông do yếu tố văn hóa và giá trị tinh thần lâu đời. Vì thế, mối quan hệ trong gia đình và giá trị tinh thần ở các nước phương Đông thường cao hơn các nước phương Tây.

Ngoài ra, ví dụ về ngài thủ tướng Anh cho con bú, xin thưa rằng đàn ông Việt Nam và châu Á có cách thể hiện khác với con cái để thấy rằng nghĩa vụ chăm sóc con cái không phải chỉ riêng ở người phụ nữ. Đồng thời, các nước phương Tây có thể cho rằng phụ nữ hay con cái có quyền bình đẳng ngang với đàn ông, bố mẹ, để có thể đảm bảo rằng chỉ một cái bạt tai nhẹ khi nóng giận là có thể gọi đến cảnh sát thì đó là cái nhìn quá trần trụi, phá vỡ quy tắc đạo lý trong gia đình.

Tôi đưa ra quan điểm đó để nhấn mạnh rằng đàn ông không phải có quyền muốn làm gì cũng được, nhưng cũng không thể có chuyện con cái, phụ nữ muốn thế nào cũng được theo ý thích của mình. Đó là lý do tại sao trong nhà phải có nóc, trên dưới trật tự. Nếu như vợ anh “ghét” và muốn mọi thứ theo ý thích của mình thì đó không còn là cuộc sống gia đình mà là cuộc sống của những cá nhân tự do với nhau.

Trong hầu hết văn hóa phương Tây, người phụ nữ có vị thế rất lớn. Điều đó có được gắn liền với quá trình phát triển nền văn minh và tranh đấu quyền bình đẳng của nữ giới trong lâu dài. Đó là điều chúng tôi cũng muốn nhưng cũng không có thể thực hiện ngay được trong ngắn hạn do còn bị ràng buộc bởi các yếu tố văn hóa, lối sống, suy nghĩ, quan điểm, nhìn nhận và sự phát triển chung của xã hội.

Về quan điểm nếu người vợ cũng có con với chồng cũ, tôi không có ý kiến vì điều đó tùy nhìn nhận của mỗi người đàn ông. Đó là bởi vì đàn ông và phụ nữ do yếu tố sinh và tự nhiên cần có những vị trí khác nhau. Điều này lý giải đàn ông thường phải có trách nhiệm nhiều hơn trong việc kiếm tiền cho gia đình, ra chiến trường khi có chiến tranh nên rõ ràng trách nhiệm lớn hơn. Khi người phụ nữ cũng làm được như thế thì sự so sánh sẽ đem lại một câu trả lời giống nhau.

Với nhìn nhận như thế, sẽ thật là khiên cưỡng khi so sánh phụ nữ, đàn ông Việt Nam với nước ngoài do tồn tại nhiều sự khác biệt.

Văn Hóa Quản Lý Phương Đông Và Phương Tây: Những So Sánh Bước Đầu

Trong lĩnh vực quản trị nhân sự, hiện có những tranh cãi sôi nổi về những sự xung đột giữa các giá trị truyền thống của văn hóa quản l‎ý phương Tây và những giá trị về tinh thần, “giá trị chia sẻ” từ phần còn lại của thế giới, có hay không, việc giá trị phương Tây đã và đang phủ nhận tầm quan trọng của các nền văn hóa tinh thần trong một thế giới “phẳng” ngày nay. Bằng cách đi sâu vào phân tích “những tẳng băng chìm” của sự vận động xã hội và con người, bài viết sẽ phân tích những khái niệm quản trị nhân sự truyền thống và hiện đại của phương Tây, so sánh những khác biệt giữa mô hình của phương Đông và phương Tây, và nêu ra sự cần thiết cho một cách tiếp cận hài hòa nhằm hoàn thiện những hoạt động quản trị nhân sự ở cả cấp tổ chức doanh nghiệp cũng như quản lý vĩ mô. Bài viết cũng khái quát những cơ sở l‎ý luận từ nhiều học giả trên thế giới, và những ví dụ thực tế từ các quốc gia và doanh nghiệp để trình bày quan điểm của mình. Châu Âu sẽ là đối tượng được tập trung phân tích sâu trong nghiên cứu này.

2. Cơ sở l‎ý luận và phân tích

Kinh tế và chính trị là hai động lực chính giúp cho xã hội loài người phát triển mạnh mẽ từ kỷ nguyên nông nghiệp đến công nghiệp, từ công nghệ đến tri thức. Kết quả của quá trình này là toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, quá trình giảm bớt các quy định luật lệ, sự thay đổi về công nghệ, hay sự vận động tự do của các luồng tài chính toàn cầu…

Để đơn giản hóa quá trình này, có thể ví hiện tượng “toàn cầu hóa” giống như lời của nhà văn vĩ đại Lep Tolstoy trong tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình”: “nó bắt đầu từ phương tây, tích tụ lại, phát triển ngày càng lớn hơn”, và cuối cùng lan truyền ra khắp thế giới nhanh như một virus máy tính. Tuy nhiên, trên chặng đường lan tỏa của mình, nó bắt đầu vấp phải rất nhiều sự chống cự từ những “cây Oliu” cũ kĩ đại diện cho hệ thống những giá trị truyền thống của lịch sử, địa lý, và ngôn ngữ riêng của mình (Friedman, 1999).

Chính những khác biệt về địa l‎ý, văn hóa và hệ thống tôn giáo, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều giữa các khu vực và các quốc gia đã biến thế giới phát triển thành hai hệ thống tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau: giá trị phương tây (gồm có các nước Châu Âu, Bắc Mỹ) và giá trị phương Đông hay phần còn lại của thế giới (gồm các nước châu Á, Châu Phi, Ấn Độ…). Tác giả sẽ xem xét khái quát về hai trường phái này dựa trên cơ sở lý luận của quản trị nhân sự so sánh và hợp nhất.

Theo Bratton (2003), có khá nhiều quan điểm khác nhau về phong cách quản l‎ý giữa các công ty của châu Á, Châu Phi, Châu Âu và Bắc Mỹ đối với chiến lược quản trị nhân sự của họ, “nghiên cứu quản trị nhân sự so sánh” vì vậy sẽ tập trung làm rõ “bản chất bên trong” và “nguyên nhân” dẫn đến sự khác biệt này giữa các vùng địa l‎ý quốc gia.

2.1 Văn hóa quản l‎ý phương Tây:

Nói chung, văn hóa quản l‎ý phương Tây vốn được dựa trên nền tảng các giá trị “Châu Âu cổ đại”, thể hiện ở các mặt của đời sống bao gồm các quy tắc xã hội, tục lệ truyền thống, niềm tin tôn giáo, và hệ thống chính trị. Khái niệm truyền thống về văn hóa Châu Âu gắn liền với các đế chế Châu Âu cổ đại với những “tiến bộ công nghệ và kinh tế vượt bậc” và hàng loạt những ‘cuộc xung đột quốc tế đẫm máu” ở thế kỉ 20 và trước đó.

Phần nào đúng khi nói rằng, văn hóa quản lý phương Tây có xu thế “truyền bá và phổ biến văn hóa theo kiểu định hướng nhà nước, có tính chất đặc biệt, thực chứng, áp đặt từ trên xuống, hướng theo mô hình Bắc Âu, làm việc đúng giờ như máy móc và tiếp cận phổ quát”.

Quan điểm này bắt nguồn từ thời kì “kỉ nguyên của cá nhân” khi xã hội châu Âu chứng kiến những nhà chính trị sử dụng các công cụ quản l‎ý để vận động những đám đông bằng cách khéo léo liên kết những sản phẩm sản xuất hàng loạt theo dây chuyền với những nhu cầu vô thức bên trong của con người (Curtis, 2002). Như đã đề cập ở trên, động lực phát triển của xã hội Châu Âu là kinh tế, định hướng thị trường, và cạnh tranh khốc liệt. Con người chỉ được đối xử và coi như những “cỗ máy vui vẻ” hay “đơn vị kinh tế” để đáp ứng những mục đích kinh tế và chính trị. L‎ý thuyết và quan điểm này vẫn còn được sử dụng trong phương pháp quản l‎ý của Châu Âu hiện đại, khi các cá nhân chỉ được coi như những “đơn vị kinh tế”, “có thể thay đổi được”, hay “hoán đổi được” trong những cỗ máy là các tổ chức kinh tế ngày nay (Elkin, 2007). 

Do mục tiêu tối cao là lợi nhuận và kết quả, phương Tây đã xây dựng những mô hình kinh doanh rất hiệu quả tập trung vào xử l‎ý công việc và kết quả đầu ra. Những khái niệm quản l‎ý như “quản lý cá nhân” hay “làm việc nhóm” đã đươc áp dụng rất thành công nhằm sử dụng nguồn lực hiệu quả, tối đa hóa hoạt động kinh doanh, tạo ra nhiều lợi nhuận cũng như giảm thiểu các chi phí hoạt động.

Tóm lại, văn hóa quản lý của châu Âu lấy động lực phát triển chính là kinh tế và chính trị. Điểm mạnh của mô hình này là tăng trưởng về lợi nhuận kinh tế, thích ứng nhanh nhạy với thay đổi của thị trường, phân phối hàng hóa và dịch vụ rộng rãi cho người tiêu dùng, tuy nhiên mặt thiếu sót của mô hình này là chưa chú trọng đầy đủ đến các khía cạnh an sinh xã hội và con người.

2.2 Văn hóa phương Đông và phần còn lại của thế giới:

Có những quan điểm tiếp cận khác về cách thức quản l‎ý từ phần còn lại của thế giới, như tại Châu Á, Châu Phi, hay Ấn Độ… Ưu tiên tối cao của văn hóa phương Đông là tập trung vào “toàn bộ con người” như  “suy nghĩ, cơ thể, xúc cảm và tinh thần” và các mối quan hệ của con người với cộng đồng xung quanh hơn là những mục tiêu đơn thuần về lợi nhuận kinh tế. Họ gọi tên chúng rất khác nhau, nhưng đều xoay quanh những giá trị cốt lõi của con người, và ‎ý nghĩa về cái tôi, cái bản thể trong đời sống xã hội.

 

Chẳng hạn với một lịch sử lâu đời, và sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo, người Ấn Độ coi trọng những gắn kết truyền thống, cảm xúc con người và duy trì những mối quan hệ dài lâu trong cộng đồng (Chaudhuri, 2010), như những giá trị về gia đình, sự khiêm nhường, tôn trọng lẽ phải và kính trọng những người lớn tuổi, sự hài hòa về tinh thần, ít ganh đua, tinh thần hợp tác…Ngoài ra, họ quan niệm bản chất công việc là để phục vụ cho “thượng đế”, không nhằm mục đích về kinh tế cá nhân mà để tăng trưởng những giá trị về tinh thần. Trong môi trường làm việc, người Ấn Độ quan tâm tới sự đồng cảm về cảm xúc hơn là năng suất công việc. Đối với họ, tầm quan trọng của tổ chức là để đáp ứng nhu cầu xã hội và bày tỏ sự tự tôn giữa các cá nhân với nhau.

Quan điểm “đạo Khổng” của người Trung Quốc chia sẻ nhiều điểm tương đồng với người Ấn Độ, họ đề cao lễ nghĩa, các giá trị thuộc về gia đình, cách đối nhân xử thế trong cộng đồng. “Một người muốn nhận được sự tôn trọng của mọi người, trước hết phải biết tôn trọng người khác”. Đạo Khổng dựa vào hai nguyên l‎ý căn bản: “Nhân” (humanism), “Lễ” (propriety). Theo người Trung Quốc, chủ nghĩa nhân văn được thể hiện một cách sâu sắc bằng lễ nghĩa. Và chủ nghĩa cá nhân cực đoan bỏ qua suy nghĩ, tình cảm của người khác được coi như bất lịch sự hay vô lễ ở Trung Quốc, thì điều này dường như lại được coi như là khá bình thường tại xã hội Bắc Mỹ. Trong môi trường kinh doanh, một nghiên cứu quy mô kinh doanh hộ gia đình cho thấy, những giá trị văn hóa của Trung Quốc đã được thể hiện rất rõ ràng trong thực tiễn các hoạt động quản lý và tổ chức như việc trao quyền quyết định cao, thực hành phong cách lãnh đạo gia trưởng, chủ nghĩa tập thể và làm việc theo nhóm mạnh, và quản lý theo định hướng gia đình hay “lấy gia đình là trọng tâm” (Wah, 2001).    

Châu Phi cũng có một thuật ngữ tương tự là “Ubuntu” với hàm nghĩa “chân giá trị con người” và “chia sẻ cộng đồng”, giá trị này đã bám rễ lâu đời vào các giá trị văn hóa Châu Phi. “Umuntu ungumuntu ngabantu” được tạm dịch là “con người chỉ thực sự trở thành con người đầy đủ thông qua những người xung quanh” có nghĩa là sự tồn tại của một con người phụ thuộc vào mối quan hệ xã hội của người đó với cộng đồng. Dưới ảnh hưởng những quan điểm như vậy, người Châu Phi không quan niệm làm việc chỉ vì đồng tiền, mà chân giá trị, lòng tự trọng, bổn phận, và tự do là những giá trị cần phải được thỏa mãn trước tiên. (Elkin, 2007)

Tóm lại, những giá trị cốt lõi của văn hóa phương Đông hay phần còn lại của thế giới dựa trên yếu tố tinh thần, những phương diện thuộc về con người và gắn với cộng đồng. Điểm mạnh của nó là sự phát triển đầy đủ các khía cạnh thuộc về con người, bằng cách nuôi dưỡng, chăm lo về tâm hồn, cảm xúc, tinh thần và sự tự do của mỗi cá nhân, tuy nhiên điểm yếu chính là thiếu đi tính kỉ luật, tư duy cụ thể, lạm dụng trực giác và kinh nghiệm chủ quan.

2.3 So sánh giữa phương Đông và phương Tây

Để có thể dung hòa hai giá trị phương đông và phương tây, đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu đâu là “căn nguyên cơ bản” dẫn đễn những sự khác biệt như vậy giữa hai nền văn hóa lớn của nhân loại. Bài viết sẽ phân tích hai “căn nguyên cơ bản” nhìn từ góc độ của kinh tế học và hệ tư tưởng.

2.3.1 “Văn hóa nông nghiệp” phương Đông và “văn hóa công nghiệp” phương Tây: một góc nhìn từ kinh tế học   

Một trong những sự khác biệt căn bản giữa văn hóa phương đông và phương tây theo góc nhìn của kinh tế học là “sự đúng giờ”. Hầu hết người châu Á (ngoại trừ Nhật Bản) và Châu Phi đều không có thói quen “đúng giờ” trong cả công việc lẫn đời sống hàng ngày. Điều này được giải thích một phần là do dấu ấn của nền kinh tế và xã hội nông nghiệp tự cung tự cấp, tiểu nông, vốn đã ăn sâu vào lề lối tập quán sinh hoạt của người châu Á (hay Châu Phi) từ hàng ngàn năm qua.

Tại phương Tây, xã hội xem “đúng giờ” như là một đức tính cần thiết của mọi công dân, và “đồng hồ”, một sản phẩm tiêu biểu đại diện cho nền kinh tế công nghiệp cũng bắt nguồn từ phương Tây. Trong xã hội công nghiệp và phương thức sản xuất hàng loạt theo dây chuyền, người phương Tây ‎ý thức rất cao về giờ giấc và quản l‎ý thời gian. Người này đúng giờ, người kia cũng cần bắt kịp và cả guồng máy đều vận hành theo khung thời gian chuẩn mực. Một mắt xích chậm chạp có thể dẫn đến những hậu quả to lớn cho cả hệ thống, vì thế sự chính xác về thời gian được đòi hỏi rất cao, thậm chí đến từng giây.  

Trong xã hội phương tây, ta có thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh đồng hồ hiện diện ở mọi nơi. Nhịp điệu cuộc sống hối hả, đường cao tốc, ăn nhanh, café nhanh ngày nay của xã hội phương tây chính là hệ quả của một nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Đồng hồ Big Ben, biểu tương của nước Anh là đại diện cho nền công nghiệp đã sớm phát triển tại quốc gia phương Tây này. Ở trường học, từ bé học sinh đã được rèn luyện tính đúng giờ, và khả năng hoàn thành bài tập đúng hạn là một trong những yếu tố rất quan trọng để đánh giá sự thành công của trẻ trong tương lai.

Ngược lại, tại các quốc gia Châu Á, Châu Phi hay Nam Mỹ, con người lại bị ảnh hưởng rất lớn bởi nhịp điệu tự nhiên, điều này có nguyên nhân ảnh hưởng từ phương thức sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp. Hàng nghìn năm qua, họ không cần “đồng hồ” mà làm việc và nhịp điệu sinh hoạt dựa trên những thay đổi của tự nhiên hay thời tiết, bởi mặt trăng và mặt trời (Quốc, 2010). Có một câu ca dao của Việt Nam đã mô tả đầy đủ tính chất này của nhà nông như sau: “trông trời, trông đất, trông mây; trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”. Họ thức dậy lúc gà gáy, ra đồng lúc mặt trời lên, nghỉ trưa lúc mặt trời đứng bóng, và về nhà nghỉ ngơi ăn tối trước lúc mặt trời lặn. Yếu tố về địa lý khí hậu nóng, lạnh cũng là một nguyên nhân dẫn tới xu hướng lối sống gần với thiên nhiên hơn của người phương Đông so với người phương Tây.

 

 

(Liu, 2010)

Cách nhìn từ kinh tế học này lí giải thích vì sao người phương Đông có xu hướng sống gần với thiên nhiên hơn, còn người phương Tây thường tuân thủ quy chuẩn về thời gian một cách nghiêm khắc hơn. Điều này dẫn đến những hệ quả khác nhau: người phương Đông thường sử dụng cảm xúc, tư duy trực giác và kinh nghiệm chủ quan trong khi người phương Tây thường sử dụng tư duy logic, luận chứng và thực nghiệm.

2.3.2 “Chủ nghĩa cộng đồng” phương Đông và “chủ nghĩa cá nhân” phương Tây: một góc nhìn từ hệ tư tưởng

Trong bộ phim “giải cứu binh nhì Ryan”, Ryan là con trai của một gia đình Mỹ mà cha và hai anh trai vừa mới hy sinh trong khi phục vụ quân đội tại thế chiến thứ hai. Cùng thời điểm đó, Ryan bị rơi vào một trận địa nguy hiểm và nếu anh ta hy sinh, thì sẽ không còn ai sống sót để nối dõi cho dòng họ Ryan. Người mẹ của Ryan cùng một lúc nhận được tin xấu của chồng và con, và vì thế sẽ không chịu được nỗi đau nếu Ryan cũng phải hy sinh. Lãnh đạo quân đội Mỹ đã quyết định cử một tiểu đội bằng mọi giá phải cứu được binh nhì Ryan về với gia đinh. Kết thúc phim, Ryan được cứu sống và gần cả tiểu đội đã hy sinh vì sự sống của một binh nhì mới nhập ngũ. (Spielberg, 1998)

Ở nửa bên kia quả địa cầu, tại cuộc chiến tranh Việt Nam, trong một trận chiến ác liệt của quân đội Mỹ tại thị xã Trà Lĩnh, hàng trăm người dân và bộ đội Việt Nam đang trú ẩn trong hang Hòn Kèm. Lính Mỹ vẫn tìm kiếm và bắn phá ác liệt bên ngoài hang, thì đứa bé mới ba tháng của bà Năm bỗng cứ khóc thét lên. Mọi người sợ tiếng khóc sẽ làm lính Mỹ phát hiện ra nơi trú ẩn và tính mạng của hơn 200 người dân và bộ đội sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm. Vào một đêm đông năm 1969, người mẹ này đã hy sinh đứa con rút ruột của mình để cứu sống hàng trăm người dân vô tội (Dien, 2008).

Hai câu chuyện đều kể về chiến tranh, và sự hy sinh cao cả của con người nhưng mang những ý nghĩa rất khác nhau về hệ tư tưởng từ hai phía. Trong xã hội chủ nghĩa tập thể, con người coi trọng những cá nhân có thể sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình vì lợi ích của cả tập thể (Elkin, 2007), ngược lại tại xã hội phương Tây, vai trò của cá nhân được đặt lên trên hết, nhu cầu và ước muốn của cá nhân phải được thỏa mãn trước tiên.

2.4 Sự cần thiết cho một cách tiếp cận hài hòa

Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Friedman đã nhấn mạnh rằng vấn đề khó khăn nhất của bất kì một quốc gia hay cá nhân là có thể tìm kiếm được sự cân bằng lành mạnh nhất giữa việc gìn giữ, bảo tồn những giá trị gốc rễ, gia đình và cộng đồng” và “thực hiện những gì cần thiết để tồn tại trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay”. Họ cần phải cố gắng làm ra chiếc Lexus tốt hơn cũng như gìn giữ những cây Oliu cổ kính của mình (Friedman, 1999).

Sau khi thấy rõ sự khác biệt căn bản, nguyên nhân, cũng như điểm mạnh và điểm yếu của từng mô hình quản lý, chúng ta thấy sự cần thiết phải xây dựng một mô hình hài hòa bằng cách kết hợp những điểm tinh túy nhất của cả hai giá trị phương Đông và phương Tây trong một thế giới đa cực ngày nay.

Trở lại câu hỏi rằng phương tây có xu hướng “truyền bá và phổ biến văn hóa theo kiểu định hướng nhà nước, có tính chất đặc biệt, thực chứng, áp đặt từ trên xuống, hướng vào mô hình Bắc Âu, làm việc đúng giờ như máy móc và tiếp cận phổ quát”. Điều nay là đúng một phần ở kỉ nguyên công nghiệp và công nghệ tại châu Âu, tuy nhiên văn hóa quản lí hiện đại ngày nay đặc biệt là những giá trị châu Âu cũ đã được thay đổi thành những mô hình mới chú trọng hơn vào các yếu tố xã hội với con người và lấy phúc lợi xã hội làm trung tâm. Các mô hình này khác xa với các mô hình “phương tây khác” như tại Mỹ hay Nhật Bản (Bowden and Mulnix, 2005). Tại châu Âu, có ít nhất bốn mô hình xã hội như: “dân chủ xã hội” (các nước Bắc Âu), “bảo thủ” (các nước Châu Âu lục địa), “tự do” (Anh quốc), “gia đình trung tâm” (các nước khu vực Địa Trung Hải như Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) và khu vực Đông Âu (một số nước mới chuyển đổi mới gia nhập EU), trong đó mô hình “dân chủ xã hội” của Bắc Âu đang thể hiện tình ưu việt hơn cả trong viêc xóa đói nghèo, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cũng như duy trì sự phồn thịnh và phát triển của xã hội. Đặc điểm nổi bật của mô hình này dựa vào ba trụ cột vững chắc: phúc lợi xã hội, hệ thống y tế đảm bảo, phổ cập giáo dục với nhiều ưu tiên vào “phát triển nguồn lực con người” (Dinh, 2010).

Thách thức của châu Âu là làm sao vẫn giữ vững được bản sắc quốc gia và thúc đẩy sự đa dạng của cả khối châu Âu, cân bằng được “những cơ hội hội nhâp” và “sự đa dạng” vốn có của cả khối (Boone and Bosch, 1997).

Năm 2008 được Ủy ban châu Âu đặt tên là “năm châu Âu đối thoại liên văn hóa” với các hoạt động tăng cường sự đa dạng văn hóa, thúc đẩy quá trình cùng hợp tác và chung sống, khuyến khích công dân Châu Âu tích cực hơn nữa trong một liên minh châu Âu ngày càng hội nhập (Europa, 2008).

2.5 Lý thuyết: “đặt con người vào trung tâm”

Sự kết thúc của thời kì công nghiệp và sự ra đời của thời kì kinh tế tri thức đã dẫn đến những thay đổi căn bản trong lý thuyết và thực tiễn của quản trị nhân sự phương Tây. Đã có sự chuyển dịch dần từ phong cách quản lý nhân sự “cứng” sang quản l‎ý nhân sự “mềm”, từ “cách thức phương tiện” khi xem con người chỉ đơn thuần là các “đơn vị kinh tế” tiến tới “chủ nghĩa phát triển nhân văn”, cộng tác tin cậy và phát triển các kĩ năng cá nhân.

        

Chiến lược quản lý nhân sự hợp nhất hiện đại bao gồm hai yếu tố: kiểm soát (mức độ kiểm soát) và nguồn lực (mua lại và phát triển). Tùy thuộc vào mức độ sử dụng tỉ lệ giữa hai yêu tố trên, sẽ có bốn loại chiến lược nhân sự phù hợp là “trách nhiệm”, “hợp tác”, “mệnh lệnh”, và “cổ điển”. Mỗi một loại chiến lược sẽ được sử dụng phù hợp với từng loại tổ chức và ngành nghệ nhất định.

Trong đó, chiến lược quản trị nhân sự “cổ điển” hay “truyền thống” như đã được phân tích ở trên, sử dụng phương thức “cứng”, bỏ qua những khía cạnh về con người, theo đó công tác quản trị nhân sự của tổ chức doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào giám sát và kiểm soát người lao động, và “mua lại” (tuyển dụng trực tiếp) từ thị trường lao động hơn là “tạo ra” (đầu tư vào phát triển và đào tạo) nguồn nhân sự của mình (Bratton and Gold 2007)  .

Mô hình khác là chiến lược quản trị nhân sự có “trách nhiệm”, trong đó tổ chức dựa vào sự phát triển năng lực nhân sự từ các nguồn lực bên trong và không kiểm soát chặt chẽ nhân viên của mình trong một “tổ chức học hỏi và chia sẻ”

Trong mô hình này, Phương Tây hiện đại một phần nào đó đã bổ sung những yếu tố rất quan trọng như “đạo đức kinh doanh”, “yếu tố tinh thần”, “những giá trị đa văn hóa” trong lý thuyết về lãnh đạo và quản lý của mình.

Đầu tiên, ở mức độ cá nhân, con người sẽ làm việc tốt hơn và sáng tạo hơn nếu họ nhận ra được những ‎ỹ nghĩa về giá trị cuộc sống thông qua quá trình nhận thức và phát triển bản thân (Elkin, 2007). Những nội lực tinh thần thúc đẩy từ bên trong sẽ giúp cho cá nhân tìm được ‎ý nghĩa trong công việc của họ, biết cách cải thiện mối quan hệ với đồng nghiệp, và truyền cảm hứng về các trách nhiệm công việc. Trong bộ phim “Ngày thứ 3 với Morrie”, cận kề với cái chết, người học trò đã nhận ra được ý nghĩa đích thực của cuộc sống khi phát hiện ra những giá trị của sự tự nhận thức, tình yêu thương với mọi người, học cách chấp nhận với cái chết hơn là đề cao những mục đích về giá trị vật chất (Alborn, 1997).  

Ở mức độ tổ chức, theo Elkin (2007), một nghiên cứu cho thấy những công ty nào tập trung vào “những giá trị cốt lõi” (những niềm tin phi kinh tế và văn hóa trao quyền), không quá chú trọng vào những “mục tiêu kinh doanh”, sẽ có nhiều cơ hội thể vượt qua những đối thủ cạnh tranh hơn. Thêm vào đó, những tổ chức với “sự thiết kế cơ cấu tập trung vào con người” sẽ đạt được sự hài lòng lớn hơn, cam kết lớn hơn, hiệu quả năng suất lao động cao trong hệ thống của mình. (Neal 1999 và Elkin 2007)

Trong một nghiên cứu khác về thiết kế tổ chức cho thấy mặc dù những giá trị tinh thần không được thể hiện trực tiếp trong bất kỳ một lý thuyết về tổ chức quản lý nào, và không ảnh hưởng tới thực tiễn hoạt động của tổ chức trong ngắn hạn, nhưng chúng dần tạo ra sự chuyển hóa tổ chức tại một ngưỡng quan trọng như nhiều người thường gọi đó là “sự kỳ diệu”, “ơn chúa” hay “phép màu” (Neal 1999). Những giá trị vô hình đặc biệt này, bằng nhiều cách, sẽ tác động mạnh mẽ tới sự thành công của tổ chức trong triển vọng dài hạn. Hơn nữa, vai trò về giá trị cá nhân trong thiết kế tổ chức có ý nghĩa quan trọng vì những mối quan hệ và sự tương tác của con người mới chính là những hoạt động cốt lõi trong bất kỳ một mô hình tổ chức chính thức hay phi chính thức nào. Cơ cấu tổ chức nội bộ và đạo đức kinh doanh cũng được liên kết chặt chẽ và được thiết kế rõ ràng để thu hút và giữ chân nguồn nhân lực có chất lượng, thúc đẩy hiệu quả công việc của nhân viên. Xét trên khía cạnh kinh tế, chính “hành vi đạo đức” cũng mang lại những lợi ích kinh tế hay “yếu tố bên ngoài có tác động tích cực” dựa vào danh tiếng của công ty, giúp nâng cao giá trị thương hiệu, tạo ra sự khác biệt và nâng cao nhu cầu của sản phẩm lên đáng kể (Brickley, 2002).

Cũng có thể nhận thấy, bên cạnh những mục tiêu kinh tế, giá trị tinh thần đã được thể hiện rõ trong những tuyên ngôn về tầm nhìn và nhiệm vụ của nhiều tổ chức lớn, chẳng hạn như các tập đoàn Tata, Infosys (Ấn Độ) với những cam kết của họ đối với hỗ trợ xã hội, xây dựng môi trường làm việc thân thiện, và những cơ hội được học tập của nhân viên…(Elkin, 2007). Một ví dụ khác nữa là người khổng lồ về công nghệ thông tin, như IBM từ lâu đã nổi tiếng về với những giá trị về sự đa dạng về lực lượng lao động, những giá trị chia sẻ, cơ hội phát triển bình đằng, sự cân bằng cuộc sống và công việc hay thực thi luật về người đồng tính (GLBT) tại môi trường làm việc.

3. Kết luận:

Những mặt mạnh và yếu của hai nền văn hóa lớn đã được đưa ra xem xét và phân tích. Có thể trên thực tế phần nào văn hóa quản lý của phương Tây cổ điển thường phổ biến những giá trị châu Âu và phủ nhận những giá trị tinh thần từ các nền văn minh khác trên thế giới. Văn hóa quản lý phương Tây hiện đại đã tiếp nhận, học hỏi và bổ sung những giá trị quan trọng này trong quan điểm quản lý, cả ở lý thuyết và trên thực tiễn tổ chức doanh nghiệp.

“Thế giới phải là đa cực”, phát biểu của tổng thống Nga mang nhiều ý nghĩa, nhưng có một thông điệp chung về một sự “cân bằng lành mạnh hơn” giữa những chiếc Lexus hiện đại và những cây oliu cổ kính, giữa động lực kinh tế và động lực tinh thần, giữa những giá trị thực chứng của châu Âu và giá trị tinh thần của phương Đông trong một thế giới toàn cầu hóa mạnh mẽ như ngày nay.

 

1. Alborn, M., (1997) Tuesday’s with Morrie film, Random House, United States

2. Boone, P, and Van Den Bosch, A.J (1997) Discerning a key characteristics of a European Style of Management, International Studies of Management and Organization, Vol. 26, No.3, 109-127

3. Bowden, R., Mulnix, M., (2005), Business Education: a view of U.S and European Management Styles, Problems and Perspectives in Management 2, 123-134.

4. Bratton J., Gold J., (2007) Human resource management, chapter 2, 4th Edition, Palgrave Macmillan, London

5. Brickley, A.J., Smith W.C., (2002) Zimmerman L.J, Business ethics and organization architecture, Journal of Banking & Finance, USA

7. Chaudhuri, A., (2010) Yes: Indian Style of Management – Theory ‘i’ management.

8. Curtis, A., (2002) The century of the self, Part 1, BBC Four, United Kingdom

9. Dien, C.V., (2008) A night mare in Hon Kem cave, Tuoi Tre News, chúng tôi Vietnam

10. Dinh C.T., (2010), European Social Model, Institute for European Studies Vietnam

11. Elkin, G., Sharma, R. (2007)People, organization, management: lessons for the industrialized world from the rest of the world, Global Business and Economics Review, 9(4), 395-417

12. Enote, (2010), Western Culture, Enote.com

13. Europa, (2008), European Year of Intercultural dialogue 2008, Europa,

14. Friedman, L.T., (1999) The Lexus and the Olive tree, Farrar, Straus, and Gioux, New York

15. Hughes C.M.J., (2002) HRM and universalism: is there one best way?, International Journal of Contemporary Hospitality Management 14(5), Emerald

16. Liu Y, (2010) Ost trifft West, Exhibition East meets West differences of Geman and Chinese, Yang Liu Design [http://www.yangliudesign.com]

17. Neal, J.A., Lichtenstein, B.M.B., & Banner, D. (1999) Spiritual perspectives on individual, organizational and societal transformation, Journal of Organizational Change Management, 12, 175-185

18. Quoc, H.N., (2010) Vietnamese people and “Clockwork” translated, Voice of America, VOAnews.com

19. Spielberg S., (1998) Saving Private Ryan film, DreamWorks, United States

20. The Associated Press.,(2008) Russia President: “The world must be multi-polar”The Associated Press,

21. Wah, S.S., (2001) Chinese Culture values and their implications to Chinese Management, Singapore Institute of Management 

22. Yum, J., (2007) Confucianism & Communication: Jen, Li and Ubuntu, China Media Research, 3(4)

 

 

5. Phụ Lục:Ost trifft West (Yang Liu)

 

Source: http://www.yangliudesign.com/

 

1. Quan điểm (Đông- Tây)2. Lối sống      

 

3: Thời gian                       4: Xếp hàng    

  5: “Cái tôi”                        6: Trong nhà hàng       7: Stomatch Ache                     8: 3 bữa ăn       9: Xe cộ                                 10: Thời gian tắm       11: Thời tiết và cảm xúc       12: Đồ mới      

13: Giao tiếp                         14: Thể hiện         15: Ngày Chủ nhật trên đường 16: Trong bữa tiệc       

17: Du lịch                        18: Trình bày ý tưởng       19: Người già                    20: Người lãnh đạo      

 

 

 

21: Thị hiếu                      22: Trẻ con       23: Sự hiểu biết lẫn nhau giữa phương Tây và phương Đông

 

 

Những Điều Khác Biệt Của Văn Hóa Phương Đông Và Phương Tây

Do sự hình thành và kiến tạo các mảng đất mà thế giới hình thành nên 2 lục địa chính thuở sơ khai có người sinh sống đó chính là Châu Âu và Châu Á. Những phần lục địa còn lại thường là nơi ở của nhiều bộ lạc, dân tộc thiểu số… và chỉ được biết đến từ sau thế kỉ thứ 10 khi được các nhà thám hiểm phát hiện ra. Chính vì điều này mà thế giới dần hình thành nên 2 luồng văn hóa chính là phương Đông và phương Tây. Có gì khác biệt giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, mời bạn tìm hiểu thêm.

1. Văn hóa phương Đông

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh lâu đời và phức tạp nhất trên thế giới, đại diện cho văn hóa nước Trung Quốc cho đến ngày nay cũng như là có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa phương Đông nói chung, bao gồm cả Việt Nam.

Văn minh Ai Cập chính là nền tảng của đất nước Ai Cập ngày nay, nhưng đã được phân tách thành Châu Phi. Tương tự với văn minh Ấn Độ chính là nền tảng văn hóa của Ấn Độ ngày nay.

2. Văn hóa phương Tây

Nền văn minh phương Tây hình thành từ đầu thiên niên kỉ I TCN ở các khu vực ven biển Địa Trung Hải, đất đai khá cằn cỗi nhưng rất đa dạng về khoáng sản. Tộc người Anglo Saxon chính là nhân tố đầu tiên để hình thàn nên người da trắng về sau.

Văn hóa phương Tây thay đổi qua nhiều giai đoạn thời gian như là Phục Hưng, Cải cách kháng cách, Thời kỳ khai sáng và được lan rộng vào thời kỳ chủ nghĩa thực dân.

3. Sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và phương Tây

Những đặc trưng của 2 nền văn hóa này có thể được khắc họa rõ nét giữa những đặc điểm khác biệt sau đây:

– Văn hóa phương Tây dạy người ta các sống tự lập, phân tác trong khi người phương Đông hướng đến việc dựa vào nhau để tạo nên thể đoàn kết.

– Tại phương Tây mọi người đều bình đẳng, không phân biệt địa vị, giai cấp. Trong khi tại phương Đông, tư tưởng có quyền lực, địa vị là ở trên tất cả vẫn tồn tại đến ngày nay.

– Cái tôi của người phương Tây rất lớn, văn hóa phương Đông luôn đề cao tính khiêm nhường, thu nhỏ bản thân để thích ứng với xã hội.

– Khi thể hiện bản thân, văn hóa phương Tây luôn tự tin, mạnh mẽ và đứng lên nói điều mình muốn trong khi người phương Đông thường né tránh, thể hiện bản thân một cách khiêm nhường.

– Mọi thứ tại phương Tây đều được đơn giản hóa, họ ăn uống đơn giản để tiết kiệm thời gian, các mối quan hệ rành mạch, rõ ràng, thể hiện rõ cảm xúc của bản thân và nói lên điều mình muốn. Người phương Đông thường né tránh bộc lộ cảm xúc, không thể hiện quá nhiều quan điểm cá nhân, thường có khá nhiều mối quan hệ phức tạp.

– Văn hóa phương Đông đề cao tính tự do, dân chủ, không cần phải quá đặt nặng tiêu chí kính trên nhường dưới, ngôi xưng tương đồng, thái độ lịch sự như nhau đều được. Văn hóa phương Đông đặt nặng tính lễ nghi, tín ngưỡng và đạo lý, phảo biết tôn trọng người lớn tuổi, người có địa vị.

– Văn hóa phương Tây tôn trọng luật lệ, biết tuân thủ quy định, xếp hàng khi mua sắm. Văn hóa phương Đông bất quy tắc, không biết xếp hàng, ít khi tuân thủ nội quy.

– Văn hóa ẩm thực phương Tây đơn giản, khá nhàm chán và không tốt cho sức khỏe. Văn hóa ẩm thực phương Đông đa dạng, nhiều nguyên liệu, hương vị và cách thức chế biến.

– Người phương Tây luôn tôn trọng giờ giấc, đả bảo đúng giờ hẹn. Người phương Đông thường trễ giờ.

Theo dulichvietnam.online tổng hợp

So Sánh Giữa Chế Độ Phong Kiến Phương Đông Và Phương Tây

– Xã hội hình thành ba giai cấp: giai cấp chủ nô (gồm các quý tộc thị tộc trong công xã, bộ lạc, liên minh bộ lạc; những thương nhân tích lũy được nhiều của cải và bắt người sản xuất phải phụ thuộc họ về kinh tế; những tăng lữ nắm cả vận mệnh tinh thần và vật chất của cư dân; một số ít là nông dân, bình dân hoặc một số ít thợ thủ công do tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất đã dần dần giàu lên); giai cấp nông dân, thị dân nghèo, họ có chút ít tài sản; giai cấp nô lệ (tù binh chiến tranh và nông dân, thị dân nghèo bị phá sản).Những lợi ích căn bản giữa chủ nô và nô lệ đối lập nhau, vì thế mâu thuẫn giai cấp hết sức gay gắt tới mức không thể điều hòa được., đấu tranh giai cấp diễn ra quyết liệt. Các hình thức tổ chức xã hội trong xã hội nguyên thủy không thể giải quyết được thực trạng đó và nó không còn phù hợp để tồn tại. Giai cấp chủ nô cần phải có một tổ chức mới để củng cố và tăng cường địa vị của mình. Đó là bộ máy bạo lực, gồm các quan chức hành chính, tòa án, nhà tù, quân đội, cảnh sát để đàn áp người lao động. Tổ chức đó gọi là Nhà nước.

– Sự ra đời của Nhà nước cổ đại ở phương Đông và phương Tây đều tuân theo một qui luật chung, đó là sự hình thành trên cơ sở những mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể điều hòa được

– Đặc trưng của Nhà nước: + Thống trị dân cư theo khu vực hành chính, đập tan cơ sở huyết thống của xã hội thị tộc; + Chức năng đối ngoại: · Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược : Chiến tranh là phương tiện tốt nhất để thực hiện mục đích của giai cấp chủ nô là làm giàu nhanh chóng bằng tài sản cướp bóc được và bằng việc biến các tù binh thành nô lệ. Vì vậy đây là chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước CHNL. Điển hình của việc thực hiện chính sách đối ngoại hiếu chiến là nhà nước La Mã cổ đại. Từ thế kỉ V đến thế kỉ III TCN nhà nước La Mã không ngừng tiến hành các cuộc chiến tranh qui mô lớn thôn tính và cướp bóc các quốc gia khác, kết quả là La Mã trở thành đế chế hùng mạnh nhất châu Âu thời bấy giờ. Chiến tranh xâm lược làm cho quan hệ giữa các nhà nước chủ nô luôn trong tình trạng căng thẳng và là nhân tố làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, là nguyên nhân bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa trong nội bộ đất nước. · Chức năng phòng thủ, bảo vệ đất nước và tiến hành các hoạt động ngoại giao, buôn bán với các quốc gia khác: Đồng thời với tiến hành chiến tranh xâm lược các nhà nước chủ nô cũng phải tổ chức phòng thủ bảo vệ đất nước, thể hiện ở hàng loạt các hoạt động như xây dựng quân đội mạnh, xây dựng các pháo đài thành lũy, chuẩn bị cơ sở vật chất, tiến hành các hoạt động quân sự khi cần thiết . + Hình thành bộ máy quyền lực công cộng, một bộ máy quan liêu ở trung ương và ở địa phương, một lực lượng quân sự to lớn để trấn áp nhân dân và tiến hành chiến tranh xâm lược hoặc chống xâm lược.

– Các chức năng của Nhà nước : gồm 2 chức năng cơ bản + Chức năng đối nội: · Chức năng bảo vệ, củng cố chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ: Chế độ sở hữu của chủ nô không những đối với tư liệu sản xuất mà cả đối với nô lệ – là cơ sở tồn tại của xã hội Chiếm hữu nô lệ (CHNL). Vì vậy, đây là chức năng đặc trưng, thể hiện rõ nhất bản chất giai cấp của Nhà nước chủ nô. Nhà nước thừa nhận ở mọi lúc mọi nơi quyền sở hữu tuyệt đối của chủ nô và tình trạng vô quyền của nô lệ, công khai sử dụng mọi biện pháp để bảo vệ và hoàn thiện chế độ sở hữu này. Nhà nước thông qua pháp luật để “chính thức hóa” quyền lực vô hạn của chủ nô đối với nô lệ và gia đình của họ. · Chức năng trấn áp nô lệ và các tầng lớp bị bóc lột khác : Mọi sự phản kháng của nô lệ và dân nghèo đều bị Nhà nước chiếm hữu nô lệ (NNCHNL) đàn áp bằng các biện pháp bạo lực, đây là một hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của các NNCHNL. Nhà nước sử dụng rộng rãi bộ máy quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù để đàn áp dã man những cuộc khởi nghĩa của nô lệ cũng như mọi sự phản kháng. Bên cạnh trấn áp bằng bạo lực, NNCHNL còn trấn áp cả về tinh thần đối với nô lệ và dân nghèo bằng công cụ Thần quyền. · Chức năng kinh tế – xã hội : NNCHNL đứng ra giải quyết một số vấn đề kinh tế – xã hội thiết yếu như xây dựng đường sá, cầu cống, phân chia đất đai, điều chỉnh giá cả thị trường, đề ra các chính sách kinh tế, ngoại giao, xây dựng và quản lí các công trình thủy lợi ( ở phương Đông )

A,Phương Đông

1:.Bộ máy nhà nước

Phương Đông ra đời sớm hơn ( khoảng 4000-3000 năm TCN) so với phương Tây (khoảng thế kỉ VIII – thế kỉ VI. TCN).

b,Hình thành: Ở phương Đông các nhà nước được hình thành ở lưu vực các con sông lớn. Điều kiện thiên nhiên không chỉ tạo ra những thuận lợi mà còn sẵn có những thử thách. Bất cứ cộng đồng dân cư nào cũng phải tiến hành công cuộc trị thủy và thủy lợi. Do tính cấp bách thường xuyên và yêu cầu quy mô lớn của công cuộc trị thủy, thủy lợi nên công xã nông thôn với chế độ sở hữu chung về ruộng đất được bảo tồn rất bền vững. Chế độ tư hữu về ruộng đất lúc đầu hầu như không có và sau đó hình thành, phát triển rất chậm chạp. ” Trong hình thức Á châu (ít ra cũng trong hình thức chiếm ưu thế), không có sở hữu mà chỉ có việc chiếm dụng của cá nhân riêng lẻ, kẻ sở hữu thực tế, thực sự là công xã, do đó sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở hữu chung về ruộng đất mà thôi “( Các Mác – Bàn về xã hội tiền tư bản ). Như vậy, nguyên nhân của thực tế lịch sử ở phương Đông đó là việc không có chế độ tư hữu ruộng đất: sự phân chia xã hội thành kẻ giàu người nghèo diễn ra rất chậm chạp, chưa thật sâu sắc và mức độ phân hóa chưa cao lắm so với lịch sử quá trình hình thành nhà nước ở phương Tây. Bởi vậy ở phương Đông, quá trình hình thành, định tính và định hình của các giai cấp cũng diễn ra chậm chạp và không sắc nét, mâu thuẫn đối kháng chưa phát triển đến mức gay gắt không thể điều hòa được. Nhưng dù trong hoàn cảnh như vậy, nhà nước vẫn phải ra đời bởi chính công cuộc trị thủy – thủy lợi, không chỉ duy trì chế độ công hữu về ruộng đất mà còn là yếu tố thúc đẩy nhà nước ra đời sớm. Bên cạnh đó còn có một số tác nhân khác, ví dụ nhu cầu tự vệ. Có thể khẳng định rằng nhân tố trị thủy – thủy lợi và tự vệ tuy bản thân chúng không thể sản sinh ra nhà nước nhưng có thể thúc đẩy quá trình hình thành nhà nước trên cơ sở phân hóa xã hội đã ở một mức độ nhất định c,Hình thức:

Lànhà nước quân chủ với các hình thức phổ biến sau: · Nhà nước quân chủ quý tộc · Nhà nước quân chủ phân quyền · Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền

Mọi quyền lực tập trung chủ yếu trong tay nhà vua ( quyền lập pháp,hành pháp,tư pháp).Nôi vua theo chế độ cha truyền con nối

Kinh tế phương Đông cổ đại là nền kinh tế nông nghiệp a)Kinh tế: , chế độ công hữu chiếm ưu thế

a.1: Hoạt động nông nghiệp

a.2: làm ruộng

a.3:Chăn nuôi gia súc

a.4:Hoạt động thương nghiệp

b:Xã hội

Quý tộc và nô lệ ở Phương đông

B: Phương Tây

Lược đồ các quốc gia cổ đại Phương Tây:

· · · Ở phương Tây, Ăngghen đã chỉ ra ba hình thức cơ bản của sự xuất hiện nhà nước : Một là, nhà nước Aten – hình thức thuần túy và cổ điển nhất – ra đời hoàn toàn do những nguyên nhân nội tại của xã hội. Nhà nước Aten là kết quả trực tiếp của sự phân hóa tài sản và phân chia giai cấp rõ nét, đòi hỏi nhất thiết phải có thay thế cơ quan thị tộc giàu có. Hai là, nhà nước Giéc-manh – hình thức được thiết lập sau chiến thắng của người Giéc-manh đối với đế chế La Mã cổ đại – ra đời dưới ảnh hưởng của văn minh La Mã và do nhu cầu phải thực hiện cai trị trên đất La Mã, chứ không phải do đòi hỏi bức thiết của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội Giécmanh. Khi nhà nước thành lập, dấu hiệu của sự phân hóa giai cấp còn mờ nhạt. Cùng với quá trình củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì xã hội Giecmanh mới chuyển sang xã hội có giai cấp. Ba là, nhà nước Rôma cổ đại. Ở đây, quá trình xuất hiện của nhà nước được thúc đẩy bởi cuộc đấu tranh của những người bình dân sống ngoài các thị tộc Rôma chống lại giới quý tộc của các thị tộc Rôma.

Đứng đầu nhà nước không phải là vua,quyền hành không năm hết trong tay vua

Các quốc gia cổ đại phương Tây, nền kinh tế phát triển theo hướng thương nghiệp thị trường ,có điều kiện để phát triển mạnh các mặt: Nông,công thương,hàng hải . Chế độ tư hữu chiếm ưu thế

a.1:Chợ,hải cảng ở Pirê

Ở các quốc gia cổ đại phương Tây (điển hình như các quốc gia thành bang của Hi Lạp, La Mã cổ đại), nô lệ là lực lượng chính trong việc sản xuất ra của cải vật chất của xã hội

b.1:Nô lệ ở Rô-ma