So Sánh Phương Pháp Biện Chứng Và Phương Pháp Siêu Hình / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

So Sánh Phương Pháp Biện Chứng Và Phương Pháp Siêu Hình?

Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là hệthống các nguyên tắcđược sửdụngnhất quán trong hoạt động nói chung của con người. Phương pháp bao gồm có phương pháp nhận thức và phương pháp thực tiễn. Phương pháp của triết học là phương pháp nhận thức thế giới hiện thực. Trong lịch sử phát triển của triết học, đã tồn tại hai phương pháp nhận thức đối lập nhau: đó làphương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.

Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức thếgiới với quanđiểm cơbảncho rằng, sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong những mối liên hệ, trong sự vận động và phát triển theo những qui luật khách quan vốn có của nó.

Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thếgiới với quanđiểm cơbản chorằng, mọi sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tĩnh không có sự vận động và phát triển. Nhưng nếu như có thừa nhận sự phát triển thì chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. Mặt khác, quan điểm này không thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng.

Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sửtriếthọc chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách quan. Trong việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành các thuộc

tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều kiện cần thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra kết luận cho rằng phép siêu hình là thế giới quan khoa học và đúng đắn nhất. Cần phải phân biệt một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật và hiện tượng khỏi mối liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để nghiên cứu chúng, với một bên là phép siêu hình với tư cách là thế giới quan của triết học.

Phương Pháp Biện Chứng Là Gì? Phương Pháp Siêu Hình Là Gì?

Các khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong lịch sử được dùng theo một số nghĩa khác nhau. Còn trong triết học hiện đại, đặc biệt là triết học mác-xít, chúng được dùng, trước hết để chỉ hai phương pháp chung nhất đối lập nhau của triết học.

Phương pháp biện chứng phản ánh “biện chứng khách quan” trong sự vận động, phát triển của thế giới. Lý luận triết học của phương pháp đó được gọi là “phép biện chứng”.

Phương pháp siêu hình là phương pháp:

– Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.

– Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại. Nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.

Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.

Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thứcnnó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định.

Song phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.

2.1. Phương pháp biện chứng là phương pháp:

– Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.

– Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.

Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái “vừa là… vừa là…” nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.

Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.

2.2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng:

Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận.

Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.

Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là và người hoàn thiện là Hêghen.

Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng.

Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.

Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

Biện Chứng Là Gì? Phép Biện Chứng Là Gì? Có Những Hình Thức Lịch Sử Nào Của Phép Biện Chứng? Có Sự Đối Lập Căn Bản Nào Giữa Phương Pháp Biện Chứng Và Phương Pháp Siêu Hình Trong Nhận Thức?

– Biện chứng là gì?

+ Khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Khái niệm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.

Biện chứng khách quan là chỉ biện chứng của các tồn tại vật chất; còn biện chứng chủ quan là chỉ biện chứng của ý thức.

Có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Theo quan niệm duy tâm: biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan; còn theo quan điểm duy vật: biện chứng khách quan là cơ sở của biện chứng chủ quan. Ph. Ăngghen khẳng định: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giói tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”.

Sự đối lập nhau trong quan niệm đó là cơ sở phân chia phép biện chứng thành: phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

– Phép biện chứng là gì?

Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới.

Với tư cách là học thuyết triết học, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến và những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó xây dựng các nguyên tắc phương pháp luận chung cho các quá trình nhận thức và thực tiễn.

– Các hình thức lịch sử của phép biện chứng

Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học):

+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”… Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại là những quan điểm biện chứng của Heraclit.

+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết học của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới – trình độ lý luận sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.

+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị trên lập trường duy vật mới.

– Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức

Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong việc nhận thức thế giới là ở chỗ: phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ phổ biến, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; còn phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức các sự vật, hiện tượng không trong mối liên hệ, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; nó tuyệt đối hoá tính chất ổn định, cô lập của các sự vật, hiện tượng. Do đó, phương pháp siêu hình chỉ có giá trị trong một phạm vi nhất định. Chỉ có phương pháp biện chứng mới có thể cho phép nhận thức sự vật, hiện tượng đúng như chúng tồn tại trong thực tế.

chúng tôi

Phương Pháp Biện Chứng Và Các Phương Pháp Nhận Thức Đặc Thù Khoa Học Chung

Phương pháp biện chứng với tư cách là toàn bộ những nguyên tắc, những yêu cầu được đào tạo dựa vào các quy luật phổ biến của hiện thực, dựa vào các quy luật hình thành và phát triển của nhận thức xã hội, của các nguyên tắc định hướng cho con người trong hoạt động nhận thức của mình, phương pháp ấy không loại bỏ việc nghiên cứu và sử dụng các phương pháp cũng như các thủ pháp nhận thức đặc thù khoa học chung. Các phương pháp và thủ pháp đó gắn liền với việc giải quyết những nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào đó. Chúng được vận dụng ở những giai đoạn rất xác định trong sự phát triển của nhận thức khoa học – những giai đoạn quy định sự xuất hiện của những nhiệm vụ đó.

Việc nghiên cứu và sử dụng các phương pháp và thủ pháp đặc thù khoa học chung trong nghiên cứu khoa học có kết quả hơn cả khi chúng tính đến những yêu cầu của sự nhận thức biện chứng. Nói một cách khác, trong những yêu cầu của các phương pháp nói trên ở dạng loại bỏ cần có những yêu cầu tương ứng của phương pháp nhận thức biện chứng.

Chúng ta sẽ xem xét các phương pháp và thủ pháp nhận thức khoa học chung được vận dụng cho những giai đoạn phát triển cơ bản của nhận thức khoa học.

Bước thứ nhất, đầu tiên của nhận thức khoa học là việc có được những cứ liệu thích đáng về đối tượng được nghiên cứu, là việc xác định được những sự kiện cho những thông tin nhất định về các thuộc tính và các mối liên hệ của đối tượng.

Các sự kiện – đó là các mặt, các khía cạnh nào đó của hiện thực được con người cảm thụ và ghi nhận dưới một hình thức xác định. Đặc điểm quan trọng nhất của một sự kiện khoa học là tính xác thực của nó cho phép kiểm tra bằng thực nghiệm. Các sự kiện là cơ sở kinh nghiệm của khoa học. Chỉ có dựa vào đó, nhà khoa học mới có thể đi sâu vào bản chất của hiện tượng được nghiên cứu. Theo cách diễn đạt của nhà sinh lý học Nga vĩ đại I.P. Pa-vlốp, sự kiện là không khí của nhà khoa học.

Để nhận được các sự kiện cần thiết trong khoa học người ta sử dụng các phương pháp nhận thức như quan sát, thí nghiệm, mô hình hóa.

Trong quan sát, các giác quan của con người đóng vai trò chủ chốt. Song, như đã biết, những khả năng của chúng trong tri giác các mặt nào đó của hiện thực còn hạn chế. Vì vậy, khi quan sát người ta sử dụng rộng rãi các dụng có khả năng tăng cường hiệu quả của việc quan sát và mở rộng phạm vi các hiện tượng có thể tri giác. Ví dụ, con người không thể tri giác trực tiếp các hạt cơ bản, cấu trúc của phân tử và nguyên tử, các thiên thể rất xa… Nhờ các loại dụng cụ mà con người đã có thể quan sát được tất cả những cái đó. Việc sử dụng có kết quả các dụng cụ để nghiên cứu các đối tượng hết sức khác nhau chứng tỏ rằng về mặt nguyên tắc là không tồn tại những hiện tượng không thể quan sát được.

Do sử dụng các dụng cụ và các phương tiện kỹ thuật khác, người ta đã phân biệt những quan sát trực tiếp và những quan sát gián tiếp. Quan sát mà trong quá trình đó đối tượng tác động trực tiếp lên các giác quan của người quan sát, được gọi là quan sát trực tiếp, còn quan sát mà trong đó tác động của đối tượng lên các giác quan của người quan sát phải thông qua dụng cụ thì gọi là quan sát gián tiếp. Trong nghiên cứu khoa học hiện đại, hai loại quan sát đó thường không được sử dụng dưới dạng thuần túy của chúng, mà thể hiện với tư cách là các mặt trong một quá trình phức tạp thống nhất nhằm nhận được những thông tin về các thuộc tính và các mối liên hệ của đối tượng được nghiên cứu.

Trong một số trường hợp, việc sử dụng các dụng cụ dẫn tới những sai lệch hay thậm chí những thay đổi nhất định vào đối tượng được quan sát và như vậy làm cho người quan sát mất khả năng cảm thụ đối tượng đúng như nó đang tồn tại trong điều kiện tự nhiên. Ví dụ, ảnh hưởng của dụng cụ đối với các vi hạt được quan sát lớn đến mức vi hạt thực sự hiện ra trước mắt chủ thể quan sát dưới dạng đã thay đổi. Song trái hẳn với những người theo chủ nghĩa thực chứng, tình trạng đó không phải là trở ngại không thể khắc phục nổi để nhận thức được các thuộc tính khách quan của đối tượng vi mô. Chỉ có điều, nó buộc người quan sát khi đưa ra kết luận phải tính đến các tính năng của dụng cụ, các quy luật tương tác giữa dụng cụ với đối tượng được nghiên cứu.

Một khía cạnh cần thiết trong quan sát khoa học là mô tả. Mô tả là sự ghi nhận dưới hình thức nào đó các kết quả quan sát được, những thông tin về đối tượng được nghiên cứu. Khi mô tả người ta sử dụng các phương tiện tự nhiên và nhân tạo để diễn đạt thông tin như khái niệm khoa học, ký hiệu, sơ đồ, đồ thị… Những yêu cầu quan trọng nhất đối với mô tả khoa học là: độ chính xác, tính lôgích nghiêm ngặt và dễ hiểu. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của khoa học, những yêu cầu đó được thực hiện trên cơ sở sử dụng rộng rãi ngôn ngữ nhân tạo.

Đo lường là một hoạt động nhận thức bảo đảm việc diễn đạt bằng số các đại lượng được đo. Đo lường được thực hiện nhờ mối tương quan, sự so sánh thuộc tính hoặc khía cạnh được đo của đối tượng được quan sát với một biểu mẫu nào đó lấy làm đơn vị đo lường, và vì thế nó cho phép ghi nhận không chỉ những thuộc tính, mà cả những mối quan hệ nhất định của đối tượng. Đo lường thường có hai dạng: trực tiếp và gián tiếp. Đo lường trực tiếp là đem so sánh trực tiếp hiện tượng, thuộc tính dược đo với mẫu chuẩn tương ứng, đo lường gián tiếp là xác định đại lượng của thuộc tính cần đo trên cơ sở tính toán sự phụ thuộc nhất định vào các đại lượng khác. Đo lường gián tiếp giúp cho việc tiến hành xác định các đại lượng trong những điều kiện khi việc đo lường trực tiếp trở nên quá phức tạp hoặc là không thể thực hiện được (đo lường các thuộc tính khác nhau của các đối tượng trong vũ trụ, của các vi thể…).

Quan sát đòi hỏi phải vạch rõ và ghi nhận những thuộc tính và các mối liên hệ của đối tượng ở trạng thái tự nhiên. Song, một điều quan trọng đối với chủ thể nhận thức là cũng phải biết cả những thuộc tính và các mối liên hệ khác của đối tượng không quan sát được trong điều kiện tự nhiên, song lại được thể hiện trong tình huống khác khi có những tương tác khác. Để nhận được thông tin về những thuộc tính và các mối liên hệ của đối tượng không thể quan sát trong những điều kiện bình thường, người ta tiến hành thí nghiệm.

Thí nghiệm là một phương pháp nghiên cứu khoa học đòi hỏi có sự thay đổi thích hợp của đối tượng hoặc tái tạo đối tượng trong những điều kiện được tạo ra một cách đặc biệt nhằm mục đích nhận được những thông tin về các thuộc tính và các mối liên hệ của đối tượng.

Khác với quan sát khi chủ thể không can thiệp vào hiện tượng được nghiên cứu mà chỉ giới hạn ở việc ghi nhận trạng thái tự nhiên của đối tượng, thí nghiệm đòi hỏi chủ thể phải can thiệp một cách tích cực, có mục đích rõ ràng vào phạm vi được nghiên cứu của các hiện tượng, vi phạm trạng thái tự nhiên của sự vật, đặt đối tượng vào những điều kiện được đặc biệt định trước. Do đó, người nghiên cứu buộc đối tượng phải thể hiện những thuộc tính mới không quan sát thấy ở trạng thái tự nhiên. Thay đổi những điều kiện đó theo hướng nào đó, người nghiên cứu theo dõi được khuynh hướng thay đổi các thuộc tính đang được quan sát và như vậy sẽ nhận được những tư liệu phong phú tiêu biểu cho hành vi của đối tượng trong các tình huống khác nhau. Vì trong khi thí nghiệm, đối tượng cần nghiên cứu được quan sát trong những điều kiện được kiểm soát và tạo ra từ trước, nên khi cần có thể lặp lại thí nghiệm và do đó kiểm tra được việc quan sát.

Song, có những đối tượng mà chủ thể không thể tác động trực tiếp hoặc tác động như thế rất khó khăn, không có lợi về mặt kinh tế… Ví dụ, chúng ta không thể tác động trực tiếp vào quá trình tạo ra kim cương trong tự nhiên, sinh ra sự sống trên Trái Đất, những quá trình diễn ra trên Mặt trời,… Trong các trường hợp như vậy, người ta tiến hành thí nghiệm không phải ở chính đối tượng, mà ở một đối tượng khác mà trong mối quan hệ nào đó là giống với đối tượng được nghiên cứu, tái tạo được những thuộc tính hay các mối quan hệ khác nhau của nó. Dạng thí nghiệm này được gọi là thí nghiệm mô hình, còn bản thân phương pháp nghiên cứu thì được gọi là mô hình hóa.

Mô hình hóa là tái tạo những thuộc tính và các mối liên hệ xác định của đối tượng được nghiên cứu trong một đối tượng khác, được tạo ra một cách đặc biệt – nghĩa là trong mô hình nhằm mục đích nghiên cứu chúng kỹ lưỡng hơn. Các máy xi-béc-nê-tíc mô phỏng những thuộc tính của bộ não con người, các thiết bị đặc biệt tái tạo ra tình trạng không trọng lượng, trạng thái phóng xạ cao dần, áp suất siêu cao và siêu thấp,… đều có thể coi là những ví dụ về mô hình.

Các ô hình có thể là mô hình vật chất, cũng có thể là mô hình lý tưởng. Các mô hình vật chất là những đối tượng được con người tạo ra, hoặc lựa chọn một cách đặc biệt, về mặt vật lý tái tạo được những thuộc tính và các mối liên hệ khác nhau đặc trưng cho hiện tượng được nghiên cứu. Ví dụ, mô hình một cái cầu, một con đập, một trạm thủy điện, một con tàu, một chiếc máy bay, một chiếc xe đạp hiện nay được sử dụng rộng rãi trong khoa học kỹ thuật đều là những mô hình loại đó. Các mô hình lý tưởng là cấu trúc tư duy, các sơ đồ lý thuyết tái tạo những thuộc tính và các mối liên hệ của đối tượng được nghiên cứu dưới hình thức lý tưởng. Các mô hình này được ghi nhận nhờ các ký hiệu, hình vẽ xác định và các phương tiện vật chất.

Đặc điểm quan trọng nhất của mô hình là sự giống nhau giữa mô hình với nguyên bản về những thuộc tính và các mối liên hệ được nghiên cứu. Chính điều đó là cơ sở để chuyển những kiến thức thu được khi nghiên cứu mô hình sang chính nguyên bản. Hình thức tư duy thực hiện việc chuyển sang như vậy là sự loại suy.

TH: T.Giang – SCDRC