So Sánh Giữa Dư Luận Xã Hội Và Tin Đồn / Top 12 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Channuoithuy.edu.vn

Phân Biệt Dư Luận Xã Hội Và Tin Đồn

Tin đồn là những thông tin được lan truyền từ người này qua người khác chủ yếu bằng truyền miệng. Ngoài cách truyền tin bằng miệng là chủ yếu, tin đồn còn lan truyền bằng thư, fax, tin nhắn… tin đồn là sản phẩm tâm lý xã hội, nó phụ thuộc nhiều vào trạng thái tâm lý của cá nhân người tiếp nhận và đưa tin. Tin đồn thường xuất hiện ở những nơi công tác thông tin kém. Do không có thông tin đầy đủ, do tính tò mò, người ta thường hay nghe tin đồn. Khi tin đồn lan truyền thì thông tin chính thức sẽ kém hiệu lực.

Dư luận xã hội và tin đồn có những khác nhau căn bản dựa theo các tiêu chí: về nguồn gốc, về cơ chế hình thành, về phương thức lan truyền, về bản chất.

Về nguồn gốc: Tin đồn xuất phát từ sự kiện có thật bị làm méo mó đi, thật một phần hoặc hoàn toàn do chủ thể truyền tin bịa đặt, tưởng tượng ra, mức độ sự thật rất ít. Dư luận xã hội xuất phát từ sự kiện có thật, mức độ sự thật nhiều hơn.

Về cơ chế hình thành: Tin đồn bị nhào lặn hoặc bị bóp méo bởi khuynh hướng cá nhân người truyền tin, mang nặng màu sắc chủ quan của chủ thể truyền tin. Dư luận xã hội được hình thành thông qua giao tiếp, trao đổi, tranh luận giữa các cá nhân trong cộng đồng. Quan điểm cá nhân chỉ là một ý kiến trong ý kiến chung.

Về phương thức lan truyền: Tin đồn truyền đi bằng miệng là chính, theo con đường không chính thức, bí mật, ngầm ẩn. Dư luân xã hội lan truyền bằng lời nói và chữ viết, chính thức và không chính thức, công khai và bí mật.

Về bản chất: Tin đồn chỉ là thông tin đơn thuần về sự việc, hiện tượng theo lối mô tả, kể lại, chứa đựng nhiều thiên kiến. Dư luận xã hội là sự phán xét đánh giá biểu thị thái độ đồng tình hay phản đối của cộng đồng đối với sự kiện, hiện tượng./.

Bàn Về Khái Niệm “Dư Luận Xã Hội”

Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Những người theo học ở Liên Xô (cũ) thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực tiếp từ thuật ngữ tiếng Nga). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng thuật ngữ “công luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: “public opinion”).

Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên Xô (cũ) định nghĩa dư luận xã hội (DLXH) là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K. Paderin: “Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai cấp, xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi ích chung của họ”.

Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra định nghĩa tương tự. Ví dụ: “Công luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các vấn đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi có sự tranh luận công khai” (Young, 1923). “Công luận là kết quả tổng hợp các ý kiến trả lời của mọi người đối với các câu hỏi nhất định, dưới điều kiện của cuộc phỏng vấn” (Warner, 1939). Có những định nghĩa rất đơn giản, nhưng rất phổ biến trong giới nghiên cứu Mỹ: “Công luận là các tập hợp ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng ta có thể tìm được” (Childs, 1956).

Về mặt ngôn ngữ, không có cơ sở để nói rằng DLXH là ý kiến của đa số. Thuật ngữ “xã hội” không đồng nhất với thuật ngữ “đa số”. Ví dụ: Không ai cho rằng đã gọi là tổ chức xã hội thì phải là tổ chức của đa số; đã gọi là chính sách xã hội thì phải là chính sách đối với đa số…

Về mặt lý luận, cũng không có cơ sở nào để coi trọng dư luận của đa số hơn dư luận của thiểu số, đến mức phải loại bỏ dư luận của thiểu số ra khỏi phạm trù “dư luận xã hội”. Ví dụ, dưới góc độ về khả năng phản ánh chân lý, dư luận của đa số không phải khi nào cũng đúng, dư luận của thiểu số, không nhất thiết khi nào cũng sai. Thực tế cho thấy, trước các vấn đề mới, dư luận của thiểu số, nhiều khi, đúng hơn dư luận của đa số. Giữa dư luận của đa số và dư luận của thiểu số cũng không có một hàng rào ngăn cách không thể vượt qua được. Dư luận ngày hôm nay là thiểu số, ngày mai có thể trở thành đa số hoặc ngược lại, dư luận ngày hôm nay là đa số, ngày mai có thể chỉ còn là thiểu số.

Về mặt thực tiễn, quan điểm coi DLXH chỉ là ý kiến của đa số lại càng không thể chấp nhận được. Chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện chủ trương “Đại đoàn kết toàn dân tộc”. Tiếng nói của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp, nhóm xã hội đều cần được coi trọng cho dù thành phần kinh tế, tầng lớp, nhóm xã hội đó chỉ là thiểu số trong xã hội. Mặt khác, nếu DLXH chỉ là ý kiến của đa số không thôi, thì không cần phải thành lập các cơ quan làm công tác nắm bắt DLXH, bởi vì ý kiến của đa số là cái mà người dân bình thường cũng có thể dễ dàng nắm được. Báo cáo tình hình DLXH của một số địa phương chưa được lãnh đạo coi trọng, có phần chính là do mới chỉ phản ánh được ý kiến của đa số. Những báo cáo phiến diện, không phản ánh được đầy đủ các luồng ý kiến khác nhau trong xã hội trước một vấn đề, sự kiện, hiện tượng nào đó, không những ít có giá trị cho sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, ngược lại, có khi còn có hại, nhất là trong trường hợp vấn đề, sự kiện, hiện tượng là cái mới, bởi lẽ, đối với cái mới, dư luận của đa số lúc đầu thường không đúng, thường có tính “bảo thủ”.

Cũng có những ý kiến khác nhau khi phân tích hình thức ngôn ngữ của DLXH. Một số nhà nghiên cứu chỉ coi các phán xét đánh giá của công chúng mới là DLXH. Phán xét có nhiều loại như phán xét mô tả – dùng để mô tả sự vật, ví dụ: “Đây là bông hồng bạch”, “Đây là cuộc mít tinh lớn”…; phán xét quy ước – loại phán xét thông dụng trong các văn bản pháp qui, ví dụ: “Mọi người dân phải có trách nhiệm giữ gìn vệ sinh môi trường”…. Phán xét đánh giá là loại phán xét thể hiện thái độ (tán thành – không tán thành; yêu – ghét…) của chủ thể đối với sự kiện, hiện tượng, đối tượng, ví dụ: “Tham nhũng là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống”; “Công tác giữ gìn vệ sinh môi trường của Hà Nội trong mấy năm qua có tiến bộ rõ nét”…. Tuy nhiên, đại đa số các nhà nghiên cứu khẳng định, DLXH không chỉ là các phát ngôn thể hiện sự phán xét đánh giá mà còn là các phát ngôn thể hiện tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị, lời khuyên can… của công chúng.

Cũng có sự nhầm lẫn giữa DLXH và tin đồn. Một số người không phân biệt được giữa DLXH và tin đồn có những sự khác nhau gì. Giữa tin đồn và DLXH có những điểm khác biệt cơ bản sau đây: 1) Nguồn thông tin: nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của DLXH lại xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì…); 2) Tin đồn loang càng xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng được thêm thắt. Lúc ban đầu, DLXH thường rất phân tán, nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi, tranh luận, tính thống nhất của DLXH thường tăng lên; 3) Tin đồn thường có tính “thất thiệt” (mặc dù có những tin đồn về cơ bản là sự thật), trong khi đó, DLXH phản ánh trung thực về suy nghĩ, tình cảm, thái độ của chủ thể. Tuy nhiên, giữa DLXH và tin đồn không có sự ngăn cách không vượt qua được. Tin đồn có thể làm nảy sinh DLXH khi trên cơ sở tin đồn người ta đưa ra những phán xét đánh giá bày tỏ thái độ của mình. Tin đồn thường xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin.

Về khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải của DLXH, cũng có những quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng DLXH chịu ảnh hưởng nặng nề của các thành kiến, định kiến cho nên nó không có khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải. Có ý kiến lại “sùng bái” dư luận của đa số, theo họ, dư luận của đa số bao giờ cũng đúng, dư luận của thiểu số bao giờ cũng sai. Tất cả các quan niệm trên đều sai. DLXH không phải là các kết luận khoa học, nhưng ít nhiều đều có khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải. DLXH có thể đúng nhiều, đúng ít. Dù có đúng đến mấy thì DLXH vẫn có những hạn chế, không nên tuyệt đối hóa khả năng nhận thức của DLXH. Dù có sai đến mấy, trong DLXH cũng có những hạt nhân hợp lý, không thể coi thường, bỏ qua. Chân lý của DLXH không phụ thuộc vào tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng đúng, dư luận của thiểu số cũng sai. Cái mới, lúc đầu, thường chỉ có một số người nhận thấy và do đó dễ bị đa số phản đối.

Đối với câu hỏi: DLXH là tập hợp các ý kiến cá nhân, có tính tự phát hay là một dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức? Cũng có những quan niệm khác nhau. Có người khẳng định vế thứ nhất, có người khẳng định vế thứ hai. Sự vô lý của quan niệm coi DLXH là một dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức là rất rõ. Ý kiến chung của một tổ chức là chính kiến của tổ chức đó chứ không phải là DLXH của các thành viên trong tổ chức (không thể gọi chính kiến của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… là DLXH). Chỉ có các luồng ý kiến được hình thành theo con đường tự phát mới được gọi là DLXH. Tuy nhiên ở đây cần phải làm rõ một ý: DLXH không phải là một phép cộng thuần túy, không phải là “bao gạo”, gồm các “hạt gạo” ý kiến cá nhân rời rạc, không có mối quan hệ gì với nhau. DLXH là các luồng ý kiến cá nhân, tự phát, nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, cộng hưởng với nhau. Nói cách khác, đó là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các lực lượng xã hội nhất định.

DLXH là hiện tượng đời sống xã hội phức tạp, nên khó có thể lột tả hết trong một vài dòng định nghĩa ngắn gọn. Theo Lênin, đối với những sự vật phức tạp, có nhiều góc nhiều cạnh, mọi định nghĩa đều phiến diện. Tuy nhiên, dù có phiến diện đến đâu, định nghĩa cũng không mất đi mặt khẳng định, vai trò quan trọng, sự cần thiết của nó đối với hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những chỉ dẫn sơ bộ, những nét phác thảo ban đầu, không có nó, chúng ta không thể tiếp tục đi sâu hơn vào bản chất của sự vật cũng như không thể đưa ra đuợc những phương hướng hành động cụ thể nào cả.

Vì lẽ đó, chúng ta có thể định nghĩa rất ngắn gọn về DLXH như sau: DLXH là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến các nội hàm sau đây của định nghĩa này: 1) Mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau; 2) DLXH có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; 3) Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến); 4) DLXH là tập hợp các ý kiến cá nhân, tự phát, chứ không phải là ý kiến của một tổ chức, được hình thành theo con đường tổ chức (hội nghị, hội thảo…); 5) DLXH không phải là một phép cộng các ý kiến cá nhân, tự phát mà là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các lực lượng xã hội nhất định; 6) Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự (động chạm đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người) mới có khả năng tạo ra DLXH./.

Bàn Về Khái Niệm ‘Dư Luận Xã Hội’

Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Những người theo học ở Liên Xô (trước đây) thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực tiếp từ thuật ngữ tiếng Nga). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng thuật ngữ “công luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “public opinion”).

Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Những người theo học ở Liên Xô (cũ) thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực tiếp từ thuật ngữ tiếng Nga). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng thuật ngữ “công luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: “public opinion”).

Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên Xô (cũ) định nghĩa dư luận xã hội (DLXH) là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K. Paderin: “Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai cấp, xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi ích chung của họ”.

Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra định nghĩa tương tự. Ví dụ: “Công luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các vấn đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi có sự tranh luận công khai” (Young, 1923). “Công luận là kết quả tổng hợp các ý kiến trả lời của mọi người đối với các câu hỏi nhất định, dưới điều kiện của cuộc phỏng vấn” (Warner, 1939). Có những định nghĩa rất đơn giản, nhưng rất phổ biến trong giới nghiên cứu Mỹ: “Công luận là các tập hợp ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng ta có thể tìm được” (Childs, 1956).

Về mặt ngôn ngữ, không có cơ sở để nói rằng DLXH là ý kiến của đa số. Thuật ngữ “xã hội” không đồng nhất với thuật ngữ “đa số”. Ví dụ: Không ai cho rằng đã gọi là tổ chức xã hội thì phải là tổ chức của đa số; đã gọi là chính sách xã hội thì phải là chính sách đối với đa số…

Về mặt lý luận, cũng không có cơ sở nào để coi trọng dư luận của đa số hơn dư luận của thiểu số, đến mức phải loại bỏ dư luận của thiểu số ra khỏi phạm trù “dư luận xã hội”. Ví dụ, dưới góc độ về khả năng phản ánh chân lý, dư luận của đa số không phải khi nào cũng đúng, dư luận của thiểu số, không nhất thiết khi nào cũng sai. Thực tế cho thấy, trước các vấn đề mới, dư luận của thiểu số, nhiều khi, đúng hơn dư luận của đa số. Giữa dư luận của đa số và dư luận của thiểu số cũng không có một hàng rào ngăn cách không thể vượt qua được. Dư luận ngày hôm nay là thiểu số, ngày mai có thể trở thành đa số hoặc ngược lại, dư luận ngày hôm nay là đa số, ngày mai có thể chỉ còn là thiểu số.

Về mặt thực tiễn, quan điểm coi DLXH chỉ là ý kiến của đa số lại càng không thể chấp nhận được. Chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện chủ trương “Đại đoàn kết toàn dân tộc”. Tiếng nói của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp, nhóm xã hội đều cần được coi trọng cho dù thành phần kinh tế, tầng lớp, nhóm xã hội đó chỉ là thiểu số trong xã hội. Mặt khác, nếu DLXH chỉ là ý kiến của đa số không thôi, thì không cần phải thành lập các cơ quan làm công tác nắm bắt DLXH, bởi vì ý kiến của đa số là cái mà người dân bình thường cũng có thể dễ dàng nắm được. Báo cáo tình hình DLXH của một số địa phương chưa được lãnh đạo coi trọng, có phần chính là do mới chỉ phản ánh được ý kiến của đa số. Những báo cáo phiến diện, không phản ánh được đầy đủ các luồng ý kiến khác nhau trong xã hội trước một vấn đề, sự kiện, hiện tượng nào đó, không những ít có giá trị cho sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, ngược lại, có khi còn có hại, nhất là trong trường hợp vấn đề, sự kiện, hiện tượng là cái mới, bởi lẽ, đối với cái mới, dư luận của đa số lúc đầu thường không đúng, thường có tính “bảo thủ”.

Cũng có những ý kiến khác nhau khi phân tích hình thức ngôn ngữ của DLXH. Một số nhà nghiên cứu chỉ coi các phán xét đánh giá của công chúng mới là DLXH. Phán xét có nhiều loại như phán xét mô tả – dùng để mô tả sự vật, ví dụ: “Đây là bông hồng bạch”, “Đây là cuộc mít tinh lớn”…; phán xét quy ước – loại phán xét thông dụng trong các văn bản pháp qui, ví dụ: “Mọi người dân phải có trách nhiệm giữ gìn vệ sinh môi trường”…. Phán xét đánh giá là loại phán xét thể hiện thái độ (tán thành – không tán thành; yêu – ghét…) của chủ thể đối với sự kiện, hiện tượng, đối tượng, ví dụ: “Tham nhũng là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống”; “Công tác giữ gìn vệ sinh môi trường của Hà Nội trong mấy năm qua có tiến bộ rõ nét”…. Tuy nhiên, đại đa số các nhà nghiên cứu khẳng định, DLXH không chỉ là các phát ngôn thể hiện sự phán xét đánh giá mà còn là các phát ngôn thể hiện tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị, lời khuyên can… của công chúng.

Cũng có sự nhầm lẫn giữa DLXH và tin đồn. Một số người không phân biệt được giữa DLXH và tin đồn có những sự khác nhau gì. Giữa tin đồn và DLXH có những điểm khác biệt cơ bản sau đây: 1) Nguồn thông tin: nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của DLXH lại xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì…); 2) Tin đồn loang càng xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng được thêm thắt. Lúc ban đầu, DLXH thường rất phân tán, nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi, tranh luận, tính thống nhất của DLXH thường tăng lên; 3) Tin đồn thường có tính “thất thiệt” (mặc dù có những tin đồn về cơ bản là sự thật), trong khi đó, DLXH phản ánh trung thực về suy nghĩ, tình cảm, thái độ của chủ thể. Tuy nhiên, giữa DLXH và tin đồn không có sự ngăn cách không vượt qua được. Tin đồn có thể làm nảy sinh DLXH khi trên cơ sở tin đồn người ta đưa ra những phán xét đánh giá bày tỏ thái độ của mình. Tin đồn thường xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin.

Về khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải của DLXH, cũng có những quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng DLXH chịu ảnh hưởng nặng nề của các thành kiến, định kiến cho nên nó không có khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải. Có ý kiến lại “sùng bái” dư luận của đa số, theo họ, dư luận của đa số bao giờ cũng đúng, dư luận của thiểu số bao giờ cũng sai. Tất cả các quan niệm trên đều sai. DLXH không phải là các kết luận khoa học, nhưng ít nhiều đều có khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải. DLXH có thể đúng nhiều, đúng ít. Dù có đúng đến mấy thì DLXH vẫn có những hạn chế, không nên tuyệt đối hóa khả năng nhận thức của DLXH. Dù có sai đến mấy, trong DLXH cũng có những hạt nhân hợp lý, không thể coi thường, bỏ qua. Chân lý của DLXH không phụ thuộc vào tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng đúng, dư luận của thiểu số cũng sai. Cái mới, lúc đầu, thường chỉ có một số người nhận thấy và do đó dễ bị đa số phản đối.

Đối với câu hỏi: DLXH là tập hợp các ý kiến cá nhân, có tính tự phát hay là một dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức? Cũng có những quan niệm khác nhau. Có người khẳng định vế thứ nhất, có người khẳng định vế thứ hai. Sự vô lý của quan niệm coi DLXH là một dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức là rất rõ. Ý kiến chung của một tổ chức là chính kiến của tổ chức đó chứ không phải là DLXH của các thành viên trong tổ chức (không thể gọi chính kiến của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… là DLXH). Chỉ có các luồng ý kiến được hình thành theo con đường tự phát mới được gọi là DLXH. Tuy nhiên ở đây cần phải làm rõ một ý: DLXH không phải là một phép cộng thuần túy, không phải là “bao gạo”, gồm các “hạt gạo” ý kiến cá nhân rời rạc, không có mối quan hệ gì với nhau. DLXH là các luồng ý kiến cá nhân, tự phát, nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, cộng hưởng với nhau. Nói cách khác, đó là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các lực lượng xã hội nhất định.

DLXH là hiện tượng đời sống xã hội phức tạp, nên khó có thể lột tả hết trong một vài dòng định nghĩa ngắn gọn. Theo Lênin, đối với những sự vật phức tạp, có nhiều góc nhiều cạnh, mọi định nghĩa đều phiến diện. Tuy nhiên, dù có phiến diện đến đâu, định nghĩa cũng không mất đi mặt khẳng định, vai trò quan trọng, sự cần thiết của nó đối với hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những chỉ dẫn sơ bộ, những nét phác thảo ban đầu, không có nó, chúng ta không thể tiếp tục đi sâu hơn vào bản chất của sự vật cũng như không thể đưa ra đuợc những phương hướng hành động cụ thể nào cả.

Vì lẽ đó, chúng ta có thể định nghĩa rất ngắn gọn về DLXH như sau: DLXH là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến các nội hàm sau đây của định nghĩa này: 1) Mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau; 2) DLXH có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; 3) Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến); 4) DLXH là tập hợp các ý kiến cá nhân, tự phát, chứ không phải là ý kiến của một tổ chức, được hình thành theo con đường tổ chức (hội nghị, hội thảo…); 5) DLXH không phải là một phép cộng các ý kiến cá nhân, tự phát mà là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các lực lượng xã hội nhất định; 6) Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự (động chạm đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người) mới có khả năng tạo ra DLXH./.

Bài đăng TCTG số 7.2023

Vài Nét Về Hoạt Động Định Hướng Dư Luận Xã Hội

Với tư cách là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực tuyên giáo, hoạt động định hướng dư luận xã hội là việc sử dụng các phương thức thông tin nhất định tác động vào các nhóm đề mang tính thời sự.

Mục đích của định hướng dư luận xã hội là góp phần điều chỉnh hành vi, hướng tới làm thay đổi thái độ, nhận thức và hành động của các nhóm xã hội theo hướng có lợi cho một giai cấp nhất định. Vì vậy định hướng dư luận xã hội là một trong những hoạt động lãnh đạo chỉ đạo quan trọng thuộc về giai cấp và mang tính giai cấp.Ở nước ta việc định hướng dư luận xã hội được thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu và lý tưởng XHCN, hướng tới hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Cấp độ định hướng dư luận.

Định hướng dư luận sử dụng các nguồn thông tin chính thống tác động đến cá nhân, nhóm và cộng đồng làm thay đổi nhận thức, thái độ của họ, tạo ra sự nhất trí và đồng thuận thực hiện thắng lợi các mục tiêu, phương hướng đề ra, định hướng dư luận có phạm vi tác động ở 3 cấp độ: Cấp độ cá nhân, cấp độ nhóm xã hội và cấp độ cộng đồng. xã hội. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối.

Việc cung cấp thông tin, cơ sở chứng cứ, lý lẽ phù hợp với nhận thức của chủ thể có vai trò hết hức quan trọng trong quá trình chuyển đổi trạng thái nhận thức: từ không hiểu đến hiểu, từ chưa nhận thức rõ đến nhận thức rất rõ, từ phản đối đến tán thành …hoặc quá trình chuyển đổi trạng thái tâm lý : từ ghét đến yêu, từ không chấp nhận đến chấp nhận, từ không thích đến rất thích…Trên thực tế các cá nhân có thể hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng nếu như họ được giác ngộ và ý thức rõ ràng về sự hy sinh đó…Ngược lại khi chưa có sự giác ngộ và ý thức rõ ràng về mục đích rất dễ dẫn đến sự chống đối bằng mọi giá. Định hướng ở cấp độ cá nhân cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể đặc biệt là các quan hệ về lợi ích

b) Cấp độ định hướng nhóm xã hội.

Các cá nhân luôn được gắn với một nhóm nhất định, chịu sự tác động, ràng buộc bởi các quy tắc, chuẩn mực của nhóm và tuân thủ các quyết định của nhóm xã hội đó. Có nhiều tiêu chí để xác định một nhóm xã hội, các ngành khoa học khác nhau tiếp cân dựa vào những đặc trưng cơ bản, trên cơ sở tính bền vững và tính tính tương đối đồng nhất của các cá nhân mà người ta có thể xác định những nhóm xã hội khác nhau ví dụ trong xã hội học có nhóm quy chiếu (nhóm thực, nhóm tượng trưng), nhóm sơ cấp, nhóm thứ cấp… Việc lựa chọn các tiêu chí xác định nhóm luôn phụ thuộc vào mục đích và tính chất của vấn đề cần nghiên cứu…

Khi định hướng dư luận trong nhóm xã hội thì việc thông qua những người có uy tín, địa vị cao trong nhóm có vai trò hết sức quan trọng. Ví dụ bí thư đoàn thanh niên định hướng dư luận cho đoàn viên, chủ tịch HPN định hướng dư luận cho hội viên, chủ tịch công đoàn định hướng DLXH cho công nhân…Những người đứng đầu tổ chức, đơn vị thường có vai trò định hướng rất rõ đối với các thành viên thuộc tổ chức của mình vì vậy việc trang bị cho người định hướng những thông tin có định hướng rõ ràng, chính xác, đầy đủ ý nghĩa về nội dung một thông điệp nào đó đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng là rất quan trọng. Bên cạnh đó cũng cần đánh giá đúng mức mối quan hệ giữa những thành viên với thiết chế nhóm vì mỗi thành viên có thể tham gia vào nhiều nhóm trong cùng một thời điểm, những nhóm có lợi ích cơ bản và chủ yếu thường được ưu tiên tham gia nhiều hơn và nhiệt tình hơn trong kế hoạch hoạt động của cá nhân so với những nhóm khác.

3. Nâng cao hiệu quả của công tác định hướng dư luận xã hội

Hiệu quả của việc định hướng dư luận xã hội phụ thuộc vào việc nhóm định hướng nắm bắt và làm chủ dư luận xã hội, chủ động đến các sự kiện xã hội và dự báo được xu thế phát triển của các sự kiện xã hội đó ( bao gồm các sự kiện xã hội đã, đang và sẽ nảy sinh). Vì vậy nhiệm vụ đánh giá đúng đắn cường độ, phạm vi tác động của các sự kiện xã hội đến các nhóm lợi ích có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác định hướng dư luận, nó giúp cho nhóm định hướng đưa ra những phương pháp định hướng phù hợp và có hiệu quả cao.

Công tác tuyên giáo và công tác định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay đang có nhiều thuận lợi thể hiện ở chỗ bầu không khí dân chủ mở rộng ngày càng được nâng cao, sự đồng lòng, nhất trí trong các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước được thể hiện rất rõ nét, những thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội, giáo dục, y tế, ngoại giao, khoa học kỹ thuật đang tạo ra những động lực mới cho sự phát triển toàn diện, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức đoàn thể quan trọng hơn, có uy tín ngày càng cao trong đời sống nhân dân. Báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng, các ấn phẩm, xuất bản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú tạo điều kiện chủ động thông tin cho mọi người dân trong quá trình học tập, lao động và sản xuất.

Bên cạnh đó công tác định hướng dư luận xã hội trong giai đoạn hiện nay cũng gặp không ít những khó khăn, đặc biệt dưới sự tác động của kinh tế thị trường, lối sống cá nhân ích kỉ, vụ lợi xuất hiện và đang len lỏi, thâm nhập vào các cá nhân, các nhóm xã hội. Sự phân tán về tư tưởng có dấu hiệu gia tăng, sự phân hoá về mức sống, về quan điểm, tư tưởng trong các nhóm xã hội, các giai tầng xã hội đang là nguyên nhân tạo ra sự khác biệt trong nội bộ các nhóm, các tổ chức xã hội. Xét dưới góc độ của công tác tuyên giáo, việc sử dụng đội ngũ công tác viên, thông tin viên, tuyên truyền viên, báo cáo viên và những người có uy tín trong cộng đồng trong những năm qua đã đạt được những kết quả rất quan trọng song vẫn còn nhiều điểm hạn chế về cơ chế đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, bản lĩnh chính trị; về chất lượng và hiệu quả của công tác thông tin tuyên truyền; về trình độ, năng lực và kinh nghiệm trong quá trình nắm bắt, phản ánh, định hướng các luồng dư luận xã hội cũng đang là những vấn đề cần xem xét, đối mới cho phù hợp với thực tiễn hơn.

Thứ 3: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội, trong đó việc nghiên cứu cần phải làm rõ tính quy luật và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh các luồng ý kiến khác nhau cũng như cơ sở khoa học để đánh giá, phán xét một luồng ý kiến nào đó, nâng cao vai trò chức năng dự báo, chức năng phản biện xã hội trong các nghiên cứu dư luận xã hội. Việc nắm bắt dư luận xã hội cần tuân thủ chặt chẽ các khâu, các công đoạn, các yêu cầu kỹ thuật và phương pháp nghiên cứu đảm bảo tính khách quan và khoa học trong quá trình thu thập thông tin.

Thứ 4: Định hướng dư luận xã hội cũng là việc minh bạch hoá các nguồn thông tin, hạn chế nhận thức sai lệch và loại bỏ tin đồn thất thiệt trong xã hội. Điều này cũng đòi hỏi đội ngũ công tác viên, thông tin viên, tuyên truyền viên, báo cáo viên và những người có uy tín trong cộng đồng phải có năng lực nhất định trong việc phân tích đánh giá, phán xét các sự kiện xã hội, phân biệt rõ giữa DLXH và tin đồn cũng như những tác động tiêu cực của tin đồn trong đời sống xã hội. Nâng cao khả năng dự báo, tham mưu trong quá trình nghiên cứu nắm bắt dư luận xã hội./.

Luận Án: So Sánh Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa Và Dân Chủ Tư Sản

, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Download luận án tiến sĩ ngành chủ nghĩa xã hội học với đề tài: Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo

1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ THU MAI NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI – 2023

2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ THU MAI NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: chúng tôi NGUYỄN ĐỨC BÁCH HÀ NỘI – 2023

3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Lê Thị Thu Mai

5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ vốn là một giá trị phổ biến xuất phát từ thực tiễn sản xuất và sinh hoạt của nhân loại từ thời nguyên thủy xa xưa – dân chủ nguyên thủy. Sau đó, dân chủ còn là khát vọng và là mục tiêu đấu tranh không ngừng của đại đa số nhân dân trong lịch sử hình thành và phát triển tiếp theo của xã hội loài người. Thực tế cho thấy, vấn đề dân chủ đã và đang được các nhà tư tưởng, các nhà hoạt động chính trị trong mọi thời đại, từ thời cổ đại đến nay, tiếp tục quan tâm và bàn luận. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển thực tiễn, lý luận và các chế độ dân chủ khác nhau: dân chủ nguyên thủy (khi chưa có chế độ tư hữu, giai cấp); chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản và ngày nay, theo quan điểm mácxít, là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản là đích đến mà dù sớm hay muộn, tất cả nhân loại sẽ vươn tới; là xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Dân chủ là một trong những giá trị, đặc trưng cơ bản thuộc về bản chất của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ là một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, dân chủ có nghĩa “dân là chủ” và “dân làm chủ”; rằng, “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”. Trong thời đại ngày nay, đối với dân tộc Việt Nam, thực hiện tốt dân chủ là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản để hội nhập và phát triển theo con đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã xác định. Có thể nói, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến nền

6. 2 dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho dù vẫn đang trong quá trình từng bước hoàn thiện, cụ thể hoá, thực thi và đã có nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, như Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [38, tr.168]… Đã xuất hiện không ít những hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, rằng: Liệu dân chủ xã hội chủ nghĩa có “dân chủ hơn” dân chủ tư sản hay không? Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và có gì giống, khác với dân chủ tư sản mà các nước phương Tây đang xây dựng? Tại sao có những nước thực hiện dân chủ thành công, trong khi các nước khác lại thất bại? Tại sao việc đánh giá thế nào là dân chủ và không dân chủ lại không giống nhau giữa các nước? Đâu là mô hình dân chủ chung cho các quốc gia khi mà các nước trên thế giới đang ngày càng xích lại gần nhau và Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm gì về xây dựng dân chủ ở các quốc gia đó? Nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vừa xuất phát từ nguồn cội của nó là “dân chủ nguyên thủy” với “nội hàm gốc” là “quyền lực của nhân dân”, vừa phải kế thừa những giá trị của chế độ dân chủ tư sản – một chế độ dân chủ ra đời trước dân chủ xã hội chủ nghĩa hàng thế kỷ, với cả những thành quả, giá trị lẫn những hạn chế của nó – trên cơ sở làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản sẽ có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu những điểm “tương đồng” và những “khác biệt” của dân chủ xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản có ý nghĩa cấp thiết vì sẽ khắc phục được cả hai xu hướng lệch lạc hiện nay: Một là, xu hướng bảo thủ với tư duy cũ, thể hiện bệnh ấu trĩ tả khuynh, đối lập và phủ định sạch trơn dân chủ tư sản;

7. 3 Hai là, xu hướng ngày càng mơ hồ, sai lệch, hữu khuynh, “hòa nhập” theo dân chủ tư sản phương Tây – khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn với thế giới, chủ yếu là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Việc nghiên cứu này không những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện, sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực tiễn, giải đáp những vấn đề thực tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác, nghiên cứu, so sánh bản chất cũng như thực tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở nhiều quốc gia tư bản trên thế giới hiện nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, góp phần đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng chiêu bài “dân chủ nhân quyền” để chống phá nước ta. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, trước hết của giới lý luận ở nước ta. Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về những điểm tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận án đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu những giải pháp vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản vào xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

10. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước 1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan niệm, cách tiếp cận, bản chất của dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [9, tr.7-11]; Nguyễn Đăng Quang, Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ [77, tr.12-15]. Hai bài viết này bàn về dân chủ với những phương pháp tiếp cận khác nhau: tiếp cận từ những cơ sở hình thành dân chủ, bao gồm: cơ sở kinh tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở chính trị của dân chủ và dân chủ trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân chủ trong lĩnh vực văn hóa, xã hội; tiếp cận từ các nội dung cơ bản của dân chủ: theo nội dung chính trị, dân chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung văn minh, dân chủ là sản phẩm của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo, dân chủ là phương thức tổ chức xã hội hiện đại. Những tài liệu này là những gợi mở để tác giả luận án có thêm những tiếp cận đa dạng khái niệm, quan niệm về dân chủ trong chương 2 của luận án. Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ – Lý luận và thực tiễn [73]; Cao Văn Thống, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay [110]. Các tài liệu trên được sưu tầm và biên soạn về những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Theo đó, tập trung dân chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong tổ chức, vận hành của Đảng, Nhà nước và của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

11. 7 Vũ Văn Viên, Nhà nước pháp quyền – công cụ để thực hiện dân chủ [133, tr.35-39]; Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay [43, tr.5-9] phân tích sự gắn bó mật thiết giữa pháp luật và dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Nhà nước pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức quyền lực để thực hiện dân chủ tư sản. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ quan trọng để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trần Quang Nhiếp, Dân chủ với phát triển cộng đồng [70]. Đây là cuốn sách đã trình bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở như: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân chủ đối với phát triển cộng đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới. Nguyễn Thanh Tuấn, Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa [114, tr.114]. Cuốn sách này giúp tác giả luận án có thêm cơ sở lý luận khi phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tác giả cuốn sách, theo tinh thần đổi mới, đã phân tích việc vận dụng những quan điểm đó trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hà Đăng, Mô hình tổ chức nền dân chủ [39]; Phan Xuân Sơn, Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [93]; Trương Minh Tuấn, Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng [115, tr.3-8]; Vũ Hoàng Công, Vấn đề dân chủ trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng [29]. Đây là các công trình mà các tác giả đã phân tích các quan điểm mới của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa như: mô hình dân chủ; dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển; hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm

12. 8 chủ; nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước… Hội đồng Lý luận Trung ương, Dân chủ, nhân quyền – giá trị toàn cầu và đặc thù quốc gia [48]. Các tác giả của công trình không chỉ nêu lên những vấn đề chung về dân chủ, về nhân quyền đang được các nhà lý luận ở nhiều nước trên thế giới sử dụng mà còn đi sâu phân tích, phê phán những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Lê Minh Quân, Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản [84, tr.13-21]; Cao Đức Thái, Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của chúng ta [97, tr.18-20]; Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề về dân chủ [26, tr.9-21]. Các tác giả trong các công trình kể trên đã phân tích các vấn đề về dân chủ, dân chủ hóa và khẳng định: dân chủ có nhiều cách tiếp cận: từ góc độ giá trị, góc độ thể chế, góc độ phương pháp, phong cách. Dân chủ hóa là xu thế khách quan của thời đại; nền dân chủ của Việt Nam đã và đang phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay. Đức Vượng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi mới [137]. Công trình này đã trình bày, phân tích quá trình đổi mới, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nêu lên những nhận thức mới của Đảng về mục tiêu, đặc trưng và các nội dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển [85]. Đây là một công trình trình bày, phân tích nhiều nội dung lý luận, thực tiễn về dân chủ, độc tài và phát triển ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Liên Xô thời Stalin. Thông qua việc xử lý một khối lượng tư liệu khổng lồ, Hồ Sĩ Quý đã phân tích, đối chiếu, xem xét nội hàm và mối quan hệ giữa các vấn đề dân chủ, độc tài và phát triển. Đặc biệt, trong Phần II của Chương I cuốn sách, tác giả đã luận bàn rất ngắn gọn, súc tích về khái niệm và một số quan niệm cơ bản về dân chủ từ nhiều phương diện khác nhau. Ngoài quan niệm cơ bản “Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực

13. 9 thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân” [85, tr.37], ở những khía cạnh khác, trong các quan hệ khác nhau của đời sống xã hội, tác giả còn nêu ra 11 quan niệm khác nhau về dân chủ. Một số quan niệm đó là: “Dân chủ là một lối sống dựa trên sự tôn trọng quyền cá nhân”; “Dân chủ là quyền bình đẳng của mỗi người trong việc nhận thức và hành động xây dựng xã hội, theo cách mà đa số đều đạt được lợi ích”, “Dân chủ là một tư tưởng chính trị, mà các giá trị cơ bản của nó là tự do, bình đẳng và thừa nhận lẫn nhau” hay “Dân chủ là một sự trao đổi và đối thoại được thực hiện một cách tự do nhất giữa các thành viên xã hội”; hoặc “Dân chủ là một hình thức tổ chức chính quyền, để tất cả mọi người đều có thể, trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia vào các quyết định quan trọng trong phân bổ các giá trị”… [85, tr.37- 38]. Đây là những tư tưởng rất quan trọng mà luận án kế thừa và làm rõ trong chương 2. Cuốn sách còn có nhiều nhận định, đánh giá sâu sắc chứa đựng nhiều gợi mở. Ví dụ: “Dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa bằng một trình độ dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, không phải chính thể nào cũng thừa nhận chân lý này…” [85, tr.39]. 1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa Vũ Văn Hiền, Dân chủ cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc [45]. Công trình đã phân tích việc thực hiện dân chủ cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc về các vấn đề: Nhà nước phúc lợi xã hội, về hệ thống chính trị; sự tham gia hoạt động quản lý nhà nước một cách dân chủ; dân chủ điện tử – một công cụ chính trị mới; xây dựng chính phủ của nhân dân trong thế kỷ mới. Hay xây dựng dân chủ cơ sở với xã hội khá giả, quan hệ xây dựng dân chủ ở cơ sở với cải cách hệ thống chính trị… Khu dân cư tự quản là thực tiễn mới của việc xây dựng nền dân chủ cơ sở ở đô thị. Những phân tích này là tài liệu quý để tác giả luận án có thêm góc nhìn để so sánh thực tiễn hai chế độ dân chủ ở hai quốc gia đi theo hai con đường phát triển khác nhau là Trung Quốc và Thuỵ Điển.

14. 10 Lê Văn Toan, Nguyễn Viết Thảo, Thể chế chính trị – Một số kinh nghiệm của thế giới [111]. Tác giả đã khái quát những nét chính về thể chế chính trị của các nước trong từng châu lục để có cách nhìn tổng quan hơn, so sánh đậm nét hơn về những nét giống và khác nhau của thể chế chính trị từng châu lục trên toàn thế giới, từ đó chỉ ra kinh nghiệm và những gợi mở đối với việc xây dựng thể chế chính trị Việt Nam. Phạm Văn Đức, Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền [40]. Cuốn sách này dành hẳn Chương II để phân tích kinh nghiệm thực hành dân chủ của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó, các tác giả đã phân tích nội dung thực hành dân chủ ở Cộng hòa Liên bang Đức, ở Thái Lan, ở Xingapo, ở Đài Loan; từ đó nêu lên một số hạn chế trong quá trình thực hành dân chủ ở những nước này cũng như những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Viết về thực hành dân chủ ở Cộng hoà Liên bang Đức và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Phạm Văn Đức cho rằng: Kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Đức có thể cung cấp cho chúng ta những bài học bổ ích trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Về chính trị, trước hết cần xây dựng một thể chế dân chủ, với các quyền và tự do cơ bản của công dân được bảo đảm bằng những nguyên tắc hiến định. Nhà nước pháp quyền đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tư tưởng, tôn giáo, hội họp, lập hội (bao gồm thành lập các nghiệp đoàn, đảng phái,…), tự do bầu cử, ứng cử, quyền sở hữu và tự do kinh doanh của công dân. Về kinh tế, tăng cường và mở rộng việc thực hành dân chủ các quyền kinh tế thông qua việc không ngừng phát huy lợi thế của nền kinh tế thị trường nhưng trên nền tảng có sự điều tiết bằng những chiến lược cụ thể [40, tr123-124]. Những nhận định như vậy có ý nghĩa quan trọng để luận án tham khảo trong việc so sánh về thực tiễn hai nền dân chủ mà chúng tôi triển khai ở chương 3.

15. 11 Các công trình trên cũng đã chỉ ra những hạn chế, những “bế tắc” của nền dân chủ phương Tây trước yêu cầu phát triển mới. Đặc biệt, giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi thực hiện nền dân chủ công bằng hơn, bảo vệ lợi ích cho họ. Từ một số công trình nghiên cứu trên có thể thấy, nền dân chủ tư sản hay “dân chủ phương Tây” không phải là “một mô hình lý tưởng”, một “khuôn mẫu” để các nước học tập hay mô phỏng. Bản thân các học giả phương Tây cũng thừa nhận điều này. Đây cũng là một bài học cho quá trình xây dựng và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta học hỏi, tiếp thu các giá trị tiến bộ, tích cực của dân chủ phương Tây nhưng cũng phải biết loại bỏ những tính chất tiêu cực của nó, đặc biệt đấu tranh phê phán các quan điểm có tính chất áp đặt mô hình dân chủ phương Tây vào nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch. Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn [73], là công trình trong đó tập hợp những chuyên luận nghiên cứu của tác giả về dân chủ và tập trung dân chủ, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường, Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền [74]. Trong công trình này, tác giả luận giải nhiều nội dung về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng văn hóa pháp luật… Lê Minh Quân, Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [83]. Đây là một tác phẩm bàn về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa, xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo

16. 12 hướng dân chủ hóa; xây dựng, phát triển xã hội công dân; xây dựng, phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa… [83, tr.341]. Nguyễn Ngọc Hà, Luyện Thị Hồng Hạnh, Dân chủ và tính đặc thù của việc thực hành dân chủ ở Việt Nam [42, tr.70] cho rằng, tùy theo điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa riêng, mỗi nước đều xác định tiêu chuẩn dân chủ phù hợp với nước mình. Tính đặc thù của dân chủ và thực hành dân chủ ở Việt Nam thể hiện: dân chủ đang xây dựng là dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân chủ ở Việt Nam không có đối trọng giữa các đảng; không có tam quyền phân lập; có sự thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội; không có quy định nhân dân trực tiếp bầu ra người đứng đầu Nhà nước. Đinh Thế Huynh và các cộng sự, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam [53]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã dành hẳn một chương để phân tích, tổng kết về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền qua 30 năm đổi mới ở Việt Nam. Đây là những vấn đề mà luận án sẽ tiếp tục làm rõ. Đỗ Thị Thạch, Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước [96]. Trong báo cáo đề tài cấp bộ này, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn; thực trạng nhận thức, xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới; những vấn đề đặt ra; xu hướng phát triển dân chủ và các giải pháp góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình quan trọng trong việc nêu lên những giải pháp có tính khả thi trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta – vấn đề mà luận án đặc biệt quan tâm và kế thừa nhiều tư liệu. 1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu mang tính so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa Nguyễn Đức Bách, Mấy vấn đề về dân chủ và hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích [3]. Trong bài viết này, tác

17. 13 giả đã phân tích những điểm chung – tương đồng của ba chế độ dân chủ đã có trong lịch sử: Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản (hay dân chủ xã hội chủ nghĩa). Những điểm chung – tương đồng đó là: 1) Đều là một chế độ chính trị – một hình thức nhà nước khi xã hội còn giai cấp. 2) Đều có bộ máy nhà nước và quan chức do bầu cử. 3) Đều có hệ thống pháp luật nhà nước để buộc mọi người phải tuân thủ… 4) Đều chỉ có một giai cấp lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội… Đặc biệt, tác giả chỉ ra những khác biệt căn bản giữa các chế độ dân chủ khác nhau (dù có kế thừa nhau), suy cho cùng là ở bản chất – mục tiêu và lợi ích của các giai cấp lãnh đạo xã hội… đã chi phối sự khác nhau về ý thức hệ, về nội dung cụ thể của các luật pháp và các mối quan hệ về địa vị, về lợi ích… giữa các giai cấp lãnh đạo xã hội với các giai tầng còn lại trong mỗi chế độ dân chủ đó. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa [72]. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những quan điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát triển, thực trạng, bản chất, khuyết tật của dân chủ tư sản; bản chất, sự hình thành và những thách thức của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở đây, dân chủ xã hội chủ nghĩa được tiếp cận toàn diện, hệ thống với 5 khía cạnh: hình thức tổ chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều kiện để hình thành nhân cách trung thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội (tập trung dân chủ); động lực, bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Công trình này tuy không đặt dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong sự so sánh nhưng cách triển khai vấn đề của các tác giả là cơ sở quan trọng để nhìn nhận rõ những khác biệt giữa hai nền dân chủ này, từ tiền đề ra đời, bản chất, vai trò của nó. Luận án sẽ kế thừa và làm rõ hơn vấn đề này. Trần Thành, Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội – lịch sử và hiện đại [101]. Đây là công trình mà tác giả trình bày lịch sử hình thành phát triển dân chủ từ phương diện lý luận, thực tiễn; phân tích bản chất, thực

18. 14 trạng của dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng chế độ dân chủ ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp. Nguyễn Văn Quyết, Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin làm sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa [87]. Trong báo cáo đề tài khoa học này, tác giả đã trình bày rõ những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự tương đồng, khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác giả của đề tài đã nêu những gợi mở cho nhận thức và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đây là phần cơ sở lý luận rất quan trọng mà luận án sẽ tham khảo để so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở phạm vi và góc độ rộng hơn, bao quát hơn. Lô Quốc Toản, Giáo trình lý luận về dân chủ [112]. Trong công trình này, tác giả đã dành một tiết của Chương IV để so sánh những điểm giống và khác nhau cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản. Trong đó, về những điểm giống nhau, tác giả nêu rõ: Một là, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực hành dân chủ thông qua hình thức nhà nước pháp quyền; Hai là, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều đề cao nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân; Ba là, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng như chế độ dân chủ tư sản đều bị quy định bởi trình độ phát triển của kinh tế, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, dân trí và thông tin. Về những điểm khác nhau, theo tác giả Lô Quốc Toản, một là, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Còn chế độ dân chủ tư sản lại lấy sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của mình; hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cho nhân dân, trong khi đó, trong nhà nước pháp quyền tư sản, giai cấp tư sản nắm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, vì vậy trên thực tế toàn bộ pháp luật cũng như cơ chế vận hành của xã hội đều thể hiện và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản; ba là, nền dân chủ xã hội

20. 16 chúng ta đã nhận thấy lý do vững chắc để không chấp nhận bất cứ mô hình nào, dù đó là mô hình cổ điển hay hiện đại” [42, tr.438]. O.T.Bogomolov, Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế – xã hội [94, tr.3-14] là một nghiên cứu trong đó chỉ ra các nguyên tắc nền tảng của dân chủ; cuộc khủng hoảng của dân chủ phương Tây; mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển ở các nước trên thế giới và ở Nga. Tác giả cho rằng, chính ảnh hưởng của Liên Xô và những thành tựu mà Liên Xô đạt được trong lĩnh vực xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi. Theo đó, ở Nga hiện nay, việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô hình Bắc Âu là phù hợp với tâm lý của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm lịch sử của thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Hồ Cẩm Đào, Bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa [71] khẳng định: Nước Trung Quốc là nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyên chính dân chủ nhân dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Dân chủ nhân dân là sinh mệnh của xã hội chủ nghĩa, nhân dân làm chủ là hạt nhân và bản chất của chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Không có dân chủ là không có xã hội chủ nghĩa, cũng là không có hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa [72, tr.299-300]. Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử, Dân chủ trực tiếp: sổ tay IDEA quốc tế [135]. Đây là công trình tổng quan về việc vận dụng dân chủ trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây, dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ. Theo đó, dân chủ trực tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia của công dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội đang phát triển.

21. 17 Thoma Meyer, Tương lai của nền dân chủ xã hội [108]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu lên một cách khá đầy đủ dự án “dân chủ xã hội” và những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai trong thế giới toàn cầu hóa. Theo đó, các quyền cơ bản về dân sự và chính trị phải được bổ sung bằng các quyền xã hội và kinh tế nhằm tạo dựng được những điều kiện sống có nhân phẩm cho tất cả mọi người. Trọng tâm mà cuốn sách muốn đề cập là nền dân chủ hiện đại được hợp thức hóa như thế nào, công bằng xã hội có vai trò ra sao đối với nền dân chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ bản nào và nó có ý nghĩa thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của một xã hội? Trên cơ sở các tiêu chuẩn cơ bản của dân chủ xã hội, cuốn sách giới thiệu một cách khái quát mô hình thể chế dân chủ ở 6 quốc gia khác nhau. Trong đó, Thụy Điển, Hà Lan và Cộng hòa Liên bang Đức là những quốc gia, thông qua con đường riêng của mình, đã xây dựng tương đối thành công những thể chế dân chủ đáp ứng được ở mức độ cao những đòi hỏi đối với một thể chế dân chủ xã hội; Mỹ và Anh là những quốc gia, cũng bằng cách riêng của mình và ở những mức độ khác nhau, đã xây dựng những thể chế dân chủ theo kiểu tân tự do. Nhật Bản là một quốc gia với một nền văn hóa khác hẳn nền văn hóa châu Âu, đã xây dựng được một thể chế dân chủ đáp ứng được phần lớn các tiêu chuẩn của mô hình dân chủ xã hội. Những luận điểm trong cuốn sách cung cấp thêm những cách nhìn đa chiều về mô hình dân chủ tư sản với những ưu điểm và cả những hạn chế của nó. Đây là một vấn đề mà luận án quan tâm làm rõ. Davit Held, Các mô hình quản lý nhà nước [32] trình bày các mô hình tổ chức hoạt động của nhà nước theo các quan niệm dân chủ trong các giai đoạn lịch sử, trong đó, chủ yếu tác giả phân tích, đánh giá về các mô hình cơ bản của dân chủ hiện đại cùng những biến thể của nó trước tác động của toàn cầu hóa. Tác giả viết đại ý rằng, chúng ta không thể hài lòng với những mô hình dân chủ hiện hữu, dù là mô hình cổ điển hay hiện đại; sẽ không có một hình mẫu dân chủ cho mọi quốc gia.

22. 18 Hai là, các công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản, tiêu biểu có thể kể đến như: Lilia Sevtsova, Người Nga bàn về các giá trị phương Tây [61]. Câu hỏi mà tác giả đặt ra là: tại sao những người tự do ở Nga không còn tin tưởng vào giá trị tự do của phương Tây và Mỹ nữa? Qua việc nghiên cứu nền dân chủ phương Tây, tiêu biểu là Mỹ, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản là: “Sự thật là bản thân chủ nghĩa tự do phương Tây hiện nay còn rất nhiều vấn đề, nhất là vấn đề xuất khẩu dân chủ”. Sự can thiệp của phương Tây vào các nước kém phát triển trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền bằng bạo lực đã lộ rõ bộ mặt bá quyền thế giới của họ. Trích dẫn các ý kiến của các học giả phương Tây như F.Fukuyama hay W.Galstom, bản thân họ cũng cho rằng: “Chúng ta cần một sự đổi mới cơ bản của tự do truyền thống nước Mỹ”. Còn Z.Brenzinski, cố vấn cao cấp của Tổng thống Mỹ cũng nhận định: “Châu Âu là nơi nghỉ hưu lý tưởng nhất thế giới”. Sự kém năng động của nền kinh tế các nước phương Tây trong những năm vừa qua chính là cơ sở để ông đi đến nhưng kết luận này. Như vậy, tự do, dân chủ phương Tây cũng đang đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải được đổi mới, cải cách. Đài Tiếng nói quốc tế nước Nga, Những vấn đề của nền dân chủ Mỹ [35]. Tác giả của bài viết đã chỉ ra tính vô căn cứ trong tham vọng toàn cầu của Mỹ là “mở rộng và bảo vệ tự do nhân quyền trên toàn thế giới” bởi những vấn đề đó của nước Mỹ cũng không tốt đẹp gì. Trích dẫn báo cáo: “Tình hình nhân quyền tại Hoa Kỳ” do Bộ Ngoại giao Nga ban hành năm 2012; theo đó, mức độ tự do ngôn luận tại Mỹ bị các tổ chức nhân quyền quốc tế đánh giá rất thấp, đặc biệt là đối với hành động của chính phủ Mỹ ngăn cấm nhà báo đưa tin phản ánh các cuộc biểu tình “Chiếm Phố Wall”. Đây không phải là lần đầu tiên nước Mỹ vi phạm nhân quyền, trước đó, các hành vi thô bạo của cảnh sát chống người nhập cư, về các vụ xâm phạm quyền tự do ngôn luận, bất bình đẳng về giai cấp ở Mỹ, đối xử bất công với trẻ em nhập cư từ Nga, mở các

26. 22 trọng về mặt khoa học, làm sáng tỏ trên nhiều phương diện lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản: – Các tác giả đã có nhận thức chung về nội hàm của khái niệm dân chủ: từ nghĩa gốc dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ được tiếp cận trên những góc độ, phương pháp khác nhau và được nhận thức như là phạm trù phức tạp có bản chất nhiều thứ bậc với nội hàm rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng cho thấy điểm chung tương đối thống nhất trong quan niệm về nội dung dân chủ. Dân chủ được hiểu là chế độ chính trị, hình thức nhà nước khẳng định chủ quyền nhà nước của nhân dân; là quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là của giai cấp thống trị; là thành quả đấu tranh của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột; là cơ chế, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng và các tổ chức chính trị – xã hội; là giá trị xã hội, giá trị nhân văn phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội… Dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị mà còn là phạm trù xã hội; không chỉ là thể chế, tổ chức mà còn là cơ chế, giá trị; không chỉ là tư tưởng, quan điểm mà còn là hành vi, phong cách, phương pháp; không chỉ có giá trị nhân loại mà còn có giá trị giai cấp, dân tộc; không chỉ là phạm trù lịch sử mà còn là phạm trù vĩnh viễn; dân chủ là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. – Các công trình trên có nhận thức chung tương đối thống nhất về nền dân chủ: với những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ, các nghiên cứu cho thấy có nhiều loại hình dân chủ, chế độ dân chủ, nền dân chủ với những nội dung, đặc trưng khác nhau; ngay cả một loại hình dân chủ cũng có những biến thể khác nhau. Giữa các loại hình dân chủ, giữa các nền dân chủ, kể cả giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa – là những loại hình dân chủ có sự khác nhau về chất, cũng có những nguyên tắc, cơ chế, giá trị chung, phổ biến cả trên phương diện nội dung, hình thức, cả nhận thức và thực tiễn. Theo đó, nền dân chủ, chế độ dân chủ là một chỉnh thể xã

27. 23 hội trong đó các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận và thực thi trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trong xã hội có giai cấp, nền dân chủ là một chỉnh thể hiện thực trong đó có chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ của nhân dân và mang bản chất của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không ngừng của nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản dân chủ, phi dân chủ; sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị, xã hội; sự hiện hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người. – Từ những góc độ, khía cạnh khác nhau, các nhà nghiên cứu đã dành sự quan tâm lớn đối với các nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có công trình nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vô sản, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ Xôviết. Có công trình nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc trong sự nghiệp cải cách mở cửa, nghiên cứu về dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới ở Lào và ở Việt Nam. Trong đó có nhiều công trình nghiên cứu sâu về nội dung chính trị, thể chế của dân chủ xã hội chủ nghĩa; cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa từ góc độ cơ chế, giá trị xã hội, giá trị văn minh của nó. Đồng thời, cũng đã có công trình quan tâm nghiên cứu nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên một số khía cạnh nội dung qua mỗi đại hội Đảng, qua từng chặng đường đổi mới của đất nước ta (10 năm, 15 năm, 20 năm, 25 năm, 30 năm đổi mới). Tóm lại, xung quanh vấn đề nhận thức về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đã có rất nhiều công trình đề cập đến các khía cạnh, mức độ khác nhau, tùy theo mục đích và phương pháp tiếp cận. Những kết quả nghiên cứu của các công trình nói trên là tài liệu tham khảo có giá trị về nhiều mặt để

28. 24 tác giả luận án tham khảo trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ và mục đích đề ra. 1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm Kế thừa thành quả trong những công trình nghiên cứu của các học giả đi trước, luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu, làm rõ những vấn đề sau: Thứ nhất, phân tích những nhận thức chung về khái niệm “dân chủ” một cách có hệ thống (từ nội hàm gốc là “quyền lực của nhân dân” cho đến nhiều quan niệm “phái sinh” theo lịch sử…), trên cơ sở đó làm rõ bản chất, quá trình ra đời, phát triển và vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Thứ hai, so sánh những điểm tương đồng và khác biệt, những giá trị của dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, đề xuất những yêu cầu cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

29. 25 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN DÂN CHỦ 2.1.1. Quan niệm về dân chủ 2.1.1.1. Quan niệm chung về dân chủ Dân chủ với tính cách là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính trị được nảy sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với những hiện tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính lịch sử, nên dân chủ không xuất hiện tức khắc và cũng không tồn tại bất biến. Nó được phát triển trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô lệ, giữa dân chủ và chuyên chế, độc tài. Xét về mặt lịch sử, thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện rất sớm, từ thực tiễn “dân chủ nguyên thủy” – khi chưa có chế độ tư hữu và chưa xuất hiện giai cấp. Dân chủ theo nguyên nghĩa từ tiếng Hy Lạp cổ là do hai từ hợp thành: demos – nhân dân và kratos – để phản ánh thực tế đã có là quyền lực thuộc về nhân dân. Sau đó, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong cuộc đấu tranh của phái “chủ nô dân chủ” chống phái “chủ nô quý tộc” trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ xã hội đầu tiên có sự phân chia thành giai cấp, về thực chất, quyền lực của nhân dân đã bị giai cấp chủ nô “tiếm quyền” (theo cách viết của Ph.Ăngghen). Cũng như các khái niệm khoa học khác, khái niệm dân chủ cũng ngày càng bổ sung và phát triển theo cả bề rộng lẫn chiều sâu. Khái niệm “dân chủ” hiện nay được hiểu rất rộng và theo nhiều chiều cạnh phong phú, đa dạng: dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội (tự do, bình đẳng, quan hệ giữa người với

30. 26 người trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: gia đình, bạn bè, thầy trò…); dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước. Như vậy, dân chủ hiểu theo nghĩa hiện đại có hàm nghĩa rất rộng. Dân chủ, không chỉ là phạm trù chính trị, mà còn là phạm trù xã hội, không chỉ là phạm trù lịch sử, mà còn phạm trù vĩnh viễn. Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên, con người đã biết hợp lực để sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và đã tổ chức ra những hoạt động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người đứng đầu để thực thi những quy định, điều hành hoạt động chung. Đồng thời, cộng đồng sẽ phế bỏ những người đó, nếu họ không thực hiện những quy định chung theo lợi ích và ý nguyện của mọi người. Đây là một trong những quyền vốn có đương nhiên của mọi thành viên trong cộng đồng. Quyền lực ấy là ngang nhau đối với mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc. Những nội dung cốt lõi của khái niệm dân chủ được hình thành từ thời cổ đại Hy Lạp về cơ bản vẫn được các nhà lý luận ngày nay kế thừa và phát triển. Điều khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở nội hàm của khái niệm nhân dân và tính trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng. Ngày nay, mặc dù hầu hết các nhà lý luận, các nhà chính trị khi bàn đến vấn đề dân chủ thường lấy thuật ngữ “Demokratos” làm điểm tựa xuất phát, nhưng cuộc tranh luận về dân chủ vẫn diễn ra hết sức gay gắt, những lập luận, lý giải về dân chủ rất đa dạng, phong phú và kết quả là vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì: Một là, ở góc độ nghiên cứu, vấn đề dân chủ có thể được xem xét dưới góc độ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Mỗi ngành khoa học cụ thể có một hệ phương pháp tiếp cận khác nhau, một hệ thống các phạm trù, khái

31. 27 niệm biểu đạt đặc thù và có mục tiêu nghiên cứu riêng. Do đó, người ta đã đưa ra những quan niệm khác nhau về dân chủ. Hai là, ở góc độ thực tiễn của các chế độ chính trị, mặc dù các nước đều tự cho mình là dân chủ, song do có sự khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển, truyền thống văn hoá nên cũng dẫn đến việc mỗi nước có cách hiểu và lý giải khác nhau về dân chủ. Ba là, ở góc độ thuật ngữ, phạm trù dân chủ là một cơ cấu nhiều tầng bản chất được hiểu với nhiều nghĩa. Do đó, với những nguyên tắc và phương pháp tiếp cận khác nhau, người ta cũng sẽ đưa ra quan điểm khác nhau về dân chủ [dẫn theo 112, tr.9]. 2.1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế thừa các thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông phát triển những tư tưởng dân chủ đã có, mặt khác bổ sung, phát triển quan điểm mới phù hợp với điều kiện lịch sử đương thời. Quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển về dân chủ được biểu hiện ở một số nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, trên cơ sở từ “nội hàm gốc” của “dân chủ nguyên thủy” – với nghĩa thật sự là “quyền lực của nhân dân” trong điều kiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, các ông đã tập trung nghiên cứu “vấn đề dân chủ” từ khi xã hội loài người có chế độ tư hữu và phân chia thành giai cấp và xuất hiện các loại nhà nước, dân chủ (chế độ dân chủ hoặc nền dân chủ). Đó là hình thức tổ chức nhà nước dựa trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền lực. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác chỉ rõ: “từ “dân chủ” nếu chuyển sang tiếng Đức thì có nghĩa là “nhân dân làm chủ””[22, tr.44-45]. Điều đó có nghĩa trong chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, nhân dân tạo nên nhà nước, chứ không phải nhà nước tạo nên nhân dân. C.Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con

32. 28 người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước” [15, tr.350]. Thứ hai, chủ nghĩa Mác-Lênin sử dụng khái niệm dân chủ trên phương diện quyền lợi của nhân dân, là vấn đề quyền lợi dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng. C.Mác cho rằng, nhân dân nên là chủ nhân của nhà nước. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước phải thuộc sở hữu của nhân dân, sở hữu của xã hội; đồng thời, bộ máy nhà nước phải phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Chỉ khi mọi quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mới có thể căn bản đảm bảo việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ, hưởng quyền lợi dân chủ khắp mọi nơi. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin cho rằng dân chủ là việc nhân dân được hưởng quyền tham gia quyết định chế độ nhà nước và quản lý nhà nước. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh đạo có trách nhiệm, có quyền được thay đổi những người lãnh đạo của mình, có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi một bước nhỏ nhất trong hoạt động của những người đó. Quần chúng phải có quyền được đề bạt trong nội bộ của họ bất kỳ một công nhân nào lên phụ trách chức vụ lãnh đạo. Nhưng như vậy không mảy may có nghĩa là quá trình lao động tập thể có thể không cần một sự lãnh đạo nào, không cần có sự xác định chính xác chức trách của người lãnh đạo, không cần một trật tự hết sức nghiêm ngặt do ý chí thống nhất của người lãnh đạo lập ra [125, tr.192]. Thứ ba, trên phương diện chế độ chính trị, chủ nghĩa Mác đã lý giải khái niệm dân chủ như một hình thức nhà nước hay một hình thái nhà nước, như là chế độ dân chủ hay chính thể dân chủ. C.Mác, trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel, đã gọi chế độ quân chủ và chế độ dân chủ là chế độ nhà nước [15, tr.350].

34. 30 hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội. Những thành tựu đạt được của dân chủ trước chủ nghĩa xã hội, mà đỉnh cao là dân chủ tư sản, xét về ý nghĩa khách quan, đều mang những tiến bộ xã hội, vì nó từng bước chuẩn bị tiến tới nền dân chủ đầy đủ, triệt để và hoàn thiện nhất trong chủ nghĩa xã hội. Mặc dù chưa đem lại quyền lực cho đa số người lao động, nhưng nền dân chủ tư sản vẫn cần thiết đối với tiến bộ xã hội. Nó tích lũy và làm chín muồi ý thức dân chủ, tinh thần phản kháng mọi hiện tượng bất công, mất dân chủ, tạo nên sự trưởng thành về chính trị, ý thức giai cấp của quần chúng, cung cấp cho họ kinh nghiệm thực tiễn cần thiết để chuyển từ đấu tranh đòi cải thiện dân sinh dân chủ sang đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, tức là vì dân chủ thực sự, triệt để nhất. V.I. Lênin đã chỉ rõ, chính chủ nghĩa tư bản trong tiến trình phát triển của nó đã dẫn tới các tiền đề cho sự chín muồi đầy đủ của dân chủ và một khi dân chủ đã phát triển đầy đủ thì nó không thể dung nạp được trật tự tư sản. Do vậy, chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn. 2.1.1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa Về nền dân chủ tư sản, nghiên cứu vấn đề dân chủ được đặt ra trong điều kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự tuyệt đối hóa những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương thời cũng như nhu cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen trước hết vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản. Ph.Ăngghen viết về chế độ dân chủ tư sản như sau: Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ chính thể nào khác, cũng là sự dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối… Tự do chính trị là tự do giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự do, và vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như vậy, vì thế chế độ dân chủ (tức là dân chủ trong chủ nghĩa tư bản –

36. 32 C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng, việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng của công dân. Theo các ông: “… những quyền tự do như tự do báo chí, tự do lập hội và tự do hội họp, quyền đầu phiếu phổ thông, quyền tự trị của địa phương – những quyền mà nếu không có… thì công nhân sẽ không bao giờ có thể giải phóng được mình” [20, tr.98-99]. Trong bối cảnh giữa thế kỷ XIX, khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới ở giai đoạn phôi thai về mặt lý luận, các ông đã nhận ra cơ sở nền tảng để thực hiện nó: “Mặc dầu quần chúng không phải bao giờ cũng hiểu được rõ ràng cái ý nghĩa duy nhất chính xác đó của dân chủ nhưng đối với họ, cái khái niệm dân chủ đã bao hàm khát vọng, tuy còn mơ hồ, về bình đẳng xã hội” [16, tr.791]. Rất nhiều công trình nghiên cứu sau này đều có nhận định, quyền bình đẳng xã hội của các công dân là tiền đề quan trọng nhất trong thực hiện dân chủ [2, tr.10-21]. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, từ thực tiễn của cách mạng vô sản Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục hoàn thiện, phát triển quan niệm về dân chủ. Trước hết, V.I.Lênin đã đưa ra những đánh giá khách quan, khoa học về nền dân chủ tư sản. Theo ông, tư tưởng dân chủ tư sản là một nấc thang trong tiến trình phát triển của tư tưởng dân chủ của nhân loại. Sự vận hành của chế độ dân chủ tư sản trên thực tế đã tạo ra những thành tựu dân chủ quan trọng. Tuy nhiên, hạn chế lịch sử của nó là “tính ước lệ, hạn hẹp”. Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại một chế độ dân chủ ít nhiều đầy đủ trong chế độ cộng hoà dân chủ. Những chế độ dân chủ ấy luôn bị bó buộc trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Nó luôn là chế độ dân chủ đối với thiểu số, là chế độ dân chủ của giai cấp có của, giàu có. So sánh nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản, trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky, V.I.Lênin đã có một luận điểm nổi tiếng khi khẳng định “nền dân chủ vô sản hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản”. Những luận cứ điển hình mà ông đưa ra để làm sáng

37. 33 tỏ quan điểm của mình là: Sau khi đánh đổ chế độ Nga sa hoàng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã xóa bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền cũ, xây dựng hệ thống chính quyền mới gọi là các “xô viết”, về thực chất, quyền lực của các xô viết này là do giai cấp công nhân và nhân dân lao động quyết định. Cũng tại nước Nga, sau khi cách mạng thành công, các quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí… được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động: “quyền tự do xuất bản không còn là một cái gì giả dối nữa, vì các nhà in giấy đã được tước đoạt khỏi tay giai cấp tư sản. Các lâu đài, các dinh thự, các tư thất, các nhà ở tốt nhất… cũng thế. Có thể thấy tư tưởng nổi bật của ông về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ dựa trên và gắn liền với các quyền tự do cơ bản của con người – điều mà nhà triết học Anh John Locke đã đưa ra từ thế kỷ XVII. Các quyền ấy được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động chứ không phải chỉ là những lời tuyên bố suông [96]. Liên hệ với tình hình thực tế cuộc sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong những năm đầu thế kỷ XX – khi mà đại bộ phận nhân dân lao động tại các nước Á, Phi, Mỹ Latinh đang chịu cảnh nô lệ; giai cấp công nhân và nhân dân lao động tại các nước tư bản đang bị bóc lột sức lao động một cách nặng nề sẽ thấy rõ, V.I.Lênin đã từ những ví dụ thực tế và sinh động đó mà đi đến kết luận: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền xô viết, so với các cộng hòa tư sản dân chủ nhất, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần” [126, tr.312-313]. 2.1.2. Một số cách tiếp cận xung quanh khái niệm dân chủ hiện nay Từ những nội dung cơ bản ban đầu của khái niệm, trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động, biến đổi phức tạp của thực tiễn dân chủ, khái niệm dân chủ được người ta hiểu và sử dụng với nhiều chiều cạnh, ý nghĩa khác nhau. Trên phương diện học thuật, hiện tượng

39. 35 giành lấy quyền lực nhà nước (giành lấy dân chủ). Nhưng, khi đã có chính quyền, một trong những nhiệm vụ cơ bản về mặt chính trị của chủ nghĩa xã hội là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mà vẫn tiếp tục thực hành dân chủ theo tinh thần xóa bỏ giai cấp, dân chủ tiêu vong thì sẽ là không phù hợp. Tính giai cấp của dân chủ là một thực tế lịch sử. Chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và nhà nước thì bản chất giai cấp của dân chủ vẫn còn tồn tại. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, bản chất giai cấp của dân chủ đặc biệt nổi bật trong dân chủ chính trị. Nhưng trong điều kiện như thế, nếu tuyệt đối hóa tính giai cấp của dân chủ, đề cao dân chủ về chính trị, xem nhẹ dân chủ trên các lĩnh vực khác thì cũng tai hại không kém việc phủ nhận, lảng tránh bản chất giai cấp của dân chủ [79, tr.28-32]. Thứ hai, cách tiếp cận coi nhân quyền là bộ phận cốt lõi của dân chủ, đồng thời cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền; và, xem dân chủ là một giá trị phổ biến, có tính toàn nhân loại, thời gian và không gian không có giá trị nhiều trong việc làm nó biến đổi. Ở vế thứ nhất, quan niệm trên có mặt hợp lý nhưng có điểm sai lầm. Đúng ở chỗ: nhân quyền là một bộ phận của dân chủ và đấu tranh cho quyền con người là một bộ phận của cuộc đấu tranh cho dân chủ. Sai lầm ở chỗ, đã nhấn mạnh nhóm quyền dân sự, chính trị và tự do cá nhân, coi đây là “chuẩn mực quốc tế” về dân chủ, nhân quyền; coi “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, nhân quyền không còn là công việc thuộc nội bộ của một nước và cho rằng, cộng đồng quốc tế có quyền tiến công vào bên trong lãnh thổ của một quốc gia để can thiệp nhân đạo và bảo vệ nhân quyền… Quan điểm trên chỉ là một hình thức biến tướng của chủ nghĩa thực dân mới. Bởi vì trước đây, để mở rộng thuộc địa, các nước đế quốc thường sử dụng phương thức cổ điển là đánh thành và chiếm đất. Còn ngày nay, họ trắng trợn can thiệp vào nội bộ các nước có chủ quyền bằng nhiều âm mưu, thủ

40. 36 đoạn và hình thức khác nhau, không hẳn vì mục đích xâm chiếm lãnh thổ mà vì muốn áp đặt quan niệm “nhân quyền” của mình đối với quốc gia, dân tộc khác. Cần phải nói ngay rằng, những người đưa ra và cổ súy cho luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hay “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền không biên giới”, ngay từ đầu họ đã cố tình hoặc lảng tránh một lẽ đơn giản là, trên thế giới không thể có một con người nào sống ngoài cộng đồng quốc gia, dân tộc; càng không có cái thế giới tồn tại mà không cần rạch ròi biên giới giữa các quốc gia. Họ cũng bỏ qua một sự thật hiển nhiên là, thời đại mà chúng ta đang sống có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, hàng nghìn dân tộc khác nhau, theo những tôn giáo khác nhau và có truyền thống văn hóa khác nhau. Trong các quốc gia và vùng lãnh thổ đó, con người thuộc các chế độ chính trị – xã hội khác nhau, cùng một lúc chịu sự tác động của hai mối quan hệ: quan hệ về nhân quyền và quan hệ về chủ quyền quốc gia. Quan hệ nhân quyền là quan hệ về cá nhân, còn quan hệ chủ quyền quốc gia là quan hệ cộng đồng các cá nhân trong quốc gia đó. Hai mối quan hệ cơ bản của con người là nhân quyền và chủ quyền quốc gia không cùng một bậc, không cùng một tuyến tiếp cận, và do đó, không thể đem so sánh cái này cao hoặc thấp hơn cái kia. Việc quy chủ quyền quốc gia về cùng một bậc với nhân quyền, rồi coi “nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” là một việc làm khiên cưỡng, không lôgíc, phản khoa học và thiếu tính thuyết phục. Thực tế lịch sử cho thấy, đối với một dân tộc còn đang bị đế quốc đô hộ thì yêu cầu quan trọng nhất là quyền được sống trong một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Không có độc lập dân tộc, không có chủ quyền quốc gia thì không thể có quyền công dân, quyền con người theo đúng nghĩa của các từ đó. Truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông cho chúng ta bài học về quyền dân chủ, quyền con người. Nước mất thì nhà tan, dân khổ; nước thịnh thì nhà yên, dân cường. Giành được chủ quyền là điều kiện để có nhân quyền. Bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là một bộ phận cốt lõi, là điều

41. 37 kiện khởi đầu trong cuộc đấu tranh cho quyền công dân, quyền con người. Nhân quyền trước hết là quyền của mỗi người, mỗi dân tộc được tự quyết, được sống trong độc lập, tự do và được phát triển về mọi mặt; các quyền dân sự, chính trị phải gắn liền với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tự do cá nhân phải gắn với lợi ích chung của dân tộc và trách nhiệm, nghĩa vụ với cộng đồng. Bảo đảm và thực hiện quyền con người trước hết là trách nhiệm quốc gia, không thể có sự áp đặt, can thiệp từ bên ngoài. Vế thứ hai của quan niệm trên xem dân chủ là một giá trị phổ biến, có tính toàn nhân loại, phi giai cấp, phi lịch sử. Sai lầm của quan niệm này là đã tuyệt đối hóa cái chung, cái phổ biến của dân chủ, xem chúng tồn tại độc lập không phụ thuộc vào cái riêng. Những nước nào không thực hiện theo những cái chung này thì không được họ xem là dân chủ. Trên thực tế, quan niệm này tuyệt đối hóa các giá trị dân chủ, nhân quyền đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là ở phương Tây, đặc biệt là dân chủ, nhân quyền kiểu Mỹ. Họ xem nhân quyền phương Tây, dân chủ kiểu Mỹ là “khuôn vàng, thước ngọc” buộc mọi nước phải khuôn theo. Theo đó, dân chủ đồng nghĩa với Mỹ, với phương Tây. Họ xem nhân quyền phương Tây, dân chủ kiểu Mỹ là chuẩn mực quốc tế mà các nước tất yếu phải tuân thủ trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Chúng ta không phủ nhận, giữa các loại hình dân chủ, nhân quyền khác nhau đều có những giá trị chung, mang tính phổ biến. Nhưng thực tế lịch sử chứng minh rằng, những cái chung, phổ biến ấy bao giờ cũng biểu hiện sự tồn tại của nó bằng nhiều sắc thái, mức độ phong phú khác nhau thông qua những nền dân chủ cụ thể. Các giá trị dân chủ, nhân quyền đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử và văn hóa. Mô hình dân chủ của phương Tây và Mỹ chỉ là một trong những kiểu phát triển, một trong những phương án phát triển dân chủ của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù nó tạo ra không ít giá trị dân chủ có tính phổ biến nhưng thực chất đó chỉ là dân chủ của giai cấp tư sản, dân chủ của một số ít người trong