Phương Pháp Thực Nghiệm Sư Phạm

4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

4.1. Khái niệm

4.2. Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm

4.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm

a. Các nội dung thực nghiệm sư phạm

b. Qui trình thực nghiệm

4.1. Khái niệm

Thực nghiện khoa học (Experiment) là phương pháp đặc biệt quan trọng, một phương pháp chủ công trong nghiên cứu thực tiễn. Trong đó người nghiên cứu chủ động tác động vào đối tượng và quá trình diễn biến sự kiện mà đối tượng tham gia, để hướng dẫn sự phát triển của chúng theo mục tiêu dự kiến của mình.

Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục do người nghiên cứu tác động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm tra. Thực nghiệm sư phạm được dùng khi đã có kết quả điều tra, quan sát các hiện tượng giáo dục, cần khẳng định lại cho chắc chắn các kết luận đã được rút ra. Thực nghiệm sư phạm cũng là phương pháp được dùng để kiểm nghiệm khi nhà khoa học sư phạm, nhà nghiên cứu, đề ra một giải pháp về phương pháp giáo dục, một phương pháp dạy học mới, một nội dung giáo dục hay dạy học mới, một cách tổ chức dạy học mới, một phương tiện dạy học mới….

Thực nghiệm sư phạm là so sánh kết quả tác động của nhà khoa học lên một nhóm lớp – gọi là nhóm thực nghiệm – với một nhóm lớp tương đương không được tác động – gọi là nhóm đối chứng. Ðể có kết quả thuyết phục hơn, sau một đợt nghiên cứu, nhà nghiên cứu có thể đổi vai trò của hai nhóm lớp cho nhau, nghĩa là, các nhóm thực nghiệm trở thành các nhóm đối chứng và ngược lại.

Vì là thực nghiệm trên con người nên từ việc tổ chức đến cách thực hiện phương pháp và lấy kết quả đều mang tính phức tạp của nó.

4.2. Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm khoa học được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết (từ thực tế) hay một phán đoán (bằng tư duy) về một hiện tượng giáo dục để khẳng định hoặc bác bỏ chúng.. Thực nghiệm được tiến hành để kiểm tra, để chứng minh tính chân thực của giả thuyết vừa nêu. Như vậy, thực nghiệm thành công sẽ góp phần tạo nên một lý thuyết mới, qui luật mới hoặc một sự phát triển mới trong giáo dục

Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu tả hệ thống các biến số quy định diễn biến của hiện tượng giáo dục theo một chương trình. Đây là những biến số độc lập, có thể điều khiển được và kiểm tra được. Biến số độc lập là những nhân tố thực nghiệm, nhờ có chúng mà những sự kiện diễn ra khác trước. Sự diễn biến khác trước do các biến số độc lập quy định gọi là biến số phụ thuộc, đó là hệ quả sau tác động thực nghiệm.

Theo mục đích kiểm tra giả thiết, các nghiệm thể được chia làm hai nhóm: nhóm thực nghiệm và nhóm kiểm chứng (đối chứng). Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng được lựa chọn ngẫu nhiên có số lượng, trình độ ngang nhau và được kiểm tra chất lượng ban đầu để khẳng định điều đó. Nhóm thực nghiệm sẽ được tổ chức thực nghiệm bằng tác động của những biến số độc lập hay gọi là nhân tố thực nghiệm, để xem xét sự diễn biến của hiện tượng có theo đúng giả thuyết hay không? Nhóm đối chứng là nhóm không thay đổi bất cứ một điều gì khác thường, nó là cơ sở để so sánh kiểm chứng hiệu quả những thay đổi ở nhóm bên. Nhờ có nó mà ta có cơ sở để khẳng định hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm.

4.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm a. Các nội dung thực nghiệm sư phạm

Thực nghiệm các kết luận của quan sát sư phạm.Ví dụ: (Khi quan sát một lớp học, nhà khoa học có nhận định rằng: học sinh lớp này có nhiều vấn đề chưa tốt như mất đoàn kết khó tổ chức sinh hoạt tập thể, không chăm học…. Tuy nhiên ông cũng nhận thấy đa số học sinh rất hiếu động, một số học sinh có khả năng về một số môn thể thao. Nhà nghiên cứu nhận định: nếu tổ chức cho các em chơi thể thao ngoài giờ (hoặc cả trong giờ giải lao), có chú ý vận động những em giỏi từng môn thể thao làm người phụ trách thì có thể tập hợp học sinh lớp này dễ hơn để giáo dục. (Ðó cũng là một giả thuyết).

Nhà phương pháp muốn thực nghiệm vận dụng một phương pháp dạy học mới.

Nhà nghiên cứu muốn khẳng định một nội dung dạy học mới.

b. Qui trình thực nghiệm

(1) Một thực nghiệm sư phạm các nhà khoa học phát hiện racác mâu thuẫn giáo dục nhưng chưa có biện pháp khắc phục. Từ mâu thuẩn này, đề xuất các giả thuyết khoa học và các biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng giáo dục.

(2) Trên cơ sở giả thuyết, phân tích các biến số độc lập và chọn các nhóm thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về mọi phương diện.

(3) Tiến hành thực nghiệm trong điều kiện hoàn toàn giống nhau cho cả hai nhóm và quan sát thật tỉ mỉ diễn biến và kết quả của hai nhóm một cách thật sự khách quan theo từng giai đoạn.

(4) Xử lí tài liệu thực nghiệm là giai đoạn phân tích các kết quả khảo sát, theo dõi sự diễn biến của nhóm thực nghiệm, các tài liệu được phân tích, sắp xếp, phân loại và xử lí theo các công thức toán học, đánh giá trên cơ sở so sánh với kết quả của nhóm đối chứng.

Nhờ sự thuần nhất trong tiến hành thực nghiệm, sử dụng một cách thích hợp các phương pháp phân tích, thống kê kết quả thực nghiệm, ta có thể khẳng định mối liên hệ của các biến số trong nghiên cứu không phải là ngẫu nhiên mà là mối liên hệ nhân quả, xét theo tính chất của nó.

Kết quả xử lí tài liệu cho chúng ta những cơ sở để khẳng định giả thuyết, rút ra những bài học cần thiết và đề xuất những ứng dụng vào thực tế. Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm, điều cần chú ý là phải chọn đối tượng tiêu biểu để nghiên cứu, cần tiến hành ở nhiều địa bàn, trên các đối tượng khác nhau, và cần thiết hơn nữa là tiến hành thực nghiệm lặp lại nhiều lần trên cùng một đối tượng ở các thời điểm.

Kết quả thực nghiệm sư phạm là khách quan nhất so với các kết quả nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007

Tác giả: Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Phương Pháp Thực Nghiệm Sư Phạm – Kipkis

4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

4.1. Khái niệm

4.2. Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm

4.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm

a. Các nội dung thực nghiệm sư phạm

b. Qui trình thực nghiệm

4.1. Khái niệm

Thực nghiện khoa học (Experiment) là phương pháp đặc biệt quan trọng, một phương pháp chủ công trong nghiên cứu thực tiễn. Trong đó người nghiên cứu chủ động tác động vào đối tượng và quá trình diễn biến sự kiện mà đối tượng tham gia, để hướng dẫn sự phát triển của chúng theo mục tiêu dự kiến của mình.

Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục do người nghiên cứu tác động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm tra. Thực nghiệm sư phạm được dùng khi đã có kết quả điều tra, quan sát các hiện tượng giáo dục, cần khẳng định lại cho chắc chắn các kết luận đã được rút ra. Thực nghiệm sư phạm cũng là phương pháp được dùng để kiểm nghiệm khi nhà khoa học sư phạm, nhà nghiên cứu, đề ra một giải pháp về phương pháp giáo dục, một phương pháp dạy học mới, một nội dung giáo dục hay dạy học mới, một cách tổ chức dạy học mới, một phương tiện dạy học mới….

Thực nghiệm sư phạm là so sánh kết quả tác động của nhà khoa học lên một nhóm lớp – gọi là nhóm thực nghiệm – với một nhóm lớp tương đương không được tác động – gọi là nhóm đối chứng. Ðể có kết quả thuyết phục hơn, sau một đợt nghiên cứu, nhà nghiên cứu có thể đổi vai trò của hai nhóm lớp cho nhau, nghĩa là, các nhóm thực nghiệm trở thành các nhóm đối chứng và ngược lại.

Vì là thực nghiệm trên con người nên từ việc tổ chức đến cách thực hiện phương pháp và lấy kết quả đều mang tính phức tạp của nó.

4.2. Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm khoa học được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết (từ thực tế) hay một phán đoán (bằng tư duy) về một hiện tượng giáo dục để khẳng định hoặc bác bỏ chúng.. Thực nghiệm được tiến hành để kiểm tra, để chứng minh tính chân thực của giả thuyết vừa nêu. Như vậy, thực nghiệm thành công sẽ góp phần tạo nên một lý thuyết mới, qui luật mới hoặc một sự phát triển mới trong giáo dục

Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu tả hệ thống các biến số quy định diễn biến của hiện tượng giáo dục theo một chương trình. Đây là những biến số độc lập, có thể điều khiển được và kiểm tra được. Biến số độc lập là những nhân tố thực nghiệm, nhờ có chúng mà những sự kiện diễn ra khác trước. Sự diễn biến khác trước do các biến số độc lập quy định gọi là biến số phụ thuộc, đó là hệ quả sau tác động thực nghiệm.

Theo mục đích kiểm tra giả thiết, các nghiệm thể được chia làm hai nhóm: nhóm thực nghiệm và nhóm kiểm chứng (đối chứng). Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng được lựa chọn ngẫu nhiên có số lượng, trình độ ngang nhau và được kiểm tra chất lượng ban đầu để khẳng định điều đó. Nhóm thực nghiệm sẽ được tổ chức thực nghiệm bằng tác động của những biến số độc lập hay gọi là nhân tố thực nghiệm, để xem xét sự diễn biến của hiện tượng có theo đúng giả thuyết hay không? Nhóm đối chứng là nhóm không thay đổi bất cứ một điều gì khác thường, nó là cơ sở để so sánh kiểm chứng hiệu quả những thay đổi ở nhóm bên. Nhờ có nó mà ta có cơ sở để khẳng định hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm.

4.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm

a. Các nội dung thực nghiệm sư phạm

Thực nghiệm các kết luận của quan sát sư phạm.Ví dụ: (Khi quan sát một lớp học, nhà khoa học có nhận định rằng: học sinh lớp này có nhiều vấn đề chưa tốt như mất đoàn kết khó tổ chức sinh hoạt tập thể, không chăm học…. Tuy nhiên ông cũng nhận thấy đa số học sinh rất hiếu động, một số học sinh có khả năng về một số môn thể thao. Nhà nghiên cứu nhận định: nếu tổ chức cho các em chơi thể thao ngoài giờ (hoặc cả trong giờ giải lao), có chú ý vận động những em giỏi từng môn thể thao làm người phụ trách thì có thể tập hợp học sinh lớp này dễ hơn để giáo dục. (Ðó cũng là một giả thuyết).

Nhà phương pháp muốn thực nghiệm vận dụng một phương pháp dạy học mới.

Nhà nghiên cứu muốn khẳng định một nội dung dạy học mới.

b. Qui trình thực nghiệm

(1) Một thực nghiệm sư phạm các nhà khoa học phát hiện racác mâu thuẫn giáo dục nhưng chưa có biện pháp khắc phục. Từ mâu thuẩn này, đề xuất các giả thuyết khoa học và các biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng giáo dục.

(2) Trên cơ sở giả thuyết, phân tích các biến số độc lập và chọn các nhóm thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về mọi phương diện.

(3) Tiến hành thực nghiệm trong điều kiện hoàn toàn giống nhau cho cả hai nhóm và quan sát thật tỉ mỉ diễn biến và kết quả của hai nhóm một cách thật sự khách quan theo từng giai đoạn.

(4) Xử lí tài liệu thực nghiệm là giai đoạn phân tích các kết quả khảo sát, theo dõi sự diễn biến của nhóm thực nghiệm, các tài liệu được phân tích, sắp xếp, phân loại và xử lí theo các công thức toán học, đánh giá trên cơ sở so sánh với kết quả của nhóm đối chứng.

Nhờ sự thuần nhất trong tiến hành thực nghiệm, sử dụng một cách thích hợp các phương pháp phân tích, thống kê kết quả thực nghiệm, ta có thể khẳng định mối liên hệ của các biến số trong nghiên cứu không phải là ngẫu nhiên mà là mối liên hệ nhân quả, xét theo tính chất của nó.

Kết quả xử lí tài liệu cho chúng ta những cơ sở để khẳng định giả thuyết, rút ra những bài học cần thiết và đề xuất những ứng dụng vào thực tế. Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm, điều cần chú ý là phải chọn đối tượng tiêu biểu để nghiên cứu, cần tiến hành ở nhiều địa bàn, trên các đối tượng khác nhau, và cần thiết hơn nữa là tiến hành thực nghiệm lặp lại nhiều lần trên cùng một đối tượng ở các thời điểm.

Kết quả thực nghiệm sư phạm là khách quan nhất so với các kết quả nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007

Tác giả: Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

“Like” us to know more!

Knowledge is power

Nghiên Cứu Lý Luận Bằng Phương Pháp Thực Nghiệm Sư Phạm

Các bước tiến hành thực nghiệm bao gồm:

– Xây dựng giả thuyết thực nghiệm.

– Dự kiến hệ thống chuẩn đánh giá, xác định phương tiện và cách thức đánh giá nhằm so sánh sự biến đổi kết quả trước và sau thực nghiệm sư phạm.

– Lựa chọn đối tượng thực nghiệm theo những yêu cầu nhất định để các kết luận rút ra sau thực nghiệm có thể vận dụng trong quá trình tổ chức giáo dục thể chất ỏ phạm vi rộng lón, bảo đảm tính phù hợp và có thể có sai số nhỏ.

+ Đảm bảo tính đại diện và ,tiêu biểu.

+ Khống chế các tác động không thực nghiệm, nếu chọn nhóm thực nghiệm và nhóm đốĩ chứng trong một lớp học.

+ Khống c hế ảnh hưởng thứ tự các tác động.

– Các biên bản thực nghiệm phải được ghi chép cẩn thận, đúng quy cách, ti mỉ, chính xác, có lượng th ôn g tin phong phú và gi ải trí .

– Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm, phải chú ý chọn đối tượng đa dạng, tiêu biểu để nghiên cứu, cần tiến hành ở nhiều địa bàn, trên các đoi tượng khác nhau, tiến hành thực nghiệm lặp lại nhiều lần củng một đối tượng ỏ các thời điểm khác nhau. Chính điều này làm cho kết quả thực nghiệm sư phạm mang tính khách quan nhất trong các kết quả nghiên cứu bằng các phương pháp khác.

Phương pháp thực nghiệm sư phạm có ưu thê lớn nhất trong việc đi sâu vào các quan hệ bản chất, xác định các quy luật và cơ chế, vạch rõ các thành phần và cấu trúc của hiện tượng giáo dục Bảo đảm chắc chắn nhất của phương pháp này là có thể lặp lại thực nghiệm nhiều lần với những kết quả giống nhau, chứng tỏ mối quan hệ có tính quy luật.

Trong thực tiễn giáo dục thể chất cho th ấy c ác nhân tố m ớ i trong thực nghiệm có thể là kĩ thuật động tác, các phương pháp và’phương tiện’tập luyện, các thành phần của lượng vận động, các nh ân t ố tâm lí,…

Đặc điểm cơ bản của thực nghiệm sư phạm là sự điều khiển và can thiệp có chủ định, có kế hoạch của con người vào đổi tượng nghiên cứụ, đó là sự cô lập, tách biệt nhân tố có lợi, hai để sáng tạo, phát hiện và điều chỉnh các mối liên hệ mới, hợp lí nhằm đặt tới hiệu quả cao trong tập luyện v à thi đấu thể dục thể thao.

Các n h ân tố mớị được chi a t hành hai loại: nhân tố thực nghiệm là nhân tạ tạo ra nguyên nhân và kết quả; nhân tô’ trúng hợp là nhân tố cùng lúc tác, động với nhân tố thực nghiệm đệ tạo nên sự so sánh.

Nội dung thực nghiệm sư phạm được .chia theo các vấn đề, mục tiêu và điều kiện nghiên cứu.

Thực nghiệm sư phạm gồm có: thực nghiệm chọn mẫu, thực nghiệm trong điều kiện tự nhiên và trong phòng thí nghiệm. Ngoài ra còn có thực nghiệm so sánh trình tự và song song.

Thực nghiệm so sánh trình tự là thực nghiệm đối chiếu, hay thực nghiệm so sánh hiệụ quả quá trình giáo dục thể chất sau khi đưa nhân tố mới vào với kết quả trước đó trên cùng một nhóm ngựời tập.

Thực nghiệm so sánh song song là thực nghiệm được tiến hành, cùng một lúc trên hai hay nhiều nhóm. .Một nhóm được, áp dụng nhân tô’ thực nghiệm mới: gọi là nhóm thực nghiệm,, còn ỏ nhóm khác không có gì khác biệt so với lúc tập bình thường gọi là nhóm đối chứng. Các buổi tập thực hiện đồng thòi cả hai nhóm song song.

– Các nhóm thực nghiệm phải như nhau về lứa tuổi, trình độ thể lực trình độ kĩ thuật, giới tính và một s ố trình độ khác.

– Thực nghiệm trên số lượng người đủ lớn, để số liệu nhận được có độ tin cậy Cao. Khi tính toán, xử lí sổ li ệ u phải sử dụng phương pháp thống kê toán học.

– Trong thực nghiệm không nên nghiên cứu đồng thời một số vấn đề gây ảnh hưởng xấu lẫn nh a u,hạn chế kết quả nghiên cứu.

– Để kết quả nghiên cứu khách quan, trước khi nghiên cứu nên kiểm tra, xác định trình độ ban đầu của các nhóm. Cu ối thực nghiệm, đánh giá và ghi kết quả cuối cùng.

Phương pháp thống kê toán học lậ một bộ phận của x á c suất th ố ng k ê , c ó đ ối tượng nghiên cứu là việc thu thập, đúc kết các số liệu quan sát, mực nghiệm, phân tích và rút ra kết luận đáng tin cậy.

Phương pháp này giúp đánh giá chất lượng giáo dục, so sánh hiệu quả của các phương pháp giáo dục khác nhau, phân tích các môi qữari hệ giữa các hiện tượng giáo dục, phân tích tác động của c ác nhân t ố đối với c ác hiện tượng giáo dục, loại bỏ các yếu t ố ngẫu nhiên, sáng tỏ quy luật của hiện tượng giáo dục.

– Nhà nghiên cứu xuất phát từ’mục đích xử lí và phân tích số liệu thu được, chỉnh lí số liệu, biểu thị nội dung cơ bản của nó bằng một số chỉ số, vạch rõ mối liên hệ giữa các chỉ s ố đ ó .

– Sử dụng các công thức tính toán khác nhau.

– Từ sự khái quát các trưòng hợp giống nhau rút ra những k ế t luận có ý nghĩa.

Sử dụng công thức thống kê toán học để xử lí kết quả cho phép xác định độ tin cậy của những kết luận

Từ khóa tìm kiếm nhiều: giao duc mam non, giáo dục mầm non, chương trình giáo dục mầm non mới, chương trình giáo dục mầm non, đồ dùng sáng tạo mầm non, nghề giáo viên mầm non, chuong trinh giao duc mam non hien nay, giáo dục thể chất là gì, giao duc the chat la gi, phát triển thể chất cho trẻ mầm non, phat trien the chat cho tre mam non

Sư Phạm Tiếng Anh Là Gì? Có Nên Học Sư Phạm Tiếng Anh Không

Việc làm Giáo dục – Đào tạo

1. Tổng quan về ngành sư phạm nước ta

Ngành sư phạm nước ta trong những năm gần đây có một điểm đặc biệt là siết chặt đầu vào của các thí sinh, theo đó chỉ những thí sinh nào thực sự có học lực khá giỏi mới có cơ hội xét tuyển vào các trường đại học sư phạm top đầu về chất lượng đào tạo.

Không những thế Bộ GD&ĐT sẽ quy định điểm chuẩn của ngành này, có nghĩa là điểm chuẩn sẽ do bộ đưa ra, thay cho việc các trường tự đưa ra điểm chuẩn như các năm trước. Đây là một quy định có thể nói là thắt chặt chất lượng đầu vào, nhằm mục đích nâng cao chất lượng ngành sư phạm, Chính vì vậy mức điểm vào sư phạm sẽ cao hơn so với những ngành nghề khách, đây sẽ là một tín hiệu thông báo rằng vài năm nữa số lượng thí sinh đăng ký vào sư phạm sẽ giảm.

Điều đó không đáng lo vì tình hình nhân lực của ngành sư phạm hiện nay đang dồi dào nhưng chất lượng nhìn chung của ngành sư phạm chưa được đồng đều, giữa trường thành thị với nông thôn, sự phân bố giáo viên giữa các vùng cũng không đồng đều.

Chính vì thế Bộ GD&ĐT cũng sẽ cùng với các bộ, ban ngành tiến hành các khảo sát về nhu cầu sử dụng giảng viên của các địa phương, tổng hợp thành nhu cầu toàn quốc trong khoảng 6 năm tới. Sau đó có những quyết định đúng nhất cho ngành của mình.

Đồng thời, chỉ tiêu tuyển sinh sẽ được khống chế bằng hoặc thấp hơn so với nhu cầu tuyển dụng để đảm bảo rằng các sinh viên ra trường sẽ có tỷ lệ việc làm cao hơn giúp giải đáp cho câu hỏi sinh viên tốt nghiệp sư phạm sau khi ra trường đi về đâu? Những sinh viên ra trường chưa có việc làm vẫn có cơ hội để tuyển dụng vào ngành giáo dục.

Tổng quan thì ngành sư phạm đang có số lượng giáo viên dồi dào, nhiều cô giáo dạy các môn tự nhiên, ra trường chưa có cơ hội đứng trên bục giảng mà phải chọn những công việc khác trong thời gian đợi việc, nhưng giáo viên ngành sư phạm anh lại thiếu nhân lực do, sư phạm anh có nhu cầu việc làm cao hơn các ngành khác, để hiểu hơn bài viết này sẽ chia sẻ sâu hơn về vấn đề này.

Việc làm Biên – Phiên dịch

2. Sư phạm và những điều cần biết 2.1. Sư phạm là gì

Sư phạm là khoa học về giáo dục và việc giảng dạy trong các trường học, những người thầy, người cô đứng trên bục giảng, hay theo cách nghĩ đơn giản nhất là những người chỉ dạy bạn, những người cô thầy mẫu mực, những tấm gương sáng cho bạn noi theo.

Làm việc trong ngành sư phạm là tham gia vào sự nghiệp trồng người, đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành nghề, đào tạo những cô cậu học trò sau này có kiến thức và quan trọng là đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực của xã hội.

Sư phạm là một khái niệm chung cho các những người theo học nghiệp vụ sư phạm, sau này ra làm giáo viên giảng viên, làm công việc giảng dạy các thế hệ học trò mai sau.

Vậy sư phạm tiếng anh có gì đặc biết và câu hỏi đặt ra của nhiều bạn sinh viên là có nên học sư phạm tiếng anh hay không?

2.2. Những điều cần biết về – Sư phạm tiếng anh là gì?

Sư phạm tiếng anh là một phần trong ngành sư phạm, nhưng điểm khác nhau là sư phạm tiếng anh chuyên ngành là tiếng anh, bạn sẽ được học sâu về tiếng anh để sau này khi ra trường bạn sẽ là những người thầy, người cô làm công việc giảng dạy tiếng anh.vậy ngành sư phạm tiếng anh là gì.

Ngành sư phạm tiếng anh là một ngành hot hiện nay, được khá nhiều bạn trẻ lựa chọn vì cơ hội nghề nghiệp và tầm phát triển của nghề về mai sau.

Có thể nói khi đất nước các phát triển, mở cửa giao lưu buôn bán với các nước khác trong khu vực và trên thế giới thì việc giao tiếp trao đổi là không thể thiếu, mà ngôn ngữ quốc tế là tiếng anh nên có thể nói ngành sư phạm tiếng anh là một ngành hot nhất trong sư phạm.

Tìm việc làm giáo viên tiếng Anh

2.3. Nghiệp vụ sư phạm tiếng anh là gì ?

Về phẩm chất đạo đức: Có thể nói phẩm chất đạo đức là yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất của người giáo viên Việt Nam. Người giáo viên phải là người có ý thức trách nhiệm cao, có đạo đức tốt, yêu nghề, yêu học sinh, có tác phong mẫu mực của người giáo viên.

Về kĩ năng: là một giáo viên nói chung và giáo viên dạy tiếng anh nói riêng thì kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là điều quan trọng nhất, bạn phải nắm chắc kĩ năng này , đạt trình độ post-intermediate (theo tiêu chuẩn quốc tế).

Về nghiệp vụ sư phạm: là người hiểu rõ và biết vận dụng các kĩ năng xây dựng kế hoạch cho việc giảng dạy, học và quản lý lớp học, nắm được và biết vận dụng các kĩ năng xây dựng kế hoạch giảng dạy tiếng Anh, tổ chức các hoạt động dạy – học và quản lý lớp học tiếng Anh cũng như các kiến thức về nghiên cứu ngôn ngữ, phương pháp dạy học tiếng Anh tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu.

Về kỹ năng học tập: Có khả năng tự học, tự nghiên cứu khoa học để nâng cao kiến thức, và không ngừng rèn luyện các kỹ năng khác. Luôn luôn cập nhất những thông tin mới về ngành, những thông tin học tập mới và không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn.

Về công tác xã hội: biết tổ chức lớp học vui nhộn, tạo sự thích thú cho học sinh, vận động phụ huynh học sinh, sinh viên, các tổ chức xã hội, giáo dục thế hệ trẻ.

Việc làm Công chức – Viên chức

3. Học sư phạm tiếng anh có lỗi thời hay không?

Khi bộ GD&ĐT thiết chặt đầu vào bằng cách tăng điểm sàn để chất lượng sinh viên ngày một cao hơn, nhưng so với dự báo của số lượng giáo viên hiện nay đang dồi dào, nhiều cô giáo ra trường không tìm được việc nhất là những cô theo học về ban tự nhiên Văn – Sử – Địa học xong không có việc làm nên nhiều phụ huynh e ngại việc con em mình theo ngành sư phạm và có nên học sư phạm tiếng anh.

Nó thể hiện từ việc các bạn sinh viên khoa sư phạm anh từ những năm cuối đã bắt đầu đi làm thêm, giảm dạy thêm tại các trung tâm tiếng anh, làm trợ giảng cho những người thầy giáo cô giáo người nước ngoài, vừa học hỏi thêm được kinh nghiệm vừa có thêm thu nhập. Nên việc học xong ra trường những bạn theo học sư phạm anh rất năng động.

Do số lượng giáo viên vào nhà nước là có hạn nên các bạn sư phạm anh có thể mở các trung tâm dạy tiếng anh cho mọi người,mô hình này hiện nay thực sự phổ biến và thu hút lượng lớn giáo viên sư phạm tham gia và thành công ngoài sức mong đợi.

Bạn có thể làm trợ lý cho các giám đốc người nước ngoài, công việc này khá thú vị nhưng đòi hỏi ngoài những kiến thức về chuyên môn bạn cần có những yếu tố của người kinh doanh nữa.Còn rất nhiều ngành nghề khác mà bạn có thể tìm hiểu.

4. Sư phạm tiếng anh và cơ hội việc làm 4.1. Cơ hội việc làm của sư phạm tiếng anh.

Điều kiện làm việc và cơ hội nghề nghiệp

Trong ngành sư phạm tiếng anh bạn có thể làm việc ở nhiều địa chỉ như hệ thống các trường học từ bậc mẫu giáo, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, các trường bổ túc văn hóa, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, cao đẳng, Đại học trong cả nước, các trung tâm năng khiếu, các trung tâm dạy tiếng anh cho người đi làm….

Làm việc trong các sở giáo dục từ trung ương đến địa phương, các bạn ngành trong bộ giáo dục…

Nghề giáo viên nếu tham gia giảng dạy trong các trường đại học tiếng anh chính quy nhà nước thì yêu cầu bắt buộc bạn phải có bằng, có chứng chỉ sư phạm, đấy là điều kiện bắt buộc. Có kiến thức nghiệp vụ nhà giáo. Với các bạn nữ thì đây là một trong những sự lựa chọn được ưu ái nhất bởi có nhiều thời gian chăm sóc gia đình, ít va chạm với những bon chen của xã hội, công việc khá ổn định, nhẹ nhàng không phải đi lại và điều đặc biệt là môi trường giáo dục là một môi trường có thể gọi là tốt trong các môi trường làm việc.

4.2. Mức lương và những chế độ của ngành

Mức lương của những người làm sư phạm về mặt bằng chung thì được tính theo lương cấp bậc của nhà nước nên cũng không có quá cao nhưng đủ sinh hoạt chi tiêu hàng ngày.

Mức lương theo cấp bậc của các giảng viên, cao đẳng, trung cấp có mức lương trung bình trong khoảng 5.000.000-8.000.000 triệu VND/ tháng

Với giáo viên dạy ngoài, không theo nhà nước thì mức lương trung bình từ 4.000.000-6.000.000 triệu VND/ tháng, hoặc có thể dạy thêm để có thêm thu nhập.

Giáo viên tại các trường cấp 1,2,3 có mức lương trung bình từ 2.500.000 – 5.000.000 triệu VND/ tháng, ngoài lương này họ còn có thêm trợ cấp đứng lớp.

Đấy là mức lương cơ bản của một giáo viên trong trường, mức lương này có thay đổi một chút đối với những cô giao làm thêm dạy thêm để kiếm thêm thu nhập.

Với những cô giáo thầy giáodạy tiếng anh thì số lương cao hơn rất nhiều.

Trung bình một giáo viên dạy tiếng anh thêm ở các trung tâm có mức lương giao động là 10 đến 15 triệu.

Hoặc có thể số lương ấy còn tăng lên nhiều vì người học sư phạm tiếng anh rất năng động.

5. Các trường đào tạo ngành sư phạm tiếng anh

– DS các trường ĐH tại Hà Nội đào tạo ngành Sư phạm – Giáo dục

Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Đại Học Giáo Dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Học Viện Quản Lý Giáo Dục, Đại Học Sư Phạm Nghệ Thuật Trung Ương, Đại Học Ngoại Ngữ – Đại Học Quốc Gia Hà Nội…

– DS các trường ĐH tại TP. Hồ Chí Minh đào tạo ngành Sư phạm – Giáo dục

Đại Học Sư Phạm TPHCM, Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – Đại Học Quốc Gia TPHCM, Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TPHCM, Đại Học Mỹ Thuật TPHCM, Đại Học Sài Gòn …

– DS các trường ĐH tại tỉnh khác đào tạo ngành Sư phạm – Giáo dục

Đại Học Ngoại Ngữ – Đại Học Đà Nẵng, Đại Học Sư Phạm – Đại Học Đà Nẵng, Đại Học Ngoại Ngữ – Đại Học Huế, Đại Học Sư Phạm – Đại Học Huế, Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2, Đại Học Sư Phạm – Đại Học Thái Nguyên

Phương Pháp Sư Phạm Cho Người Lớn

I. Mở đầu

Education là một từ có gốc từ tiếng La-tinh “educare” và “educere.” Educare có nghĩa là nuôi dưỡng, uốn nắn, còn educere là hướng dẫn và phát triển những khả năng bẩm sinh. Hai từ này ghép lại và được Hán hóa thành “giáo dục.” Vậy thì giáo dục gồm có hai phần, phần dạy (giáo) về tâm trí, và phần dưỡng (dục) tức là rèn luyện về nhân cách. Pedagogy là một từ có gốc từ tiếng Hy-lạp, với ngữ căn pais, hay paidos, có nghĩa là sự giáo dục một đứa trẻ (ngữ căn này được dùng trong pedagogy,tức là khoa sư phạm, và pediatrics, tức là ngành nhi khoa). Chuyển sang Việt ngữ, ta có từ sư phạm là một ngành học nhằm đào tạo thầy cô giáo về cách dạy học cho trẻ em (ngành học này có các cấp như trường cao đẳng sự phạm và đại học sư phạm) từ mẫu giáo cho tới trung học. Hiểu theo nghĩa rộng, sư phạm là một khoa học về giảng dạy và lâu dần ta không còn phân biệt là mục tiêu chính của sư phạm là cách thức giảng dạy cho trẻ em. Trẻ em có những đặc điểm về tâm và thể lý khác với người lớn nên thầy cô phải nắm vững những phương pháp và đặc tính tâm lý này để truyền đạt kiến thức cho hữu hiệu; những phương pháp sư phạm cho trẻ em gồm có cách thức dạy học truyền thống (thày đọc, trò chép, học thuộc lòng) hay, thí dụ như, phương pháp Montessori, một phương pháp dạy học qua đó học sinh được khuyến khích để phát triển khả năng nhận thức, tìm tòi kiến thức qua sự tự khám phá, và được tự do trong phạm vi giới hạn để làm những điều này. Phương pháp này được Maria Montessori đề xướng năm 1897 tại Ý dựa trên lý thuyết kiến thức do người học tự mình xây dựng qua kinh nghiệm (constructivism). Tiêu biểu cho khuynh hướng này là John Dewey, một nhà giáo dục hàng đầu của Mỹ. Một điểm ta cần lưu ý là trẻ em bị “bắt buộc” phải đi học, dù có muốn hay không, nên có rất nhiều trường hợp học sinh ngồi trong lớp nhưng tâm hồn để ở đâu đó bên ngoài lớp học.

Với sự phát triển của công nghệ, những kiến thức con người đã thủ đắc được chóng trở thành lỗi thời, và để đáp ứng lại những đòi hỏi này, người lớn cũng cần phải tự học tập, hay được huấn luyện để nâng cao khả năng của mình trước những yêu cầu mới của công việc. Phương pháp giảng dạy cho người lớn không thể theo dạng thức truyền thống cổ điển mà phải được thay đổi để phù hợp với học viên (learner, chứ không còn là học sinh nữa) hầu có thể mang lại hiệu năng cao nhất cho người học. Phương pháp sư phạm dành cho người lớn được gọi là andragogy (đọc là AN-druh-goh-jee) gồm có ngữ căn “andr” có nghĩa là người lớn và “agogos” có nghĩa là dẫn dắt, hướng dẫn (Smith, 2010). Bài viết này sẽ tìm hiểu về các đặc tính của andragogy và sự ứng dụng của phương pháp sư phạm này trong việc soạn thảo chương trình giáo dục cho người lớn.

II. Bối cảnh sự hình thành và phát triển phương pháp sư phạm cho người lớn (andragogy)

Phương pháp sư phạm cho người lớn được phát triển sau một thời gian dài, trước khi được công nhận là một ngành học trong những trường sư phạm như ngày nay. Ý tưởng và thuật ngữ “andragogy” được một giáo viên trung học người Đức tên là Alexander Kapp sử dụng lần đầu với từ Andragogik trong tiếng Đức, năm 1833 trong cuốn sách do ông soạn mang tựa đề “Những tư tưởng về giáo dục của Plato.” Kapp lý luận rằng con người có nhu cầu học tập suốt đời, vì những giá trị đầu tiên của con người-phát triển bản thân (qua giáo dục), phát triển nhân cách, và khả năng mặc tưởng (self-reflection)-góp phần vào việc xác lập nhu cầu học tập này. Từ đó Kapp cổ vũ cho việc giáo dục huấn nghệ cho người lớn khi không còn ở tuổi học sinh nữa (Reischmann, 2004). Tuy nhiên, Kapp không đưa ra một định nghĩa chính xác và phát triển khái niệm này thành một lý thuyết giáo dục; thêm vào đó tại Âu châu thời bấy giờ là thời đại Khai sáng, nên nghệ thuật và học thuật nở rộ thành nhiều ngành, nhánh như “bách gia tranh minh,” cho nên khái niệm andragogy không được học giới chú ý tới. Thế nên ý tưởng Andragogik của Kapp lại chìm vào quên lãng cho đến những năm trong thập niên 1920 của thế kỳ 20, khái niệm sư phạm cho người lớn được Eugen Rosenstock, một nhà khoa học xã hội người Đức giới thiệu trở lại và được lý thuyết hóa, nhưng vẫn chưa được hệ thống hóa thành một ngành sư phạm cho người lớn (Reischmann, 2004). Andragogy cũng bỗng dưng được chú trọng trở lại tại một số nước Âu châu như Thụy-sĩ, Nam-tư, và Hà-lan, nhưng vẫn chưa được hệ thống hóa thành một học khoa được giảng dạy tại các đại học nhằm huấn luyện giáo chức cho ngành sư phạm “dạy cho người lớn.”

Khái niệm Andragogy tại các nước nói tiếng Anh còn phát triển chậm hơn nữa. Có lẽ người khởi đầu và cổ vũ cho phương pháp Andragogy tại Mỹ là Malcolm Knowles. Knowles kể lại là tại một cuộc hội thảo giáo dục tại Đại học Boston năm 1967, sau phần thuyết trình của Knowles, một nhà giáo dục người Nam-tư đến gặp và nói là những điều ông vừa trình bày thể hiện những khái niệm và cách thức giảng dạy cho người lớn. Knowles còn nói thêm là lúc đó ông chưa biết đến từ Andragogy có nghĩa là gì (Reichshman, 2004). Năm 1968, Knowles viết tiểu luận đầu tiên về Andragogy và phổ biến trong tạp chí chuyên đề tại Mỹ. Tuy nhiên, Andragogy cũng bị nhiều phê phán là không thực sự là một lý thuyết về giảng dạy cho người lớn. Vì Andragogy được hình thành trên những tiền đề hay giả thuyết mà những tiền đề này chưa được xác định tính chính xác và giá trị qua khảo sát thực nghiệm (Merriam, 2001). Trong những thập niên sau đó, Knowles dần dần hoàn thiện và phát triển Andragogy thành một lý thuyết và thực hành về giáo dục mà đối tượng là người lớn đã trưởng thành. Kể từ 1980 Andragogy được công nhận là một ngành học “chính quy” tại các trường đại học tại Mỹ, mặc dù trong các đại học tại Mỹ, từ Andragogy không được sử dụng để chỉ ngành sư phạm này, còn tại các nước Âu châu, như tại Đức chỉ có một trong 35 đại học, và một trong 26 nước Đông Âu là sử dụng từ Andragogy mà thôi (Reischmann, 2004).

III. Đặc tính của Andragogy-Lý thuyết về Giáo dục Người lớn

Khởi đầu, Knowles định nghĩa Andragogy vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật nhằm giúp cho người lớn học, khác với ngành sư phạm cho trẻ con (Knowles, 1980). Nhưng định nghĩa này quá mơ hồ hầu như không thể đưa ra ứng dụng được. Như đã trình bày ở trên, Andragogy được Knowles (2005) phát triển thành một hệ thống lý thuyết dựa trên sáu tiền đề hay giả thuyết như sau:

1. Nhu cầu cần biết: học viên trưởng thành cần biết tại sao họ cần phải học và những ích lợi thu được trước khi tham gia một khóa học/huấn luyện; trong khi trẻ con không có lựa chọn này mà bị/phải đi học mặc dù không biết là học để làm gì. Một trong những nhiệm vụ của giảng viên, do đó, là giúp cho học viên nhận thức được nhu cầu cần học môn học đó là gì, tối thiểu cũng phải chỉ ra được giá trị của việc học nhằm gia tăng mức hữu hiệu trong việc làm hay để cải thiện phẩm chất của đời sống. Một phương thức hữu hiệu khác để nâng cao sự nhận thức này là qua những hoạt động mô phỏng theo thực tế cho học viên thấy được khoảng cách giữa hiện tại và tương lai họ muốn nhắm tới. Thực hiện Bảng tự đánh giá năng suất cũng là một trong những phương pháp giúp cho học viên tự nhận thức được giá trị hiện tại của họ. Thí dụ, học viên cần phải theo một khóa huấn luyện nâng cao nghiệp vụ, và sau khi thực hiện bản tự đánh giá họ nhận thức rõ ràng những ưu và khuyết điểm mà hiện tại họ đang có, và những gì cần có.

2. Học viên (trưởng thành) có khả năng tự-nhận thức (self-concept) là họ có trách nhiệm đối với những quyết định do họ chọn lựa về cuộc đời của mình, và khả năng tự-nhận thức này dẫn đến khả năng tự-định hướng, cho nên họ không thích kẻ khác áp đặt chương trình huấn luyện hay học tập này nọ. Đây là một điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi “người thầy” bắt đầu “dạy” cho họ. Xin mở một dấu ngoặc ở đây là khi học viên bước vào một lớp học, họ vẫn có thái độ và kinh nghiệm quá khứ thụ động của học sinh, ngay cả giảng viên cũng vậy, và vô hình trung thái độ này làm cho việc học trở nên khó khăn hơn. Do đó, giảng viên phải làm cách nào để học viên cảm thấy họ là một bộ phận của tiến trình học tập tích cực này và sự chuyển tiếp từ học sinh thụ động sang học viên tích cực trở nên dễ dàng hơn.

3. Vai trò của kinh nghiệm của học viên. Học viên vào lớp mang theo với họ đủ mọi loại kinh nghiệm mà họ đã tích lũy. Ưu điểm của kinh nghiệm trong việc học là sự đối chiếu giữa thực tế (đã trải qua) và lý thuyết, giúp cho học viên có những giây phút “phản tỉnh” (À há, đúng là như vậy hay không phải như vậy). Đây là một ưu điểm nhưng cũng đồng thời là khuyết điểm, vì khi thu thập kinh nghiệm ta có khuynh hướng biến những kinh nghiệm này thành thói quen, định kiến, và tiên kiến trong tâm trí đến nỗi ta tự đóng cửa tâm trí của mình lại trước những ý tưởng, hay cách suy nghĩ mới. Một điểm quan trọng tế nhị nữa của vai trò của kinh nghiệm đối với học viên là kinh nghiệm đã đúc kết nên cá tính tự ngã của họ (self-identity). Thành thử khi giảng dạy cho người lớn, nếu kinh nghiệm của họ bị bỏ qua hay đánh giá nhẹ, thì họ sẽ cảm thấy bị xúc phạm.

6. Động lực. Mặc dù học viên tham dự một khóa học vì những yếu tố ngoại tại như để thăng chức, tăng lương, đổi nghề tốt hơn, v.v., nhưng động lực mạnh nhất vẫn là những động lực nội tại như sự thỏa mãn trong công việc, nâng cao lòng tự tin, gia tăng chất lượng của cuộc sống, v.v. Kết quả nghiên cứu của Tough (1979) cho thấy tất cả những người trưởng thành bình thường đều có động lực để tiếp tục làm cho họ phát triển và lớn mạnh; nhưng động lực này vẫn thường bị cản trở bởi tư tưởng tiêu cực như là thiếu khả năng, thiếu cơ hội, thiếu thì giờ, v.v.

IV. Ứng dụng của Andragogy trong những chương trình giáo dục nhất là hàm thụ hay trực tuyến

Knowles đã định nghĩa Andragogy là một khoa học và là một nghệ thuật, mà đã là một nghệ thuật thì không “nghệ nhân” giảng viên nào giống nhau, chưa kể đến thành phần học viên tham gia khóa học cũng đến từ nhiều quá khứ khác nhau cũng như về kinh nghiệm, tuổi tác, v.v. Cho nên người giảng viên cho học viên phải uyển chuyển để ứng dụng Andragogy trong lớp học. Birzer, một trong những nhà giáo dục chuyên về Andragogy đề nghị áp dụng Andragogy qua một chương trình sáu điểm trong ngày đầu khóa học như sau (Chan, 2010).

1. Tạo nên một lớp học (không nhất thiết phải là phòng ốc mà có thể là hàm thụ hoặc online) khang trang thích nghi cho sự học (chỗ ngồi thoải mái, không nóng quá hay lạnh quá; lớp học hàm thụ không cần điều kiện này), nhưng online cần có giao diện dễ dàng cho người sử dụng-user-friendly), có không khí thoải mái về tâm lý cho sự học của học viên; cụ thể là sự tương kính và hợp tác giữa giảng viên và học viên (chứ không phải như giữa thầy và trò trong đó ông thầy có toàn quyền sinh sát).

2. Mời học viên cùng tham gia trong việc hoạch định kế hoạch học tập dựa trên mục tiêu của khóa học; kế hoạch học tập là một tiến trình, thí dụ như từ việc học một công việc (task-conscious) hay thu thập kiến thức chuyên biệt nào đó. “Sự học này cụ thể, trực tiếp, và tập trung vào một hoạt động cá biệt nào đó” (Smith, 2003), sang đến việc học kiến thức do giảng viên trình bày và hướng dẫn (Smith, 2003). Học viên cũng được khuyến khích để tham gia điều chỉnh “đề cương”[1] của khóa học, thí dụ điều chỉnh ngày thi cho thích hợp với đa số, v.v…

3. Giúp cho học viên xác định rõ khả năng của họ trong lãnh vực mà họ đang theo học.

4. Khuyến khích học viên tự xác định mục tiêu học tập của họ trong khóa học; thí dụ, áp dụng kiến thức về quản trị trong vai trò quản lý, hay áp dụng những kiến thức về tâm lý trong việc giáo dục trẻ em đang lớn, v.v…

5. Khuyến khích học viên xác định những nguồn tài liệu giúp họ đạt được mục tiêu học tập. Giảng viên có thể trợ giúp học viên trong việc này cũng như trong việc đưa ra một kế hoạch và cách thức hầu đạt được mục tiêu học tập.

6. Khuyến khích học viên tham gia vào việc đánh giá kết quả học tập.

Đặc điểm của phương pháp sư phạm Andragogy là phát huy khả năng tự chủ, kinh nghiệm, và sự chủ động của học viên. Do đó, giảng viên, ngoài phương thức cơ bản là giảng bài (lecture) có thể và nên dùng thêm những hoạt động hợp tác (collaborative activity) và những dự án mô phỏng thực tế ngoài đời trong suốt khóa học. Ngay cả trong phương thức giảng bài, không nên dùng một cách máy móc “thày đọc trò chép” mà là hướng dẫn học viên khám phá ra những kiến thức này.

Thế nào là hoạt động hợp tác? Hoạt động hợp tác hay còn gọi là làm dự án theo nhóm là phương thức học dựa trên bốn nguyên tắc: (a) học viên là đối tượng chính của việc học; (b) sự tương tác giữa các học viên là sự quan trọng hàng đầu; (c) làm việc theo nhóm là một hình thức học quan trọng; và (d) những phương thức mà nhóm tìm ra khi làm dự án nên được gom lại và trở thành một phần của kiến thức của khóa học. Hoạt động Hợp tác có rất nhiều hình thức khác nhau từ nhóm nhỏ chỉ gồm hai học viên, đến nhóm lớn hơn khoảng bảy hay tám người. Có hai loại hoạt động hợp tác: dài hạn (kéo dài khoảng vài tuần hay cả học kỳ), và loại ngắn hạn, dùng ngay trong tiết học. Phần khó nhất của việc soạn thảo các hoạt động hợp tác thuộc về giảng viên. Giảng viên phải tự trả lời những câu hỏi sau đây: (a) mục đích và kết quả của khóa học là gì? (b) học theo nhóm như vậy sẽ giúp cho việc đạt được mục đích của khóa học như thế nào? (c) nên chia nhóm theo cách nào? Và (d) giảng viên theo dõi và đánh giá tiến trình học theo nhóm như thế nào? (CTE-Cornell University).

Người viết xin chia sẻ một thí dụ về một hoạt động hợp tác cho một lớp Công Dân Học (CDH) như sau. Lớp CDH là một lớp học online nên học viên không biết nhau và còn bỡ ngỡ về phương pháp học mới mẻ này, và như tất cả mọi lớp học online khác, học viên đều cảm thấy cô đơn trong lớp học chỉ có một mình vì những học viên khác đâu có vào lớp cùng lúc với mình đâu. Ai rảnh giờ nào thì vào giờ nấy. Cho nên hoạt động hợp tác là một phương thức hữu hiệu để kết nối học viên (mặc dù chỉ liên lạc với nhau qua email và sau này khi nhóm phát triển học viên có thể dùng điện thoại). Một trong những mục đích khóa CDH là phát huy sự tích cực tham gia vào công tác xã hội của công dân. Hoạt động nhóm này được soạn thảo theo các tiêu đề sau: (a) xác định mục đích của hoạt động nhóm: áp dụng tinh thần trách nhiệm công dân và kỹ năng lãnh đạo dân sự; (b) mục tiêu của hoạt động: học viên làm việc theo nhóm ba người để tổ chức một chương trình gây quỹ giúp nạn nhân bão lụt; (c) thời hạn: hai tuần; (d) tình huống: miền Trung vừa bị bão tàn phá nặng nề, các học viên là thành viên của ban chấp hành sinh viên (đóng vai-role play) cần tổ chức ngay một chương trình trợ giúp nạn nhân.

Bảng điểm căn cứ trên những nội dung sau:

1. Ba học viên tự chia nhau trách nhiệm trưởng nhóm người thứ hai chịu trách nhiệm quan hệ với công chúng (public relation), và thủ quỹ. Quyền hạn và nhiệm vụ của từng thành viên cũng phải được nêu rõ;

2. Nhóm phải soạn thảo một bản kế hoạch chi tiết gồm có: Mục đích muốn đạt được là gì (thí dụ $20000.00 USD). Loại hình gây quỹ nào sẽ được áp dụng và bản phân tích lợi hại của mỗi loại hình cùng thời hạn (có nhiều loại hình như quyên góp thực phẩm, quần áo, rửa xe, mở một buổi tiệc, hoặc walk-a-thon[2]). Nhân lực hiện có và ngân sách hoạt động ra sao. Những việc cần phải làm trước và trong chương trình cùng hạn chót của mỗi công việc. Và kế hoạch dự phòng nếu có những yếu tố bất ngờ xảy ra như bị mưa, bão, chẳng hạn.

3. Nộp bản kế hoạch chi tiết gồm có những chi tiết nêu trên theo đúng hạn chót đã được đề ra.

Andragogy được áp dụng rộng rãi trong những chương trình huấn luyện và đào tạo cho nhân viên của những công ty tư nhân hay ngay cả của chính quyền. Các đại học của Mỹ cũng có những chương trình “học tiếp” (continuing education) dành cho những người lớn đã thôi học hoặc đang đi làm nhưng vẫn muốn học hỏi thêm hoặc tái huấn nghệ. Những chương trình này hoặc là cấp chứng chỉ mãn khóa (certificate) hay lấy tín chỉ (credit) chính thức của đại học, hay chỉ học để biết mà thôi như hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, v.v…Ngày nay hình thức học hàm thụ (qua thơ gửi theo đường bưu điện) có lẽ đã không còn ai dùng nữa. Thay vào đó là mô hình mới online (giáo dục trực tuyến). Qua mô thức mới này học viên có thể tham gia những khóa học từ xa và không nhất thiết phải theo giờ giấc quy định của trường lớp truyền thống. Andragogy đặc biệt đáp ứng được những nhu cầu và đặc tính của học viên. Tuy nhiên, như trên đã trình bày, giảng viên cũng phải thay đổi vai trò cho thích hợp từ bậc sư phụ trên bục giảng trở thành hướng dẫn viên đứng bên cạnh, và lưu ý rằng việc soạn thảo bài học cũng như những hoạt động nhóm mất rất nhiều thì giờ. Thêm một điểm cần lưu ý nữa là mỗi người có mức độ “trưởng thành” khác nhau để có thể tự tìm hiểu hay tự học; cho nên, giảng viên cũng phải theo dõi toàn bộ lớp học và nâng đỡ những học viên còn rụt rè.

V. Kết luận.

So với ngành sư phạm (pedagogy) đã hiện hữu từ hơn 400 năm (Smith, 2012), phương pháp sư phạm cho người lớn (Andragogy) mới chỉ khoảng 50 tuổi. Nhưng Andragogy đã không ngửng được phát triển và nay đã trở thành một trong những ngành học “chính quy” của phân khoa sư phạm tại những viện đại học của Mỹ. Andragogy được xây dựng trên sáu tiền đề do Knowles đề xướng năm 1967 (khởi đầu chỉ có bốn)-nhu cầu học hỏi, khả năng tự nhận thức, kinh nghiệm, ý thức tự ngã và khuynh hướng chú trọng vào mình, sẵn sàng đi học, và động lực đi học của học viên-và nhấn mạnh vào vai trò cùng những đặc điểm của học viên. Trọng tâm của Andragogy là học viên (learner-centered) và những hoạt động học tập trong khóa học phải xoay quanh trọng tâm này. Giảng viên có thể và nên áp dụng cả hai phương pháp giảng dạy: truyền thống (lecture) và hoạt động nhóm để tạo nên mức độ tích cực nhất nơi học viên (nếu họ chán, họ sẽ nghỉ học dù đã đóng tiền học phí). Với sự phát triển của xã hội về mọi mặt, nhu cầu học của người lớn (về nghề nghiệp, phát triển cá nhân và kỹ năng) ngày một cao và để đáp ứng nhu cầu này hầu bảo đảm chất và lượng, các trường cao đẳng hoặc đại học không những nên mà phải áp dụng Andragogy trong phương thức giảng dạy của mình.

Nông Duy Trường

© Học Viện Công Dân 2014

Tài liệu tham khảo

Chan, S. (2010). Application of andragogy in multi-disciplined teaching and learning. Journal of Criminal Justice Education, 39(2), 25-35.

CTE-Cornell University. (2013). Collaborative learning: Group work. http://www.cte.cornell.edu/teaching-ideas/engaging-students/collaborative-learning.html

Hess, G. (2008). Collaborative Course Design: Not My Course, Not Their Course, but Our Course. Retrieved from http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1800843 Washburn Law Journal, 47(2), 367-387.

Knowles, M., Holton III, E. & Swanson, R. (2005). The Adut Learner:The Definitive Classic in Adult Education and Human Resource Development (6 th ed.) San Diego, CA: Elsevier Inc.

Merriam, S. (2001). Andragogy and self-directed learning: pillars of adult learning theory. New Directions for Adult and Continuing Education , 89, 1-11.

Reischmann, J. (2004). Andragogy: history, meaning, context, function. Retrieved from http://www.andragogy.net/. Version September 9, 2004.

Smith, M. K. (2003). ‘Learning theory’, the encyclopedia of informal education. http://infed.org/mobi/learning-theory-models-product-and-process/. Retrieved Feb 19, 2014.

Smith, M. K. (1996, 1999, 2010). Andragogy: what is it and does it help thinking about adult learning? http://infed.org/mobi/andragogy-what-is-it-and-does-it-help-thinking-about-adult-learning/ (infed: informal education). Retrieved Feb 19, 2014.

Smith, M. K. (2012). ‘What is pedagogy?’, the encyclopaedia of informal education. http://infed.org/mobi/what-is-pedagogy/. Retrieved Feb 19, 2014.

[1] Đề cương của khóa học tạm dịch từ “syllabus” của tiếng Anh. Trong hệ thống giáo dục cao đẳng và đại học của Mỹ, syllabus là một phần quan trọng của khóa học. Trong syllabus, giảng viên đề ra mục đích của khóa học (kiến thức, kỹ năng mà học viên phải thu thập được sau khóa học), những chương/bài cần phải học, bao nhiêu bài kiểm, bài thi, dự án, v.v…; sách giáo khoa và tài liệu cần dùng trong khóa học; giảng viên sẽ dạy theo phương thức nào; thời khóa biểu của khóa học (vào ngày giờ nào); chính sách của giảng viên về giờ giấc (đến lớp trễ, về sớm), vắng mặt, nộp bài trễ và chế tài nếu vi phạm. Đề cương còn là một giao ước giữa giáo sư và sinh viên và mọi người cứ thế mà thi hành. Giáo sư không thể đổi ý và thay đổi “đề cương” một cách tùy tiện, nhất là về thang điểm.

[2] Walk-a-thon là một loại hình gây quỹ rất thông dụng tại Mỹ. Những người tham gia đi bộ (khoảng chừng năm cây số) phải đóng một lệ phí tham gia và có thể kêu gọi những người quen bảo trợ cho mình đi bộ. Có những cuộc walk-a-thon lên đến cả vài chục ngàn người.