Lịch Đại Và Đồng Đại

Tháng 5 năm 1968, lúc chiến tranh Việt Nam đang cực kỳ khốc liệt, nhà văn Susan Sontag của Mỹ được mời sang thăm Hà Nội trong thời gian hai tuần. Về lại Mỹ, bà viết và cho xuất bản cuốn “Trip to Hanoi” (Farrar, Straus and Giroux, New York, 1968) gây nhiều tiếng vang. Đến bây giờ vẫn thường được nhắc nhở.

Sinh năm 1933 và mất năm 2004, Sontag được xem là một trong những gương mặt xuất sắc và nổi bật nhất của trí thức Mỹ trong nửa sau thế kỷ 20. Đó là một trí thức cực kỳ thông minh. Jonathan Miller gọi bà là “người phụ nữ thông minh nhất nước Mỹ”, một nhận định được nhiều người đồng ý. Không những thông minh, bà còn là một cây bút đa năng và đa tài, tung hoành trong nhiều thể loại khác nhau, từ truyện ngắn đến truyện dài, từ phê bình đến lý luận; bao quát nhiều lãnh vực khác nhau, từ văn học đến triết học, nhiếp ảnh, điện ảnh và xã hội; có khả năng gây ấn tượng mạnh ở người đọc không những ở những ý tưởng sâu sắc mà còn ở giọng văn độc đáo và quyến rũ.

Lý do chủ yếu là vì văn hoá.

Khi hỏi về tình hình Việt Nam, từ giáo dục đến y tế, bao giờ Sontag cũng xuất phát từ sự so sánh có tính liên văn hoá (cross-cultural comparison), chẳng hạn, những thành tựu của Việt Nam có gì khác biệt với các nước khác trong khu vực hoặc trên thế giới, hoặc, đơn giản hơn: nền y tế Việt Nam phát triển theo hướng Tây phương hoá hay kết hợp giữa Tây y và Đông y. Rất hiếm khi bà được trả lời. Thậm chí những người được hỏi còn thấy khó chịu. Tất cả đều lờ đi và trả lời theo một nếp quen thuộc giống nhau như từ một khuôn: họ cho bà một bài giảng tóm lược những sự thay đổi của Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến lúc ấy. Đại khái: thời Pháp thuộc, có bao nhiêu trường học và bao nhiêu bệnh viện, còn bây giờ thì…. V.v… Bao giờ cũng thế. Cũng so sánh hiện tại với quá khứ. Và chỉ là quá khứ của Việt Nam.

Bà viết:

Sontag tóm tắt sự khác biệt giữa bà và các trí thức Hà Nội thời ấy: “Khung nhận thức của họ mang tính lịch đại (chronological). Còn khung nhận thức của tôi lại vừa lịch đại vừa địa lý (geographical).” (trang 23-25)

“Địa lý”, thật ra, chỉ là cách gọi khác của khái niệm đồng đại (synchronical).

Thế nào là lịch đại và thế nào là đồng đại?

Cả hai thuật ngữ đều xuất phát, trước hết, từ lãnh vực ngôn ngữ học. Lịch đại là cái nhìn theo chiều dọc, mang tính lịch sử, theo đó, mọi thứ đều đặt trong quan hệ với những gì trước và sau đó. Đồng đại, ngược lại, là cái nhìn theo chiều ngang, theo đó, mọi thứ đều đặt trong tương quan với những thứ khác ở những nơi khác, cùng thời. Cuộc cách mạng trong lãnh vực ngôn ngữ học nảy sinh chủ yếu từ việc thay đổi cách nhìn: thay vì nhìn theo chiều lịch đại như ngày xưa, người ta chỉ tập trung ở khía cạnh đồng đại.

Bài học từ lãnh vực ngôn ngữ học được ứng dụng khắp nơi: Người ta không thể đánh giá bất cứ một sự kiện hay một hiện tượng nào nếu bỏ qua chiều kích đồng đại. Đặc biệt trong thời toàn cầu hoá hiện nay.

Kinh tế và đời sống của người dân Việt Nam hiện nay khá hơn hẳn. Nhưng hơn hẳn so với cái gì? Ở Việt Nam, người ta chỉ có một cách trả lời duy nhất: so với thời bao cấp, hay so với thời còn chiến tranh, hoặc, xa hơn nữa, so với thời Pháp thuộc. Đành là đúng. Nhưng cái đúng ấy còn rất què quặt nếu người ta không thấy một tươnq quan so sánh khác: Nhưng so với các nước khác trên thế giới, hoặc ít nhất, trong khu vực, thì sao? Kinh tế và đời sống Việt Nam hiện nay như thế nào nếu so sánh với Thái Lan, Singapore hay Hàn Quốc, chẳng hạn?

Về phương diện dân chủ hay nhân quyền cũng thế. Người ta chỉ chăm chăm so sánh với thời Pháp thuộc. Nhưng còn so với thế giới thì sao?

Bỏ đi chiều kích đồng đại, cái gì cũng chỉ so sánh với trước năm 1986 hay trước năm 1975, 1954, 1945, người ta tự đặt ở cái thế từ lừa dối mình.

Và lừa dối người khác.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Phương Pháp Đồng Đại Và Phương Pháp Lịch Đại Trong Nghiên Cứu, Biên Soạn Lịch Sử Đảng

(TGAG)- Nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng không chỉ dựng lại những quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng; phong trào cách mạng của quần chúng nhằm thực hiện quan điểm, đường lối đó mà còn phải tìm ra mối liên hệ giữa các sự kiện, giữa các phong trào cách mạng để từ đó lý giải tìm ra quy luật, bản chất và sự vận động, phát triển của các sự kiện, hiện tượng, quá trình lịch sử. Để đạt được yêu cầu đó, trong quá trình nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng đòi hỏi người viết phải vận dụng phương pháp đồng đại và phương pháp lịch đại.

Phương pháp đồng đại (còn gọi là phương pháp so sánh lịch sử theo không gian hoặc phương pháp so sánh lịch sử được tiến hành “theo đường ngang”) là phương pháp nghiên cứu, so sánh các sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra trong cùng một giai đoạn nhưng ở những không gian khác nhau, từ đó cho thấy sự giống, khác nhau, làm rõ mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng. Qua đó, người nghiên cứu nắm bắt được cái riêng, cái chung, thấy được tính đặc thù, phổ biến, hệ thống của sự kiện, hiện tượng, quá trình lịch sử cụ thể.

Vận dụng phương pháp đồng đại trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, người viết phải bao quát bối cảnh lịch sử về tình hình thế giới, trong nước, trong tỉnh, địa phương. Đồng thời, trong nghiên cứu, biên soạn phải so sánh quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ, phong trào cách mạng của quần chúng với các Đảng bộ, địa phương lân cận và Đảng bộ cấp trên, giúp người viết thấy được sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của các Đảng bộ khi thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.

Phương pháp lịch đại (còn gọi là phương pháp so sánh lịch sử theo thời gian hoặc phương pháp so sánh lịch sử được tiến hành “theo đường thẳng”). Phương pháp này xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự phát triển (là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển). Phương pháp lịch đại đòi hỏi người viết khi nghiên cứu, biên soạn các sự kiện, hiện tượng lịch sử cần phải xem xét, so sánh với các giai đoạn phát triển trước kia của nó, đồng thời có thể dự báo khuynh hướng phát triển của các sự vật, hiện tượng. Bởi vì mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử trong giai đoạn sau luôn mang trong mình nó những đặc điểm và yếu tố của giai đoạn trước và ngược lại giai đoạn trước sẽ tạo tiền đề, định hướng cho sự phát triển của giai đoạn sau. Phương pháp lịch đại giúp cho chúng ta thấy được sự vận động, phát triển của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.

Để tiến hành xem xét, so sánh các sự kiện, hiện tượng lịch sử ở thời gian hoặc giai đoạn lịch sử khác nhau, yêu cầu người nghiên cứu, biên soạn phải nghiên cứu riêng sự tiến triển và đặc điểm của mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử, sau đó mới so sánh để rút ra bản chất, quy luật chi phối và những bài học kinh nghiệm.

Phương pháp đồng đại và phương pháp lịch đại được gọi chung là phương pháp so sánh lịch sử. Cả hai phương pháp đều có ưu điểm riêng. Vận dụng phương pháp đồng đại giúp chúng ta bao quát toàn vẹn các mặt hoạt động của Đảng bộ trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Vận dụng phương pháp lịch đại, giúp chúng ta nắm được quá trình vận động, phát triển của Đảng bộ. Vì vậy, việc kết hợp hai phương pháp này trong quá trình nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau góp phần tái hiện bức tranh sinh động về không gian và thời gian của lịch sử Đảng bộ.

So Sánh Các Phương Pháp Dạy Học Truyền Thống Và Hiện Đại

1. Phương pháp dạy học truyền thống là gì?

Phương pháp dạy học truyền thống là cách dạy học được truyền từ lâu đời qua nhiều thế hệ. Về cơ bản thì có thể hiểu, phương pháp này lấy trung tâm là giáo viên. Giáo viên sẽ là người thuyết trình, diễn giải kho tàng tri thức còn học sinh sẽ là lắng nghe, ghi chép và học thuộc.

Trong các phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chính là tâm điểm còn học sinh là khách thể, là quỹ đạo xung quanh. Giáo án dạy chương trình cũng được thiết kế theo một đường thẳng từ trên xuống. Nội dung giảng dạy theo tính truyền thống và mang đặc điểm về sự logic cao.

Nhược điểm của cách dạy truyền thống là học sinh dễ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, giờ học cũng buồn tẻ và kiến thức chỉ thiên về lý thuyết. Bởi vì không có nhiều cơ hội thực hành, nên học sinh khó có thể áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn.

2. Phân loại phương pháp dạy học truyền thống 2.1 Nhóm diễn giảng 2.1.1 Phương pháp thuyết trình thông báo – tái hiện

Phương pháp này chính là phương pháp thể hiện được tính chất thông báo trong lời giảng của giáo viên cùng với đó là tính lĩnh hội của học sinh. Nhìn chung, phương pháp này sẽ chỉ cho phép các học sinh có thể đạt được mức độ tái hiện nên nó mang tính thụ động khá nhiều.

2.1.2 Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề

Phương pháp này có cấu trúc thuyết trình song song và được phát triển theo hướng tích cực đó là trình bày để nêu vấn đề. Giáo viên sẽ trình bày các tri thức theo logic hợp lý với dạng nêu ra vấn đề gợi mở.

Việc nêu vấn đề sẽ định hướng cho học sinh và sự trình bày của giáo viên. Nhìn chung phương pháp này sẽ mang đến khả năng kích thích tư duy của học sinh một cách tốt nhất

Cho phép giáo viên có thể trình bày một nội dung lý thuyết khó và phức tạp.

Cho phép giáo viên trình bày mô hình mẫu của tư duy logic với các trình bày và lý giải vấn đề khoa học hơn.

Hình thành một tư tưởng và tình cảm tốt đẹp với niềm tin thông qua ngôn ngữ và cách mà giáo viên giảng dạy.

Tạo điều kiện để cho học sinh có thể phát huy được năng lực chú ý và tư duy bằng khái niệm.

Mang đến tính kinh tế cao.

Rất dễ làm cho người học gặp phải tình trạng bị thụ động và mệt mỏi.

Ít phát triển tư duy một cách độc lập và sáng tạo.

Thông tin ngược sẽ không được đảm bảo tốt.

2.1.3 Phương pháp đàm thoại

Nhược điểm:

Trong các phương pháp dạy học truyền thống diễn giả, đàm thoại là phương thức thường xuyên được sử dụng. Giáo viên sẽ đặt ra trong một hệ thống câu hỏi hay là tổ chức để học sinh trả lời. Học sinh sẽ thực hiện được trao đổi qua lại và tranh luận với nhau cũng như là tranh luận với giáo viên để lĩnh hội được bài học một cách tốt nhất.

Kích thích được tính tích cực trong quá trình nhận thức của học sinh.

Bồi dưỡng được năng lực diễn đạt một vấn đề khoa học nhất có thể.

Giúp giáo viên có thể thu được tín hiệu từ học sinh một cách nhanh chóng và kịp thời để điều chỉnh quá trình dạy học.

Nếu như giáo viên không biết vận dụng một cách khéo léo thì sẽ rất dễ dẫn tới mất thời gian.

2.1.4 Phương pháp làm việc với SGK và tài liệu tham khảo

Trong quá trình làm việc với sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo, học sinh sẽ nắm vững được kiến thức và hình thành được các kỹ năng thông qua sách vở. Làm việc với sách giáo khoa và tài liệu có thể được diễn ra trên lớp hoặc ngoài lớp đều được.

Nhược điểm:

2.2 Nhóm trực quan

Phương pháp dạy trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan và các phương tiện kỹ thuật để củng cố kiến thức của học sinh.

Giúp học sinh có thể nắm bắt được đầy đủ các thông tin về đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở huy động nhiều khách quan khác nhau. Từ đó sẽ phát triển được tư duy một cách trừu tượng và hình thành khái niệm về đối tượng rõ ràng nhất.

Làm thỏa mãn cũng như là phát triển hứng thú của người học.

Giúp cho các tài liệu học tập trở nên vừa sức hơn đối với học sinh.

Nếu như lạm dụng điều này quá nhiều thì học sinh sẽ bị phân tán sự chú ý và thiếu tập trung vào sự hạn chế của tư duy trừu tượng.

2.3 Nhóm thực hành

Trong các phương pháp dạy học truyền thống, nhóm thực hành mang tính chủ động nhiều nhất. Giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh hoạt động thực hành để khám phá tri thức mới, và vận dụng nó để củng cố rèn luyện kỹ năng của bản thân. Nhóm phương pháp này sẽ bao gồm việc luyện tập, ôn và làm việc trong phòng thí nghiệm.

Nhược điểm:

Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng kỹ xảo và củng cố tri thức.

Hình thành cho người học những phẩm chất như là tính độc lập, tinh thần chịu trách nhiệm và tính sáng tạo.

Ưu điểm:

Nếu như việc chuẩn bị không được chu đáo thì sẽ khiến cho học sinh rèn luyện những kỹ năng và kĩ sảo này một cách máy móc.

3. So sánh phương pháp dạy học truyền thống và dạy học tích cực

Phương pháp truyền thụ và thông báo là phương pháp chiếm ưu thế. Trong đó bao gồm cả việc định hướng mục đích học tập và kiểm tra học sinh. Nhìn chung phương pháp này vẫn nặng về định hướng hiệu quả truyền đạt thông tin.

Có sự phối hợp giữa hành động của người dạy và người học. Nó bao gồm quá trình lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá giờ học.

Người học sẽ bị bị động và không có quyền quyết định quá nhiều.

Người học phải có vai trò nhiều hơn trong quá trình học tập của mình và tự điều khiển kết quả.

Người dạy sẽ trình bày và giảng giải nội dung cho học sinh. Đồng thời họ cũng là người chỉ đạo và kiểm tra các bước học tập.

Người dạy sẽ đưa ra các tình huống và chỉ dẫn những công cụ để có thể giải quyết vấn đề. Người dạy chỉ có vai trò là người tư vấn chứ không giải đáp vấn đề.

Quá trình học diễn ra thụ động và được tiến hành theo một hệ thống.

Quá trình dạy là quá trình truyền tải tri thức từ người dạy sang người học. Người học sẽ lĩnh hội các nội dung theo phương thức đã được lập trình sẵn. Quá trình dạy này có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần.

Người dạy sẽ được tiến hành đưa ra các gợi ý hỗ trợ và tư vấn cho học sinh. Phương pháp này có tính lặp lại ít hơn so với phương pháp truyền thống.

Kết quả học tập sẽ được dự báo dựa trên nhiều phương pháp khác nhau. Dạy học và đánh giá được chia ra làm hai thành phần khác nhau trong quá trình dạy học. Nhìn chung phương pháp này sẽ tái hiện được khả năng chính xác của tri thức.

Dựa vào quá trình học tập để đánh giá kết quả nhiều hơn là dựa vào kiểm tra. Học sinh sẽ được tham gia vào quá trình đánh giá. Phương pháp này chú trọng tính ứng dụng tri thức trong những tình huống cụ thể.

Nhược điểm:

So Sánh Văn Học Hiện Đại Và Văn Học Trung Đại

1. Khái quát văn học hiện đại và văn học trung đại

Trước khi phân biệt văn học hiện đại và văn học trung đại, các em cần có cách nhìn tổng quan nhất về hai thể loại văn học trên:

– Sự ra đời và hình thành phát triển:

+ Từ thế kỉ X đến trước khi hình thành văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian

+ Đầu thế kỉ X đánh dấu sự ra đời của dòng văn học Việt Nam (văn học trung đại)

– Chủ đề chủ đạo của các tác phẩm văn học trung đại:

+ Từ thế kỉ X – XV: Nêu cao tinh thần yêu nước, sức mạnh dân tộc, ý chí độc lập và tinh thần tự chủ, tự cường

+ Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII: Tập trung phê phán, phản ánh xã hội

+ Từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX: Tập trung phản ánh, phê phán xã hội và đề cao vai trò của con người.

+ Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: Phản ánh, phê phán những thói hư dởm đời.

Ví dụ: Các tác phẩm văn học trung đại tiêu biểu Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà,…

– Thời gian tư tưởng chủ đạo: Văn học hiện đại kéo dài từ 1945 đến 1975 chia làm 3 giai đoạn:

+ 1945 – 1954: trong giai đoạn này tư tưởng chủ đạo hướng về cuộc kháng chiến chống pháp ( Làng- Kim Lân)

+ 1954 – 1964: Cách nhìn mới về một cuộc sống mới, hướng đến tương lai tươi sáng

+ 1964 – 1975: Những tác phẩm tiêu biểu như : Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng, Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long ⇒ Hướng đến những con người cao đẹp với những phẩm chất tốt đẹp trong xã hội.

+ Sau 1975: Nổi bật với tác phẩm bến quê – Nguyễn Minh Châu.

2. Phân biệt văn học hiện đại và văn học trung đại

So sánh Văn Học hiện đại và Văn Học trung đại

Sau khi các em nắm bắt được những điểm khái quát và hệ thống lại được một số tác phẩm tiêu biểu, sau đây các em có thể tìm được những điểm giống nhau và khác nhau giữa văn học hiện đại và văn học trung đại như sau:

– Nội dung: Cùng thể hiện tình cảm, tư tưởng của tác giả bao gồm 3 nội dung chủ đạo là giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và tinh thần yêu nước

– Nội dung: Văn học hiện đại có nội dung phong phú, hấp dẫn người đọc hơn văn học trung đại, có cái tôi cá nhân và giác ngộ lí tưởng cách mạng. Nó không chỉ thu hút người đọc bởi cách viết đổi mới mà còn bởi nó bộc lộ được nhiều góc khuất của xã hội, của cuộc sống một cách chân thực nhất mà văn học trung đại không biểu hiện được

– Nghệ thuật:

+ Quan điểm nghệ thuật: Văn học hiện đại có cái nhìn mở rộng hơn, phóng khoáng hơn, không bị ràng buộc bởi các lễ nghi, lễ giáo như ở văn học trung đại. Ở đây, tác giả được biểu lộ cái tôi cá nhân vào bài viết

+ Thể loại: Đa dạng hơn văn học trung đại: truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút,,…giúp người viết tự do thể hiện tư tưởng tình cảm mà không sợ bị bó hẹp có thể viết ngắn hoặc dài, thay đổi nhiều phong cách viết khác nhau, có các hình ảnh hiện đại,…

– Nội dung: Các tác phẩm của văn học trung đại luôn bị kèm kẹp trong một phạm vi nhất định, bị tiêu khiển bởi các lễ nghi, lễ giáo, xã hội phong kiến. Các tác phẩm đôi khi chỉ là một góc khuất rất nhỏ của cuộc sống, thứ mà đôi khi bị người ta cho là vô nghĩa trong xã hội phong kiến. Các tác phẩm văn học trung đại chủ yếu dùng để bày tỏ chí, tỏ lòng.

– Nghệ thuật:

+ Mang tính ước lệ, tượng trưng, có các điển tích cổ điển. Các tác phẩm văn học trung đại mang đậm phong cách cổ xưa, tuân theo cái truyền thống, sắp đặt sẵn, không có quan điểm cá nhân trong bài viết.

+ Mang tính chất quy phạm: Mang tính bó buộc, có quy luật vần chắc chặt chẽ (thơ), hịch, cáo, chiếu,…

+ Thể loại: Ngoài các thể loại được tuân theo quy luật chặt chẽ trên, văn học trung đại còn bao gồm nhiều thể loại truyền thống như: ca dao, tục ngữ,…

Nhìn chung, văn học hiện đại và văn học trung đại có những cách nhìn nhận khác nhau, mang hai màu sắc hoàn toàn khác nhau, phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử. Nếu như văn học trung đại bị bó hẹp trong niêm luật, gò bó, không thể hiện được cái tôi cá nhân thì văn học hiện đại lại như một luồng gió mới thổi vào văn học Việt Nam, mang lại những sắc thái mới, tiếng nói mới, phá bỏ mọi sự gò bó và cái tôi cá nhân được thể hiện một cách rõ ràng nhất. Giá trị của văn học trung đại không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nó không còn phù hợp với xu hướng hiện tại thì tự khắc nó sẽ phải nhường chỗ cho sự phát triển cho văn học hiện đại.

Đội ngũ gia sư Văn hy vọng rằng bài viết trên sẽ mang lại nhiều kiến thức bổ ích cho các em học sinh trong quá trình học tập. Chúc các em học tập thật tốt và vượt qua các kì thi một cách xuất sắc!

Luật Hiến Pháp So Sánh Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa

Luật hiến pháp so sánh trong thời đại toàn cầu hóa

BÙI NGỌC SƠN

Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà nội

1. Lược sử

(2) Các quan niệm: ý nghĩa, bản chất của hiến pháp và chủ nghĩa hợp hiến, pháp quyền, dân chủ, chủ quyền, quyền và tự do, hiến pháp và công lý, nhân phẩm và tự chủ cá nhân, giới trong hiến pháp.

(3) Quy trình: quy trình lập hiến và sửa đổi hiến pháp, trưng cầu dân ý, bầu cử, quyền lực thời chiến, tình trạng khẩn cấp.

(4) Cấu trúc: phân quyền ngang, phân quyền dọc, nhà nước liên bang, nhà nước đơn nhất, chế độ tổng thống, chế độ nghị viện.

(5) Ý nghĩa và Văn bản: giải thích hiến pháp, bản sắc hiến pháp, các giá trị và nguyên tắc hiến pháp.

(6) Thể chế: tòa án hiến pháp, tư pháp độc lập, đảng chính trị.

(8) Xu hướng: những xu hướng mới của luật hiến pháp so sánh như quốc tế hóa luật hiến pháp, hiến pháp hóa trật tự quốc tế, chủ nghĩa hợp hiến và công lý chuyển đổi, tôn giáo và trật tự hiến pháp, cấy ghép và vay mượn hiến pháp.

3. Các cách tiếp cận

Theo Giáo sư Vicki C. Jackson ở Trường Luật Harvard, có 5 cách tiếp cận khác nhau trong luật hiến pháp so sánh: phân loại, lịch sử, phổ quát, chức năng và bối cảnh [29]

3.1. Cách tiếp cận phân loại

Trong luật so sánh nói chung, các học giả thường phân loại các hệ thống pháp luật thành các “họ” pháp luật. Trong luật hiến pháp so sánh, các học giả cũng phân biệt các “họ” của luật hiến pháp, như sự phân biệt giữa luật hiến pháp thuộc truyền thống thông luật và luật hiến pháp thuộc truyền thống dân luật [30]

Cách phân loại truyền thống giữa hiến pháp thành văn và hiến pháp bất thành văn vẫn được sử dụng nhưng có những khám phá mới, không đơn giản là để phân biệt giữa Hiến pháp Mỹ và Hiến pháp Anh. Các nghiên cứu mới khám phá hiến pháp bất thành văn ở những nước vốn thường được nhận biết với hiến pháp thành văn. Năm 2012, Giáo sư Akhil Reed Amar ở Trường Luật Yale công bố cuốn sách “Hiến pháp bất thành văn của Mỹ”. Học giả này cho rằng, các quyền riềng tư, quyền mỗi người một phiếu bầu, quyền suy đoán vô tội là những quyền hiến pháp căn bản của công dân, không được quy định trong Hiến pháp thành văn, nhưng được tòa án áp dụng, là một bộ phận quan trọng của hệ thống hiến pháp đang vận hành của Mỹ [31] . Theo phương pháp này, giáo sư Jiang Shigong ở Trường Luật thuộc Đại học Bắc Kinh đã công bố một nghiên cứu về hiến pháp bất thành văn ở Trung Quốc, cho rằng chỉ có thể hiểu được các vấn đề hiến pháp ở Trung Quốc bằng việc xem xét sự tương tác giữa hiến pháp thành văn và bất thành văn ở quốc gia này [32]

Một cách thức phân loại khác tập trung vào chế độ bảo hiến. Các học giả phân loại giữa chế độ bảo hiến phi tập trung hóa, chế độ bảo hiến tập trung hóa, và chế độ bảo hiến hỗn hợp [33] . Đặc biệt, sự phát triển mới của chế độ bảo hiến ở các nước thuộc khối Thịnh vượng chung từ cuối thế kỷ 20 dẫn đến sự phân loại giữa chế độ bảo hiến “mạnh” theo kiểu của Mỹ và chế độ bảo hiến “yếu” theo kiểu của các nước thuộc khối Thịnh vượng chung [34] . Ngoài ra, có những nghiên cứu phân loại cách tiếp cận trong giải thích hiến pháp, như sự phân loại thành chủ nghĩa văn bản, chủ nghĩa nguồn gốc, chủ nghĩa kiến tạo, và chủ nghĩa chức năng [35]

Trên một phương diện khác, các nhà chính trị học quan tâm đến những vấn đề chính trị riêng biệt của hệ thống hiến pháp, và tiến hành các phân loại như chế độ tổng thống, chế độ nghị viện, chế độ liên bang, chế độ đơn nhất.

Cách tiếp cận lịch sử nhìn nhận sự phát triển của hiến pháp theo thời gian. Theo cách thức này, người ta tìm hiểu xem hai hệ thống hiến pháp có cùng “họ” đã phát triển với những sự giống nhau và khác nhau như thế nào. Người ta cũng nghiên cứu một quan niệm hiến pháp tồn tại trong một hệ thống hiến pháp nhất định đã được di chuyển sang một hệ thống khác như thế nào. Các nghiên cứu ảnh hưởng của Hiến pháp Mỹ và Hiến pháp Đức ở nước ngoài thuộc loại này [38] . Các nghiên cứu khác tiếp cận theo góc độ lịch sử vĩ mô, xem xét tác động của các yếu tố chiến tranh, thuộc địa đối việc du nhập các quan niệm và thể chế hiến pháp nước ngoài trong quá trình phát triển hiến pháp của quốc gia [39]

3.3. Cách tiếp cận phổ quát

Cách tiếp cận phổ quát dựa trên giả thuyết về sự tồn tại của các nguyên lý hay giá trị phổ quát trong lĩnh vực luật hiến pháp. Theo cách tiếp cận này, mục tiêu của việc phân tích so sánh hiến pháp là để tìm kiếm các nguyên lý phổ quát – vượt không gian và thời gian – các nguyên lý về điều tốt hay công lý – trong lý thuyết hay thể chế hiến pháp. Cách tiếp cận này giả sử rằng, tồn tại các quy chuẩn phổ quát được chia sẻ trong cộng đồng nhân loại, như các quy chuẩn về công bằng, dân chủ và nhân phẩm. Chủ nghĩa phổ quát trong hiến pháp cũng cho rằng, các xã hội khác nhau đối mặt với các vấn đề hiến pháp giống nhau và có những giải pháp hiến pháp tương tự cho các vấn đề đó. Phân tích so sánh hiến pháp là để tìm ra các vấn đề chung và các giải pháp chung đó. Dựa trên chủ nghĩa phổ quát, một số học giả phát triển các lý thuyết hiến pháp tổng quát về công lý và bản chất của hiến pháp, quan hệ giữa chủ nghĩa hợp hiến và dân chủ, pháp quyền và dân chủ. Ngoài ra, các lý thuyết khác phát triển các luận điểm phổ quát dựa trên nghiên cứu những vấn đề hiến pháp cụ thể như các quyền cụ thể của con người [40]

3.4. Cách tiếp cận chức năng

Cách tiếp cận chức năng là cách tiếp cận phổ biến nhất trong luật hiến pháp so sánh. Theo cách tiếp cận này, các học giả phân tích các chức năng khác nhau hoặc giống nhau của bản hiến pháp, các thể chế hiến pháp, và học thuyết hiến pháp trong các xã hội khác nhau [41] . Cách tiếp cận này dựa trên một thực tế là: một thể chế hiến pháp giống nhau về hình thức và cấu trúc có thể có những chức năng thực tế khác nhau trong các xã hội khác nhau; hiến pháp của các quốc gia có thể giống nhau về hình thức (ví dụ, thành văn hay bất thành văn) và cấu trúc, nhưng trên thực tế lại có những chức năng khác nhau trong các xã hội khác nhau; một số quan niệm học thuyết hiến pháp – như pháp quyền hay nhân quyền – cũng có những ý nghĩa và những chức năng khác nhau trong các quốc gia khác nhau.

3.5. Cách tiếp cận bối cảnh

Trong luật hiến pháp so sánh, chủ nghĩa bối cảnh là một phương pháp luận đối lập với chủ nghĩa phổ quát. Trong khi chủ nghĩa phổ quát tìm kiếm những nguyên lý và giá trị phổ quát của luật hiến pháp và khả năng áp dụng chung cho các xã hội khác nhau, chủ nghĩa bối cảnh quan tâm đến điều kiện đặc thù của bản địa. Chủ nghĩa bối cảnh dựa trên giả thuyết rằng, luật pháp, đặt biệt là luật hiến pháp, luôn phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và văn hóa cụ thể của một xã hội. Do vậy, trong các tiếp cận này, mục tiêu của luật hiến pháp so sánh không phải là tìm kiếm các giá trị phổ quát có thể áp dụng chung, mà là giải thích xem một hệ thống hiến pháp nhất định đã vận hành tương thích với điều kiện, nhu cầu, khát vọng, tập tục của một xã hội nhất định như thế nào, ngược lại với mục tiêu của chủ nghĩa phổ quát là xem xét xem một hệ thống hiến pháp đã vận hành tương thích với các nguyên lý phổ quát như thế nào [42] . Hai cách tiếp cận nói trên cũng dẫn đến những kết quả nhận thức khác nhau: trong khi kiến thức được sinh ra từ chủ nghĩa phổ quát đóng góp vào nhận thức chung về hiến pháp, kiến thức được sinh ra từ chủ nghĩa bối cảnh đóng góp vào nhận thức về từng hệ thống hiến pháp nhất định.

4. Thách thức

5. Luật hiến pháp so sánh và luật hiến pháp quốc gia

Sự mở rộng toàn cầu của học thuật luật hiến pháp so sánh có thể dẫn đến khả năng học thuật luật hiến pháp quốc gia đặt các vấn đề hiến pháp bản địa trong một bối cảnh so sánh có tính khu vực hoặc quốc tế. Phân tích so sánh chức năng có thể giúp hiến pháp học quốc gia hiểu rõ hơn chức năng của hiến pháp, các thể chế hiến pháp và các quan niệm hiến pháp trong điều kiện bản địa. Chủ nghĩa phổ quát quốc tế nếu được cộng hưởng với chủ nghĩa duy cảm bản địa có thể dẫn đến những viễn cảnh lý tưởng. Ngược lại, chủ nghĩa bối cảnh có thể là nền tảng của hiện trạng. Nhưng ngay cả những người phản đối chủ nghĩa phổ quát hăng hái nhất cũng không thể phủ nhận thực tế đã diễn ra là sự di chuyển khỏi nơi khởi sinh của các thể chế hiến pháp và quan niệm hiến pháp sang một bối cảnh mới. Một cách tiếp cận trung tính có thể là: các thể chế hiến pháp và quan niệm hiến pháp có khả năng di chuyển và hiệu quả trong một bối cảnh mới, nến quá trình này diễn ra cùng với sự điều biến, tương tác, tích hợp của chúng với các thể chế và quan niệm có tính chất bản địa. Với cách thức như vậy, di chuyển hiến pháp diễn ra song song với một quá trình bản địa hóa. Điều này, về mặt học thuật, đòi hỏi sự gắn kết của hiến pháp học quốc gia với hiến pháp học so sánh