Phương Pháp Quan Sát Trong Nghiên Cứu Khoa Học / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Tiểu Luận Môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Về Phương Pháp Quan Sát

MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT I. Khái niệm 1. Khái niệm phương pháp quan sát 2. Điểm khác nhau giữa quan sát là một phương pháp nghiên cứu với quan sát thông thường II. Các phương pháp quan sát sử dụng trong nghiên cứu khoa học 1. Quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp 2. Quan sát chuẩn mực và quan sát tự do 3. Quan sát tham dự và quan sát không tham dự 4. Quan sát công khai và quan sát bí mật 5. Quan sát ngẫu nhiên và quan sát hệ thống III. Các bước thực hiện quan sát trong nghiên cứu khoa học CHƯƠNG II : NGUYÊN TẮC, KỸ THUẬT, ƯU ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM CHUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT I. Nguyên tắc và kỹ thuật quan sát 1. Nguyên tắc quan sát 2. Kỹ thuật quan sát II. Các trường hợp sử dụng phương pháp quan sát 1. Một số chú ý khi sử dụng phương pháp quan sát 2. Vấn đề sử dụng phương pháp quan sát III. Ưu điểm, nhược điểm chung của phương pháp quan sát 1. Ưu điểm của phương pháp quan sát 2. Nhược điểm của phương pháp quan sát IV. Yêu cầu khi sử dụng phương pháp quan sát KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài Theo các nhà thống kê, sự phát triển của xã hội loài người nửa cuối thế kỷ 20 bằng tổng sự phát triển của loài người trước đó. Điều đó cho 2

thấy tri thức đã là một trong những động lực quan trọng mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Xã hội trở thành “một xã hội của tri thức” làm cho việc nghiên cứu khoa học, tập dượt nghiên cứu khoa học thành một hoạt động cần thiết cho sinh viên, học viên trong các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu,… Quá trình nghiên cứu khoa học có đạt hiệu quả tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách thức nghiên cứu, các phương tiện kỹ thuật nghiên cứu. Do đó việc tìm hiểu về các phương pháp nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Có rất nhiều tiêu chí để phân loại các phương pháp nghiên cứu khoa học, tùy theo nội dung nghiên cứu mà người nghiên cứu có thể sử dụng những phương pháp khác nhau. Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học, tùy vào mục đích, yêu cầu của công việc đòi hỏi chúng phải lựa chọn phương pháp tối ưu nhất nhằm đem lại kết quả tin cậy nhất. Nhằm hiểu sâu hơn về phương pháp nghiên cứu khoa học em chọn đề tài ” phương pháp quan sát – những vấn đề lý luận và kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu khoa học công tác xã hội” để xác định rõ cơ sở lý luận, quan điểm thực tiễn của phương pháp quan sát và hiểu rõ hơn về phương pháp này. Phương pháp quan sát là phương pháp phổ biến, dễ sử dụng, phục vụ nhiều mục đích nghiên cứu khác nhau, phục vụ cho quá trình học tập, quan sát bài giảng, ghi chép tài liệu khoa học, giúp trong tương lai nắm vững đối tượng tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề trong công tác xã hội. 2. Đối tượng quan sát Có thể là một người, một nhóm người, một đơn vị cơ sở, một sự kiện xã hội. 3. Mục đích quan sát

3

NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT I.

Khái niệm:

1. Khái niệm phương pháp quan sát 4

Quan sát là phương pháp sử dụng các giác quan cùng với chữ viết, ký hiệu và các phương tiện kỹ thuật (máy ảnh, máy ghi âm, máy quay phim, …) một cách có chủ định, có kế hoạch, để ghi nhận, thu thập thông tin phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Phương pháp quan sát có ưu điểm là khá đơn giản, dễ tiến hành, có thể nghiên cứu đối tượng một cách toàn diện và khá chính xác nếu biết phối hợp tốt nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên nếu chỉ quan sát cá nhân đơn giản, không có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật thì kết quả thu được dễ bị sai lệch. Mặt khác kết quả quan sát còn phụ thuộc vào những kinh nghiệm và đặc điểm nhân cách của người quan sát. Vì người quan sát một thực thể có tình cảm và những ràng buộc xã hội…nên khi cảm thụ và lý giải những hiện tượng thực tế, thường khó tránh khỏi những cảm tính chủ quan. 2. Điểm khác nhau giữa quan sát là một phương pháp nghiên cứu với quan sát thông thường Nhà xã hội học nổi tiếng người Nga Radov phân biệt quan sát với tư cách là một phương pháp nghiên cứu khoa học với quan sát thông thường ở những khía cạnh sau: 5

– Quan sát xã hội học phải tuân theo những mục tiêu nhất định. – Những thông tin thu nhận được từ quan sát cần được ghi vào tờ kê khai chuẩn bị trước, vào nhật kí và theo một cách thức nhất định. – Thông tin từ quan sát cần được kiểm tra về tính ổn định và tính hiệu lực. II. Các phương pháp quan sát sử dụng trong nghiên cứu khoa học Rất nhiều loại quan sát đã được sử dụng trong nghiên cứu khoa học. Khi lựa chọn một phương pháp quan sát nào đó, người nghiên cứu cần biết điểm mạnh, điểm yếu của chúng mà áp dụng cho phù hợp. Quan sát có thể được phân loại theo cách thức quan sát, phương thức quan sát, số lượng người tham quan sát, phương tiện quan sát… 1. Quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp 1.1 Quan sát trực tiếp Người quan sát tiếp cận đối tượng một cách trực tiếp. Phương pháp này áp dụng tốt với các đối tượng vô tri vô giác; còn với các đối tượng khác thì sự hiện diện của người quan sát có thể làm thay đổi các biểu hiện của các đối tượng nghiên cứu. 1.2 Quan sát gián tiếp Người quan sát tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách gián tiếp qua camera.. 2. Quan sát chuẩn mực và quan sát tự do 2.1Quan sát chuẩn mực (quan sát cơ cấu hóa)

a. Khái niệm: Là hình thức quan sát mà ở đó người nghiên cứu xác định trước: + Thứ nhất: những yếu tố nào của đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa nhất cho việc nghiên cứu.

6

+ Thứ hai: Tình huống nào trong các tình huống có tầm quan trọng nhất cho kết quả nghiên cứu, để tập trung sự chú ý của mình vào đó. + Thứ ba: Lập kế hoạch tỉ mỉ cho khâu quan sát từ khâu xác định khách thể, đối tượng quan sát đến nội dung chi tiết cho việc ghi chép. b. Ưu điểm Phương pháp này sẽ giúp cho quan sát viên có thể quan sát được chi tiết đầy đủ và khả năng bao quát vấn đề lớn hơn vì kế khách thể, đối tượng quan sát đến nội dung chi tiết cho việc ghi chép. Vậy nên dễ tập trung vào các tình huống có tầm quan trọng. c. Nhược điểm + Thiếu tính linh hoạt + Để thực hiện được loại quan sát này, yêu cầu phải có sự am hiểu nhất định về đối tượng và khách thể nghiên cứu, vì khi lập kế hoạch quan sát, chuẩn bị các thủ tục quan sát, người nghiên cứu phải xác định được hệ thống phân loại các hiện tượng tạo nên tình huống quan sát. d. Sử dụng Thường được sử dụng cho việc kiểm tra kết quả nhận được của các phương pháp khác hoặc bổ sung và chính xác hóa hơn cho kết quả này. Ngoài ra nó còn được sử dụng cho những nghiên cứu với mục tiêu mô tả đối tượng nghiên cứu hay kiểm tra các giả thiết trong nghiên cứu khoa học. 2.1Quan sát tự do (quan sát phi cơ cấu hóa) a. Khái niệm Là dạng quan sát mà trong đó người nghiên cứu còn chưa xác định được những yếu tố nào sẽ là chủ yếu cho nghiên cứu để định hướng sự chú ý. 7

8

c. Nhược điểm + Không phải lúc nào nhà nghiên cứu cũng có khả năng tham dự vào hoạt động được quan sát. Để tham dự được vào các hoạt động của người được quan sát, điều tra viên phải nắm bắt được ở một mức độ nào đó những nghề nghiệp phù hợp hay am hiểu những hành động của người được quan sát. + Sự tham gia yêu cầu một thời gian dài quan sát hơn để điều tra viên thích ứng hơn với môi trường mới. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, thời gian để thích ứng làm quen với môi trường mới của điều tra viên cũng kéo dài hàng tuần, hàng tháng, tất nhiên điều này còn phụ thuộc vào tính cách của người đi quan sát cùng với đặc trưng về giới tính tuổi tác của anh ta. Ngoài ra cũng còn phụ thuộc vào bầu không khí tâm lý, đạo đức. + Đôi khi sự tham dự quá tích cực, lâu dài của người quan sát vào đời sống của nhóm người được quan sát sẽ dẫn đến kết quả là người quan sát quen với thái độ, hành động của các thành viên trong nhóm đến mức coi tất cả những cái đó như là hiển nhiên và không để ý đến chúng nữa. + Sự tham dự quá tích cực, lâu dài trong hoạt động, tiếp xúc hàng ngày, người đi quan sát không giữ được thái độ trung lập, bày tỏ công khai thái độ của mình, sự ưa thích của mình hoặc đứng về phía ai đó hay phê phán một ý kiến, hành vi nào đó…đều là sự nguy hại đến kết quả quan sát. 3.2 Quan sát không tham dự a. Khái niệm Là dạng quan sát mà người quan sát hoàn toàn ở ngoài hoạt động được quan sát. Họ đứng ngoài quan sát các tình huống và đơn thuần ghi lại những diễn biến đang xảy ra . b. Ưu điểm

10

+ So với phương pháp quan sát tham dự, phương pháp này mang tính khách quan hơn vì quan sát viên chỉ là người ngoài cuộc quan sát để nhìn nhận một vấn đề nào đó nên dễ dàng giữ được thái độ trung lập. + Ngoài ra trong quá trình quan sát việc ghi chép sẽ thuận lợi hơn vì không phải tham gia vào các hoạt động được quan sát mà chủ yếu xem xét và ghi chép lại nên sẽ đầy đủ và bao quát hơn. + Phương pháp này không tốn nhiều thời gian vì người quan sát không phải hòa nhập vào hoạt động được quan sát mà chỉ quan sát một cách thông thường. + So với quan sát tham dự thì phương pháp này đòi hỏi trình độ hiểu biết không quá cao, đòi hỏi khả năng hòa nhập, khả năng xử lý tình huống không cao lắm. c. Nhược điểm Khi sử dụng phương pháp này một khó khăn của quan sát viên là không thể đi sâu tìm hiểu bản chất cốt lõi của vấn đề mà dễ chủ quan, duy ý chí. Vậy nên tạo nên cái nhìn thụ động về vấn đề được quan sát nên chất lượng quan sát không cao. d. Sử dụng Việc quan sát không tham dự được sử dụng để quan sát những biến cố có tính chất hàng loạt nhằm thấy được toàn bộ tiến trình xảy ra .Thông thường được sử dụng để mô tả bầu không khí xã hội có xảy ra biến cố mà xã hội học quan tâm. 4. Quan sát công khai và quan sát bí mật 4.1Quan sát công khai a. Khái niệm Là khi người được quan sát biết rõ mình đang bị quan sát. b. Ưu điểm 11

Phương pháp quan sát này có ưu điểm không vi phạm vấn đề đạo đức con người, tất cả mọi người đều được biết về việc quan sát. c. Nhược điểm Gây ra cho người được quan sát sự căng thẳng nào đó. Họ sẽ không hoạt động như bình thường mà luôn tỏ ra tốt hơn, cố gắng hơn. Sự có mặt của người quan sát luôn tác động đến người được quan sát ngay cả khi người được quan sát không muốn đặt ra mục tiêu cần thực hiện tốt hơn hoạt động của mình. 4.2 Quan sát bí mật a. Khái niệm Là quan sát trong đó cá nhân được quan sát không biết mình đang bị quan sát. b. Ưu điểm Tạo ra khả năng nhận thức tốt. Quan sát bí mật sẽ cho hiệu quả cao hơn khi nó được kết hợp với quan sát có tham gia. Khi đó tình huống xảy ra hoàn toàn tự nhiên, hành vi của người được quan sát, thể hiện đúng thực chất của nó hơn. c. Nhược điểm : + Khi sử dụng phương pháp này người quan sát đòi hỏi phải là nguời có kinh nghiệm, có trình độ và nhất là sự cẩn thận khéo léo vì quan sát bí mật rất khó khăn và thậm chí là nguy hiểm. + Việc giữ bí mật trong phương pháp này là một điều cực kì quan trọng, vì nó quyết định đến kết quả của việc quan sát. + Trong quá trình quan sát cần phải đưa ra những lý do có tính tự nhiên, thuyết phục để không gây nên sự nghi vấn nào của người được quan sát đối với quan sát viên. 12

5. Quan sát ngẫu nhiên và quan sát hệ thống 5.1 Quan sát ngẫu nhiên a. Khái niệm Là loại quan sát được thực hiện đúng một lần trên cùng một khách thể và cùng một đối tượng nghiên cứu. b. Ưu điểm + Chỉ phải quan sát một lần nên không tốn nhiều thời gian, chi phí. c.Nhược điểm : + Vì chỉ quan sát được một lần nên tính xác thực không cao. 5.2 Quan sát hệ thống a. Khái niệm Là dạng quan sát được thực hiện lặp lại trên cùng một khách thể và về cùng vấn đề nghiên cứu. Ví dụ : Quan sát về mức độ hành nghề của gái mại dâm qua từng giai đoạn nhất định. Ở đây khách thể được quan sát chính là những cô gái hành nghề mại dâm, vấn đề nghiên cứu là mức độ hành nghề của các cô gái.

b. Ưu điểm + Tạo ra khả năng nhận thức về vấn đề nghiên cứu tốt hơn hẳn, bởi vì nó xóa bỏ đi được hoặc ít nhất cũng làm giảm đi khả năng để tuyệt đối hóa sự thể hiện không bản chất ngẫu nhiên của đối tượng được quan sát.

13

+ Ở đây cá nhân được quan sát có thể có sự thể hiện đa dạng của nó, mà trong đó nhấn mạnh được cái chung, cái đặc trưng và cái ổn định. + Quan sát nhiều lần có thể thực hiện hàng ngày. c. Nhược điểm : + Do phải quan sát nhiều lần nên cần một đội ngũ quan sát viên lớn, bởi vậy chi phí cho quan sát nhiều lần là khá lớn so với quan sát một lần. + Ngoài ra đôi khi quan sát nhiều lần bị quy định bởi chính sự tồn tại của các mùa vụ hoặc tính chu kỳ nào đó trong hoạt động của con người. III.

Các bước thực hiện quan sát trong nghiên cứu khoa học Để thực hiện được thông tin cần thiết đáp ứng mục tiêu đề tài, mỗi

quan sát từ khâu chuẩn bị tới thực hiện có thể tiến hành theo các bước sau. * Bước thứ nhất : phải xác định được một cách sơ bộ khách thể của quan sát, cần chỉ ra những đặc trưng, các tình huống và những điều kiện hoạt động của đối tượng quan sát và những biến đổi của chúng. Cụ thể : + Cần phân chia khách thể quan sát thành những yếu tố theo những quy tắc logic nhất định, mà nhờ đó có thể tái tạo lại khách thể từ các yếu tố đó. + Phải tạo lập hệ thống phân loại những sự kiện, những hiện tượng hợp thành tình huống quan sát phù hợp với mục nghiên cứu. + Trước khi bắt đầu quan sát cần phải xác định rõ ràng đối tượng quan sát, nghĩa là cần phải trả lời chắc chắn câu hỏi: Quan sát ai? Quan sát cái gì?

14

+ Cần phải phân chia khách thể quan sát mà mỗi người đi quan sát chịu trách nhiệm. * Bước thứ hai: phải xác định được thời gian quan sát, địa điểm và thời

điểm để thực hiện quan sát, thời gian và cách thức tiếp cận với đối tượng. Tùy theo mục tiêu của từng đối tượng nghiên cứu, khả năng của nhà nghiên cứu cũng như đối tượng được quan sát xác định trong mẫu mà

ấn định thời gian, thời điểm quan sát cho phù hợp. Thời điểm quan sát vào ngày giờ nào và địa điểm quan sát ở đâu cũng cần phải xác định cụ thể để quan sát đạt hiệu quả cao nhất. Việc xác định đúng thời điểm quan sát và địa điểm thực hiện quan sát cũng có ý nghĩa nhất định với chất lượng thông tin thu được, vì hành vi của con người có thể được thực hiện theo từng cách khác nhau ở những thời điểm,

địa điểm khác nhau. Cần chọn được thời điểm và địa điểm thực hiện quan sát mà ở đó đối tượng được quan sát có những hành vi thể hiện được đầy đủ những đặc trưng, những khía cạnh, những giá trị phù hợp nhất với mục tiêu

nghiên cứu của đề tài. Xác định thời gian quan sát cũng cần căn cứ vào cách thức quan sát. Nếu là quan sát lặp thì khung thời gian cho quan sát cũng cần được chỉ ra xem đó là quan sát lặp lại đầy đặn theo chu kỳ thường xuyên hay đó là quan sát theo thời gian không đều đặn và chỉ gắn liền với những sự kiện đặc biệt nào đó. * Bước thứ ba: lựa chọn cách thức quan sát. Căn cứ vào nội dung quan sát được thể hiện trong chương trình nghiên cứu, căn cứ vào từng đối tượng quan sát cụ thể và từng loại quan sát mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp để thu thập thông tin. 15

Ghi chép công khai những người được quan sát 

Ghi chép theo hồi tưởng. 

Ghi chép vắn tắt theo kiểu theo “dấu vết nóng hổi” tùy theo điều kiện cụ thể cho phép ở mức độ nào. 

Ghi chép theo các phiếu dùng để ghi thông tin có quan hệ đến đối tượng được quan sát. 

Ghi theo biên bản như là một loại phiếu mở rộng (bảng hỏi). 

Ghi theo dạng nhật ký những kết quả quan sát một cách có hệ thống tất cả những thông tin cần thiết. 

Ghi bằng các phương tiện phim ảnh ghi âm..

* Bước thứ sáu: tiến hành kiểm tra.

Có thể có một số biện pháp kiểm tra việc quan sát như sau Trò chuyện, trao đổi với những người có trong tình huống quan sát, hay người là chủ thể của những hành vi được quan sát. 16

Bằng sự quan sát lại của những người quan sát khác có trình độ cao hơn 

Bằng hình thức quan sát lại.

CHƯƠNG II : NGUYÊN TẮC, KỸ THUẬT, ƯU ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM CHUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT I. NGUYÊN TẮC VÀ KỸ THUẬT QUAN SÁT: 1. Nguyên tắc quan sát: * Theo quan điểm của August Comte: 1. Quan sát phải có mục đích: nhằm định hướng cho hoạt động quan sát và nâng cao hiệu quả của hoạt động quan sát (thu thập thông tin có mục đích). 2. Quan sát phải gắn liền với lý thuyết trên cơ sở nắm bắt quy luật của các hiện tượng trong đời sống xã hội. 3.Quan sát không giáo điều, không lý thuyết suông. * Theo quan điểm của Durkheim: 1. Một sự kiện bình thường với một kiểu xã hội nhất định, được xem xét ở một giai đoạn nhất định trong sự phát triển của nó. Khi nó xảy ra trong một xã hội trung bình của các xã hội thuộc loại đó, được xét ở giai đoạn tương ứng của sự tiến hóa. 2.

Kiểm nghiệm các kết quả của phương pháp trên bằng cách cho

thấy tính chất chung của sự kiện xuất phát từ các điều kiện chung của đời sống tập thể trong kiểu xã hội được xem xét. Sự kiện ấy là cần thiết,

17

19

+ Quan sát còn được sử dụng như một phương pháp độc lập có kết quả trong nghiên cứu trường hợp, trong nghiên cứu điền dã. Đó là những nghiên cứu không đòi hỏi nhiều về tính đại diện của thông tin tổng thể + Trong các nghiên cứu phát hiện, thăm dò, khi tác giả nghiên cứu còn chưa hiểu rõ về các vấn đề, các khía cạnh của đối tượng nghiên cứu, thì quan sát kết hợp với nghiên cứu tài liệu, phân tích logic sẽ rất hiệu quả để chỉ ra được hệ các vấn đề, các khía cạnh của đối tượng nghiên cứu. + Ngoài ra phương pháp quan sát cũng thường được sử dụng trong các phương pháp nghiên cứu, mô tả nhằm kiểm tra các thông tin đã được thu thập bằng các phương pháp khác, hay để mô tả các đặc trưng, cấu trúc của đối tượng trong giai đoạn đầu của cuộc nghiên cứu, khi cần có những hiểu biết sơ bộ về đối tượng được nghiên cứu. III. 1.

Ưu điểm, nhược điểm chung của phương pháp quan sát

Ưu điểm của phương pháp quan sát:

* Ưu điểm lớn nhất của phương pháp quan sát trong nghiên cứu xã hội học là: Phương pháp này tạo ra những ấn tượng trực tiếp về các sự kiện, quá trình và hành vi xã hội. + Tính trực tiếp là một lợi thế mà các phương pháp khác ít có được. Trong quan sát, người quan sát cảm nhận trực tiếp những hành vi, những sự kiên và các quá trình. Thực tiễn xã hội cũng được thể hiện trong sự đa dạng với tính hiện thực trực tiếp của mình. + Quan sát cho phép ghi lại những biến đổi khác nhau của đối tượng được nghiên cứu vào lúc nó xuất hiện.

20

Phương Pháp Quan Sát Khoa Học

1. Phương pháp quan sát khoa học

1.1. Khái niệm

Quan sát với tư cách là PPnghiên cứu khoa học là một hoạt động có mục đích, có kế hoạch đợc tiến hành một cách có hệ thống. Đây là một trong những hình thức chủ yếu của nhận thức kinh nghiệm, để tạo ra thông tin ban đầu, nhờ nó mà sau này xây dựng lý thuyết và kiểm tra lý thuyết bằng thực nghiệm và như vậy nó là con đường để gắn nghiên cứu lý thuyết với nghiên cứu hoạt động thực tiễn.

Quan sát khoa học được tiến hành trong thời gian dài hay ngắn, không gian rộng hay hẹp, mẫu quan sát nhiều hay ít.

Quan sát sư phạm là phương pháp để thu thập thông tin về quá trình giáo dục và dạy học trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động sư phạm, cho ta những tài liệu sống và thực tiễn giáo dục để có thể khái quát rút ra những quy luật nhằm chỉ đạo quá trình tổ chức giáo dục thế hệ trẻ tốt hơn.

√ Quan sát trong nghiên cứu khoa học thực hiện ba chức năng:

Chức năng thu thập thông tin thực tiễn, đây là chức năng quan trọng nhất.

Chức năng kiểm chứng các lý thuyết, các giả thuyết đã có.

Chức năng so sánh đối chiếu các kết quả trong nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn.(Đối chiếu lý thuyết với thực tế)

√ Đặc điểm quan sát sư phạm:

Bất cứ quan sát nào cũng được tiến hành do một chủ thể sử dụng để nhận thức một đối tượng xác định, trong một thời gian, một không gian, với mục đích và bằng một phương tiện nhất định. Vì vậy, quan sát sư phạm có những sau đây:

Đối tượng quan sát là hoạt động sư phạm phức tạp của một cá nhân, hay một tập thể. Bản thân cá nhân hay tập thể đó lại có những đặc điểm đa dạng về năng lực hay trình độ phát triển. Nội dung hoạt động sư phạm càng phức tạp, có những hình thức phong phú, thì quá trình quan sát càng khó khăn, càng phải công phu hơn.

Chủ thể quan sát là nhà khoa học hay cộng tác viên. Đã là con người thì đều mang tính riêng tư, đó là tính chủ quan. Chủ quan ở trình độ, kinh nghiệm, ở thế giới quan, ở cảm xúc tâm lí. Sự quan sát bao giờ cũng thông qua lăng kính chủ quan của “cái tôi” ngay cả khi sử dụng kĩ thuật hiện đại để quan sát. Mặt khác còn chi phối bởi quy luật ảo giác của cảm giác, tri giác trong hoạt động nhận thức.

Kết quả quan sát dù khách quan đến mấy vẫn phụ thuộc vào việc xử lý các thông tin của người nghiên cứu, do đó cần được lựa chọn theo các chuẩn nhất định, được xử lí bằng toán học hay theo một lí thuyết nhất định.

Để nhận được thông tin theo mục đích nghiên cứu cần phải lập một kế hoạch và chương trình quan sát tỉ mỉ.

1.2. Các công việc quan sát khoa học

1. Xác định đối tượng quan sát, mục đích quan sát.

Việc xác định mục đích rõ ràng sẽ làm cho người lập phiếu quan sát cũng như người đi quan sát tập trung hơn vào các nội dung quan sát. Nghĩa là cần trả lời câu hỏi: Quan sát để làm gì?

Ví d: Cùng một công việc là quan st sự học tập của một lớp học sinh. Nếu với mục đích là quan sát sự chú ý của học sinh trong lớp học thì các quan sát sẽ tập trung chủ yếu vào học sinh. Nhưng, nếu với mục đích là quan sát phương pháp dạy của thầy sao cho thu hút sự chú ý của học sinh thì các dữ liệu quan sát chủ yếu là ở người thầy, các dữ liệu của học sinh (ánh mắt, nét mặt…) là để chứng minh cho việc ghi chép hoạt động của thầy nhằm thu hút sự chú ý của học sinh.

2. Xác định nội dung quan sát và phương pháp quan sát

Câu trả lời tiếp câu hỏi: quan sát cái gì, quan sát như thế nào và bằng cái gì. Nếu mục đích quan sát rõ ràng thì nội dung quan sát sẽ dễ dàng được ấn định. Nội dung quan sát thể hiện qua việc lựa chọn đối tượng quan sát (mẫu quan sát), số lượng mẫu, định thời điểm quan sát và độ dài thời gian quan sát. Căn cứ vào qui mô của đề tài và độ phức tạp của mẫu mà quyết định phương pháp, phương tiện quan sát.

3. Lập phiếu quan sát và kế hoạch quan sát

Phần thủ tục: Ðối tượng, địa chỉ, ngày giờ quan sát, người quan sát.

Phần nội dung: Ðây là phần quan trọng nhất của phương pháp, nó quyết định sự thành công của đề tài nghiên cứu. Có thể gọi đây là phần yêu cầu ghi chép, thu hình cụ thể khi đi làm việc. Vì vậy các yêu cầu phải thật cụ thể, sao cho người đi quan sát có thể đo, đếm, ghi được bằng số bằng chữ có hoặc không (không mang tính chất nhận định cá nhân).Ví dụ:+ Bao nhiêu học sinh phát biểu ý kiến?+Thầy có thực hiện bước mở bài không? v.v…Tránh những câu hỏi không đếm được, ví dụ:+Học sinh có chú ý nghe giảng không?+Thầy giảng có nhiệt tình không?

4. Tiến hành quan sát

Trước khi tiến hành quan sát, chủ nhiệm đề tài cần tập huấn cho các thành v về cách quan sát và ghi chép. Ghi chép kết quả quan sát, có thể bằng các cách:

Ghi nhật kí, theo thời gian, không gian, điều kiện và diễn biến của sự kiện.

Ghi âm, chụp ảnh, quay phim các sự kiện.

Sau khi quan sát xong cân phải kiểm tra lại kết quả quan sát bằng nhiều cách:

Trò chuyện vơí những người tham gia tình huống.

Quan sát lặp lại lần thứ hai nhiều lần nếu thấy cần thiết.

Sử dụng người có trình độ cao hơn quan sát lại để kiểm nghiệm lại kết quả.

Quan sát là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng giáo dục. Quan sát có thể tiến hành trong điều kiện tự nhiên với hoàn cảnh đang có thường ngày. Quan sát có thể thực hiện bằng cách tạo ra các tình huống khác thường, trong các hoạt động được tổ chức có định hướng, qua đó đối tượng tự bộc lộ bản chất rõ ràng hơn.

Tập hợp các phiếu quan sát, sắp xếp số liệu mã hóa, phân tích để đi đến một nhận định khoa học. (phần này được trình bày rõ ở phần phương pháp xử lý thông tin) Tóm lại phương pháp quan sát đối tượng giáo dục giúp ta có được những thông tin thực tiễn có giá trị. Quan sát cần được chuẩn bị cẩn thận, các tài liệu cần được xử lí khách quan.

1. Quan sát sân trường để đánh giá chủ trương của nhà trường và ý thức của học sinh về vệ sinh môi trường giáo dục.

2. Quan sát thầy (cô) giảng trong một tiết học để nhận xét các cách mà thầy (cô) thể hiện nhằm tập trung sự chú ý của học sinh vào bài học.

3. Quan sát một lớp học để có nhận xét về bầu không khí học tập của lớp ấy.

4. Quan sát để đánh giá sơ bộ chất lượng một buổi tự học của bạn mình (hoặc em mình, anh mình) ở kí túc xá (hoặc ở nhà).

5. Quan sát một buổi học của sinh viên một lớp học nào đó (hoặc lớp mình) để sơ bộ đánh giá kỉ cương học tập của lớp.

6. Quan sát việc học tập của sinh viên tại phòng đọc của thư viện để nhận xét về thư viện, về tình hình sinh viên sử dụng thư viện.

Chú ý: Cần tập trung vào nội dung của phiếu quan sát (tức là yêu cầu người quan sát ghi cái gì). Mỗi đề tài quan sát với mục đích trên, viết ít nhất bốn yêu cầu dưới dạng câu hỏi.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

Tác phẩm: Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007

Tác giả: Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Tiểu Luận Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Và Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Khoa Học

Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đã góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên sôi nổi hơn và cấp thiết hơn trên phạm vi toàn cầu. Việc càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ con người ngày càng có nhiều khả năng hơn để nhận thức thế giới khách quan. Khoa học và công nghệ đã trở thành động lực thúc đẩy sự tiến bộ nhân loại. Cùng với nghiên cứu khoa học hiện đại, càng ngày phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học càng được chú ý đến và nó còn được coi là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển khoa học.

Phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học MỤC LỤC Lời nói đầu 2 I. Phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học 3 1. Phương pháp nghiên cứu khoa học 3 a. Khái niệm 3 b. Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học 4 2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học 6 3. Phân loại phương pháp 7 a. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm 7 b. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 9 II. Một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể 10 1. Phương pháp phân tích và tổng hợp 10 2. Phương pháp quy nạp và diễn giải 12 3. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc 13 a. Phương pháp lịch sử 13 b. Phương pháp lôgíc 15 c. Tính thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc 17 Kế luận 19 Tài liệu tham khảo 20 LỜI NÓI ĐẦU Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà mọi thành tựu khoa học và công nghệ đều xuất hiện một cách hết sức mau lẹ và cũng được đổi mới một cách cực kỳ nhanh chóng. Ngày nay nghiên cứu khoa học là một trong những hoạt động có tốc độ phát triển nhanh nhất thời đại. Bộ máy nghiên cứu khoa học đã trở thành khổng lồ, nó đang nghiên cứu tất cả các góc cạnh của thế giới. Các thành tựu nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của cuộc sống. Khoa học đã làm đảo lộn nhiều quan niệm truyền thống, nó làm cho sức sản xuất xã hội tăng lên hàng trăm lần so với vài thập niên gần đây. Về phần mình, bản thân khoa học càng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt, phải tổng kết thực tiễn nghiên cứu khoa học để khái quát những lý thuyết về quá trình sáng tạo khoa học; mặt khác, phải tìm ra được các biện pháp tổ chức, quản lý và nghiên cứu khoa học tốt hơn làm cho bộ máy khoa học vốn đã mạnh, lại phát triển mạnh hơn và đi đúng quỹ đạo hơn. Có lẽ không phải ngẫu nhiên, nhà tương lai học Thierry Gaudin đã đưa ra một thông điệp khẩn thiết: “ Hãy học phương pháp chứ đừng học dữ liệu!”. Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu biết về phương pháp nhận thức thế giới. Chính vì vậy mà phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học đã gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.Và cũng chính vì vậy mà hiện nay việc nghiên cứu phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên cần thiết nhằm giúp cho công tác nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả hơn, phát triển mạnh mẽ hơn. Đó cũng chính là vấn đề tôi xin được trình bày trong bài viết này: “Phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học.” I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Phương pháp nghiên cứu khoa học a. Khái niệm Trước hết để hiểu được thế nào là phương pháp nghiên cứu khoa học, các khái niệm, các đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học, chúng ta cần phải hiểu được khái niệm khoa học là gì? Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp, tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận ta có thể phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. ở mức độ chung nhất, khoa học được hiểu như sau: Khoa học là hệ thống tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn và được chứng minh, khẳng định bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi quá trình nghiên cứu khoa học.Phương pháp là công cụ, giải pháp, cách thức, thủ pháp, con đường, bí quyết, quy trình công nghệ để chúng ta thực hiện công việc nghiên cứu khoa học. Bản chất của nghiên cứu khoa học là từ những hiện tượng chúng ta cảm nhận được để tìm ra các quy luật của các hiện tượng đó. Nhưng bản chất bao giờ cũng nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng, vì vậy để nhận ra được bản chất nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng và nhận ra được quy luật vận động của chúng đòi hỏi chúng ta phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Như vậy phương pháp chính là sản phẩm của sự nhận thức đúng quy luật của đối tượng nghiên cứu. Đến lượt mình, phương pháp là công cụ có hiệu quả để tiếp tục nhận thức sâu hơn và cải tạo tốt hơn đối tượng đó. Trong thực tế cuộc sống của chúng ta người thành công là người biết sử dụng phương pháp. Như vậy, bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu chính là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo. b. Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các đối tượng cụ thể, ở đây có hai điều chú ý là: chủ thể và đối tượng. ãPhương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng. ãPhương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như vậy phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc, Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới. Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn phương pháp chính xác, phù hợp sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn, và đôi khi vượt qua cả yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu. Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ thống phương pháp đặc trưng. Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay không lôgíc tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức. Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, nhiều khi còn cần phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao. 2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho nên thường mang màu sắc triết học, tuy nhiên nó không đồng nhất với triết học( như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới. Phương pháp luận được chia thành phương pháp bộ môn – lý luận về phương pháp được sử dụng trong một bộ môn khoa học và phương pháp luận chung cho các khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho hoạt động nghiên cứu khoa học là triết học. Triết học Mác-Lênin là phương pháp luận đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới. Những phương pháp nghiên cứu khoa học riêng gắn liền với từng bộ môn khoa học( toán học, vật lý học, sinh vật học, kinh tế học v.v…). Do vậy những phương pháp riêng này sẽ được làm sáng tỏ khi nghiên cứu những môn học tương ứng. Dựa trên những đặc điểm cơ bản của phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, chúng ta đi vào việc phân loại các phương pháp. 3. Phân loại phương pháp Căn cứ vào mức độ cụ thể của phương pháp, các phương pháp nghiên cứu chung trước hết được phân chia thành hai loại: Các phương pháp tổng quát và các phương pháp nghiên cứu cụ thể. Có nhiều phương pháp nghiên cứu tổng quát ( khái quát, trừu tượng) khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm của quá trình tư duy, phương pháp tổng quát được chia thành các phương pháp như : phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, lôgic-lịch sử, hệ thống-cấu trúc… Nếu căn cứ vào cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu, sự khác nhau của những lao động cụ thể trong nghiên cứu khoa học, phương pháp tổng quát được chia thành loại phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và loại phương pháp nghiên cứu lý thuyết. a. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm Loại phương pháp này bao gồm các phương pháp quan sát, thí nghiệm thực nghiệm. Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó nhờ khả năng thụ cảm của các giác quan, khả năng phân tích tổng hợp, khái quát trìu tượng hoá. Thực nghiệm, thí nghiệm là việc người nghiên cứu khoa học sử dụng các phương tiện vật chất tác động lên đối tượng nghiên cứu nhằm kiểm chứng các giả thiết, lý thuyết khoa học, chính xác hoá, bổ sung chỉnh lý các phỏng đoán giả thiết ban đầu tức là để xây dựng các giả thiết, lý thuyết khoa học mới. Thí nghiệm, thực nghiệm bao giờ cũng được tiến hành theo sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học nào đấy. Như vậy để tiến hành thí nghiệm, thực nghiệm phải có tri thức khoa học và điều kiện vật chất. Phương pháp thực nghiệm được áp dụng khá phổ biến trong các ngành khoa học tự nhiên kỹ thuật-công nghệ- là những ngành khoa học có khả năng định lượng chính xác. Trong những lĩnh vực này, sự phát triển của khoa học kỹ thuật còn cho phép tạo ra những môi trường nhân tạo, khác với môi trường bình thường để nghiên cứu sự vận động biến đổi của đối tượng. Các ngành khoa học xã hội là lĩnh vực khó có khả năng tiến hành các thí nghiệm khoa học, áp dụng phương pháp thử nghiệm. Song thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Mọi khái quát, trìu tượng, mọi lý thuyết nếu không được thực tiễn chấp nhận đều không có chỗ đứng trong khoa học. Ở đây quan sát, tổng kết thực tiễn người nghiên cứu khoa học có khả năng nhận thức nhanh hơn con đường do lịch sử tự vạch ra. Trong những phạm vi nhất định, người ta cũng có thể tiến hành các thí nghiệm xã hội học. Ở đây cần lưu ý rằng tính toán xã hội của khoa học xã hội đòi hỏi những phương tiện, điều kiện vật chất, môi trường thử nghiệm phải là những điều kiện phổ biến ( đã có trong toàn xã hội, hoặc chắc chắn được tạo ra trong toàn xã hội). Trong phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, nhiều trường hợp người ta còn sử dung phương pháp mô hình hoá mà đối tượng nghiên cứu không cho phép quan sát thực nghiệm trực tiếp. Cơ sở để áp dụng phương pháp mô hình hoá là sự giống nhau về các đặc điểm, chức năng, tính chất đã được xác lập vững chắc giữa các sự vật hiện tượng, quá trình xảy ra trong tự nhiên xã hội, tư duy. Dựa trên cơ sở này, từ những kết quả nghiên cứu đối với mô hình người ta rút ra những kết luận khoa học về đối tượng cần nghiên cứu. Trong nghiên cứu thực nghiệm người ta cũng còn vận dụng cả các phương pháp phân tích tổng hợp, quy nạp-diễn giải và lôgíc-lịch sử. b. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Loại phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm các phương pháp khái quát, trìu tượng hoá, diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, v.v… Loại phương pháp lý thuyết được dùng cho tất cả các ngành khoa học. Khác với nghiên cứu thực nghiệm phải sử dụng các yếu tố, điều kiện vật chất tác động vào đối tượng nghiên cứu, trong nghiên cứu lý thuyết quá trình tìm kiếm phát hiện diễn ra thông qua tư duy trìu tượng, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, chữ viết, v.v…Do vậy loại phương pháp này giữ một vị trí rất cơ bản trong nghiên cứu khoa học xã hội- nhân văn. Điểm xuất phát của nghiên cứu thực nghiệm là quan sát thực tiễn, quan sát sự vận động của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu lý thuyết, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu là tri thức lý luận( các quan điểm, các lý thuyết). Do vậy việc nắm vững hệ thống lý luận nền tảng đóng vai trò rất quyết định trong loại phương pháp này. Nắm vững lý thuyết nền là cơ sở hình thành định hướng trong nghiên cứu hình thành các trường phái khoa học. Học thuyết Mác-Lênin là hệ thống lý luận nền tảng đối với toàn bộ khoa học xã hội ở nước ta. Người nghiên cứu khoa học xã hội do vậy phải được trang bị vững chắc lý luận Mác-Lênin là cơ sở cho toàn bộ quá trình sáng tạo phát triển tiếp theo. Tri thức khoa học là tri thức chung, tài sản chung của nhân loại. Bất cứ lý thuyết nào nếu được thực tiễn chấp nhận, đều có hạt nhân khoa học, hợp lý của nó. Bên cạnh việc nắm vững học thuyết Mác-Lênin làm điểm xuất phát, nền tảng, người nghiên cứu khoa học xã hội ở ta còn phải tiếp thu được các lý luận, học thuyết khác. Tiếp thu các lý luận, học thuyết khác vừa để tiếp thu được những khía cạnh hợp lý, khoa học, tức là những tinh hoa trong kho tàng tri thức nhân loại, giúp cho mình tiếp tục phát triển lý luận Mác-Lênin, vừa để nhìn thấy những khiếm khuyết bất cập của các lý luận ấy, góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin. Cần lưu ý rằng nếu không nắm vững lý luận nền tảng là học thuyết Mác-Lênin, người nghiên cứu khoa học rất khó khăn trong việc tìm ra cái đúng, cái sai của các lý luận khác. Đó là một nguyên nhân gây ra tình trạng rối loạn trong lĩnh vực tư tưởng lý luận khi chuyển sang kinh tế thị trường mở cửa ở nước ta hiện nay. Nếu như các quy luật tự nhiên tồn tại một cách lâu dài, thì các quy luật xã hội tồn tại, vận động trên những điều kiện xã hội nhất định. Thoát ly tính lịch sử cụ thể luôn là một nguy cơ dẫn phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học xã hội rơi vào tình trạng duy tâm, siêu hình, bám giữ lấy những nguyên lý, công thức lỗi thời lạc hậu trở thành giáo điều kinh viện, kìm hãm khoa học. Trong phương pháp lý thuyết do đặc tính của quá trình sáng tạo khoa học diễn ra thông qua tư duy trìu tượng, suy luận, khái quát hoá, lại không được thực tiễn kiểm chứng ngay, mà phải trải qua một thời gian khá dài đúng sai mới sáng tỏ. Điều đó dễ dẫn người làm khoa học phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí, tự biện. Coi trọng phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học xã hội, người làm khoa học cần chú ý kết hợp phương pháp này với phương pháp quan sát, tổng kết thực tiễn.Sự kết hợp này là yếu tố bổ sung, giúp người nghiên cứu khoa học tránh được những hạn chế do phương pháp lý thuyết đưa lại. II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỤ THỂ 1. Phương pháp phân tích và tổng hợp Phân tích trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy. Khi chúng ta đứng trước một đối tượng nghiên cứu, chúng ta cảm giác được nhiều hiện tượng đan xen nhau, chồng chéo nhau làm lu mờ bản chất của nó.Vậy muốn hiểu được bản chất của một đối tượng nghiên cứu chúng ta cần phải phân chia nó theo cấp bậc. Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra được cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Khi phân chia đối tượng nghiên cứu cần phải: + Xác định tiêu thức để phân chia. + Chọn điểm xuất phát để nghiên cứu. + Xuất phát từ mục đích nghiên cứu để tìm thuộc tính riêng và chung. Bước tiếp theo của phân tích là tổng hợp. Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu, và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể( có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trìu tượng, khái quát nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau. Với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật do tính chính xác quy định, mặt phân tích định lượng có vai trò khá quyết định kết quả nghiên cứu. Quá trình tổng hợp, định tính ở đây hoặc giả là những phán đoán, dự báo thiên tai, chỉ đạo cả quá trình nghiên cứu, hoặc giả là những kết luận rút ra từ phân tích định lượng.Trong các ngành khoa học xã hội- nhân văn, sự hạn chế độ chính xác trong phân tích định lượng làm cho kết quả nghiên cứu lệ thuộc rất nhiều vào tổng hợp, định tính. Song chính đặc điểm này dễ làm cho kết quả nghiên cứu bị sai lệch do những sai lầm chủ quan duy ý chí. 2. Phương pháp quy nạp và diễn giải Phương pháp quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc, độc lập ngẫu nhiên rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó. Từ những kinh nghiệm, hiểu biết các sự vật riêng lẻ người ta tổng kết quy nạp thành những nguyên lý chung. Cơ sở khách quan của phương pháp quy nạp là sự lặp lại của một số hiện tượng này hay hiện tượng khác do chỗ cái chung tồn tại, biểu hiện thông qua cái riêng. Nếu như phương pháp phân tích-tổng hợp đi tìm mối quan hệ giữa hình thức và nội dung thì phương pháp quy nạp đi sâu vào mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Một hiện tượng bộc lộ nhiều bản chất. Nhiệm vụ của khoa học là thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, cuối cùng đưa ra giải pháp. Phương pháp quy nạp đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện ra các quy luật, rút ra từ những kết luận tổng quát đưa ra các giả thuyết. Trong nghiên cứu khoa học, người ta còn có thể xuất phát từ những giả thuyết hay từ những nguyên lý chung để đi sâu nghiên cứu những hiện tượng cụ thể nhờ vậy mà có nhận thức sâu sắc hơn từng đối tượng nghiên cứu. Phương pháp diễn giải ngược lại với phương pháp quy nạp. Đó là phương pháp đi từ cái bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận để tìm ra các hiện tượng, các biểu hiện, cái trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng. Phương pháp diễn giải nhờ vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong những bộ môn khoa học thiên về nghiên cứu lý thuyết, ở đây người ta đưa ra những tiền đề, giả thuyết, và bằng những suy diễn lôgic để rút ra những kết luận, định lý, công thức. Quy nạp và diễn giải là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều ngược nhau song liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ có những kết quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển theo phương pháp diễn giải. Phương pháp diễn giải, do vậy mở rộng giá trị của những kết luận quy nạp vào việc nghiên cứu đối tượng. 3. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai mặt biểu hiện của phương pháp biện chứng mácxít . Tính thống nhất và tính khác biệt của nó cũng bắt nguồn từ tính thống nhất và tính khác biệt của hai phạm trù lịch sử và lôgíc. a. Phương pháp lịch sử Các đối tượng nghiên cứu( sự vật, hiện tượng) đều luôn biến đổi, phát triển theo những hoàn cảnh cụ thể của nó, tạo thành lịch sử liên tục được biểu hiện ra trong sự đa dạng, phức tạp, nhiều hình nhiều vẻ có cả tất nhiên và ngẫu nhiên. Phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu tả tái hiện hiện thực với sự hỗn độn, lộn xộn, bề ngoài của các yếu tố, sự kiện kế tiếp nhau, để nêu bật lên tính quy luật của sự phát triển. Hay nói cách khác,phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của đối tượng, để phát hiện ra bản chất và quy luật của đối tượng. Do đó phương pháp lịch sử có những đặc điểm sau: ¨ Nó phải đi sâu vào tính muôn màu muôn vẻ của lịch sử, tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt ở trong cái phổ biến. Và trên cơ sở nắm được những đặc thù cá biệt đó mà trình bày thể hiện cái phổ biến của lịch sử. Phương pháp lịch sử còn yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu cái không lặp lại bên cái lặp lại. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng không bao giờ diễn lại hoàn toàn như cũ. Phương pháp lịch sử phải chú ý tìm ra cái khác trước, cái không lặp lại để thấy những nét đặc thù lịch sử. Thí dụ, cũng là khởi nghĩa nông dân, nhưng khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu có khác khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám về đối tượng, quy mô và hình thức đấu tranh… Phương pháp lịch sử lại yêu cầu chúng ta phải theo dõi những bước quanh co, thụt lùi tạm thời…của phát triển lịch sử. Bởi vì lịch sử phát triển muôn màu muôn vẻ, có khi cái cũ chưa đi hẳn, cái mới đã nảy sinh. Hoặc khi cái mới đã chiếm ưu thế, nhưng cái cũ hãy còn có điều kiện và nhu cầu tồn tại trong một chừng mực nhất định. Phương pháp lịch sử phải đi sâu vào những uẩn khúc đó. Phương pháp lịch sử yêu cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch sử, đi sâu vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm lẫn về diện, hiểu từ cá nhân, sự kiện, hiện tượng đến toàn bộ xã hội. Chẳng hạn như nói về cách mạng Tháng Tám, nếu chỉ nêu lên những đặc điểm, quy luật và sự kiện điển hình thì chưa đủ để thấy được sắc thái đặc biệt của nó khác với các cuộc cách mạng khác. Tâm lý của quần chúng trước ngày khởi nghĩa, tình cảm đối với Đảng, với cách mạng, những hành vi biểu lộ tâm lý, tình cảm đó lại là những nét mà lịch sử phải chú ý để cho sự miêu tả được sinh động, tránh khô khan, công thức, gò bó. Phương pháp lịch sử phải chú ý những tên người, tên đất, không gian, thời gian, thời gian cụ thể, nhằm dựng lại quá trình lịch sử đúng như nó diễn biến. Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình, tức là có nguồn gốc phát sinh, có quá trình vận động phát triển và tiêu vong. Quy trình phát triển lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi, những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất định. Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối tượng nghiên cứu. Phương pháp lịch sử yêu cầu làm rõ quá trình phát triển cụ thể của đối tượng, phải nắm được sự vận động cụ thể trong toàn bộ tính phong phú của nó, phải bám sát sự vật, theo dõi những bước quanh co, những ngẫu nhiên của lịch sử, phát hiện sợi dây lịch sử của toàn bộ sự phát triển. Từ cái lịch sử chúng ta sẽ phát hiện ra cái quy luật phát triển của đối tượng.Tức là tìm ra cái lôgíc của lịch sử, đó chính là mục đích của mọi hoạt động nghiên cứu khoa học. b. Phương pháp lôgíc Nếu phương pháp lịch sử là nhằm diễn lại toàn bộ tiến trình của lịch sử thì phương pháp lôgíc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng. Do đó phương pháp lôgíc có những đặc điểm sau: Phương pháp lôgíc nhằm đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện tượng. Muốn vậy, nó phải đi vào nhiều hiện tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra bản chất của hiện tượng. Nếu phương pháp lịch sử đi sâu vào cả những bước đường quanh co, thụt lùi tạm thời của lịch sử, thì phương pháp lôgíc lại có thể bỏ qua những bước đường đó, mà chỉ nắm lấy bước phát triển tất yếu của nó, nắm lấy cái xương sống phát triển của nó, tức là nắm lấy quy luật của nó. Như Anghen đã nói: lôgíc không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là sự phản ánh đã được uốn nắn lại nhưng uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình lịch sử đem lại. Khác với phương pháp lịch sử là phải nắm lấy từng sự việc cụ thể, nắm lấy không gian, thời gian, tên người, tên đất…cụ thể, phương pháp lôgíc lại chỉ cần đi sâu nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai đoạn điển hình và nắm qua những phạm trù quy luật nhất định. Thí dụ, trong khi viết Tư bản luận, Mác có thể đi ngay vào giai đoạn phát triển điển hình cao nhất của lịch sử lúc đó là xã hội tư bản. Khi phát hiện ra được quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật thặng dư giá trị, tức là nắm được sâu sắc các giai đoạn điển hình, thì từ đó có thể dễ dàng tìm ra các quy luật phát triển của các xã hội trước tư bản chủ nghĩa, mà không nhất thiết phải đi từ giai đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người. Nhờ những đặc điểm đó mà phương pháp lôgíc có những khả năng riêng là: Phương pháp lôgíc giúp chúng ta nhìn nhận ra cái mới. Bởi vì, lôgíc là sự phản ánh của thế giới khách quan vào ý thức con người, mà thế giới khách quan thì không ngừng phát triển, cái mới luôn luôn nảy sinh. Do luôn luôn chú ý đến cái phổ biến, cái bản chất mà tư duy lôgíc dễ nhìn thấy những bước phát triển nhảy vọt và thấy cái mới đang nảy sinh và phát triển như thế nào. Đặc điểm của cái mới là nó khác về chất với cái cũ. Mặc dù là hình thức thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh. Do thấy được mầm mống của cái mới mà phương pháp lôgíc có thể giúp ta thấy được hướng đi của lịch sử,nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới. Phương pháp lôgíc còn có ưu điểm là giúp chúng ta tác động tích cực vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ đó nắm được những quy luật khách quan đó. Cụ thể hiện nay, một số xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã giúp công nhân có thể trở thành người vừa sản xuất, vừa làm chủ xí nghiệp, lại cải thiện nhanh chóng được đời sống. Nhà nước đã chủ động tác động tới quá trình đó, đưa lịch sử tiến lên. c. Tính thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc Trên thực tế công tác nghiên cứu theo phương pháp biện chứng mácxít, không bao giờ có phương pháp lịch sử hay phương pháp lôgíc thuần tuý tách rời nhau, mà là trong cái này có cái kia, hai cái thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giới hạn giữa chúng chỉ là tương đối. Cụ thể, phương pháp lịch sử tuy phải theo sát tiến trình phát triển của lịch sử của sự vật hiện tượng, diễn lại những bước quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm thời của quá trình phát triển hiện thực, nhưng không phải là miêu tả lịch sử đó một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, mà là miêu tả theo một sợi dây lôgíc nhất định của sự phát triển lịch sử; không phải miêu tả lịch sử một cách mù quáng, mà là phát triển một cách có quy luật. Cũng vậy, phương pháp lôgíc tuy không nói đến những chi tiết lịch sử, những bước đường quanh co, ngẫu nhiên của lịch sử đối tượng, nhưng không phải vì thế mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể của đối tượng. Phương pháp lôgíc là sự phản ánh cái chủ yếu được rút ra từ trong lịch sử sự vật, và làm cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử. Tóm lại, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc có tính thống nhất và cũng có mục đích thống nhất là cùng nhằm phơi bày rõ chân lý khách quan của sự phát triển lịch sử, nên trong công tác nghiên cứu, tổng kết khoa học, chúng ta không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào, vì thực ra chúng chỉ là hai mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện chứng mácxít mà thôi. Tuy vậy, trong công tác nghiên cứu chúng ta vẫn cần chú ý đến tính độc lập tương đối của hai phương pháp này như đã nói ở trên. KẾT LUẬN Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đã góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên sôi nổi hơn và cấp thiết hơn trên phạm vi toàn cầu. Việc càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ con người ngày càng có nhiều khả năng hơn để nhận thức thế giới khách quan. Khoa học và công nghệ đã trở thành động lực thúc đẩy sự tiến bộ nhân loại. Cùng với nghiên cứu khoa học hiện đại, càng ngày phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học càng được chú ý đến và nó còn được coi là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển khoa học. Chúng ta đã biết khoa học càng phát triển bao nhiêu thì phương pháp, cách thức nghiên cứu càng đa dạng phong phú bấy nhiêu. Càng có nhiều phương pháp càng tăng khả năng lựa chọn phương pháp của người nghiên cứu, càng làm cho việc lựa chọn phương pháp có ý nghĩa quan trọng hơn cả về mặt nhận thức khoa học lẫn hiệu quả kinh tế. Phương pháp nói chung đóng vai trò chủ đạo trong nghiên cứu khoa học công nghệ. Phương pháp cụ thể gắn với các môn, lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Chính sự phát triển của khoa học, kỹ thuật ngày càng nảy sinh nhiều phương pháp cụ thể khác nhau để nghiên cứu cùng một đối tượng. Do vậy sẽ là sai lầm nếu quá nhấn mạnh một phương pháp đặc thù, cụ thể nào đó trong nghiên cứu.Vì vậy chúng ta phải có một cái nhìn khách quan về các phương pháp nghiên cứu khoa học cũng như phải có một phương pháp luận đúng đắn, để từ đó biết áp dụng một cách khoa học và chính xác các phương pháp nghiên cứu khoa học vào mỗi đối tượng khác nhau và để phục vụ cho các mục tiêu nghiên cứu khác nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật,2003). Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Bộ môn khoa học luận, Đề cương bài giảng môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Phạm Viết Vượng, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục( Nhà xuất bản giáo dục, 1997). Văn Tạo, Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc( Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia- Viện Sử học, 1995).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

da282_0257_4613.doc

Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì? Các Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học

Bạn là sinh viên. Bạn rất đam mê nghiên cứu khoa học. Bạn muốn làm một đề tài nghiên cứu khoa học nhưng bạn chưa biết bắt đầu từ đâu! Bài viết này sẽ giúp bạn hình dung cách thức làm một đề tài nghiên cứu khoa học và 5 bước đơn giản để bạn thực hiện nghiên cứu một đề tài khoa học mà bạn thích.

Đầu tiên chúng ta nên cùng nhìn lại ở khái niệm khoa học là gì?

Từ “khoa học” xuất phát từ tiếng Latinh  “Scienta”, nghĩa là tri thức. Theo Webter’s New Collegiste Dictionary, “Khoa học” được định nghĩa là “những tri thức đạt được qua kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu”.

Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy qua những hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người và giữa các sự vật hiện tượng trong tự nhiên với nhau.

Tri thức khoa học là những tri thức được tích lũy qua hoạt động nghiên cứu khoa học qua kết quả của việc quan sát, thí nghiệm… các sự kiện, hoạt động sảy ra trong hoạt động xã hội và trong tự nhiên.

Khoa học nói một cách đơn giản bao gồm những tính toán và thử nghiệm các giả thuyết dựa trên những bằng chứng và thí nghiệm được quan sát là quan trọng và có thể ứng dụng.

Nghiên cứu khoa học là gì?

Nghiên cứu khoa học là hành động tìm hiểu, quan sát, thí nghiệm… dựa trên những số liệu, dữ liệu, tài liệu thu thập được để phát hiện ra bản chất, quy luật chung của sự vật, hiện tượng, tìm ra những kiến thức mới hoặc tìm ra những ứng dụng kỹ thuật mới, những mô hình mới có ý nghĩa thực tiễn.

Người muốn làm nghiên cứu khoa học phải có những kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu nhưng chủ yếu là phải rèn luyện cách làm việc tự lực và có phương pháp. Do đó, là sinh viên với những kiến thức hạn chế thực hiện nghiên cứu khoa học càng phải phát huy khả năng tự học để trau dồi những kiến thức cần thiết, đồng thời việc lựa chọn đề tài nên phù hợp với khả năng của mình.

5 bước để thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học

Nếu thực sự bạn có niềm đam mê nghiên cứu khoa học, bạn đừng ngần ngại mà hãy bắt tay ngay để thực hiện một công trình khoa học về bất cứ một vấn đề nào đó mà bạn thích! Nếu bạn chưa biết bắt đầu từ đâu, xin hãy làm theo 5 bước sau đây: 1. Tìm ý tưởng Bạn có thể tìm ý tưởng từ việc đọc sách, báo, Internet, nghe đài.. hoặc qua quan sát thực tế. Khi bạn phát hiện ra vấn đề, hẫy chọn cho mình một hướng nghiên cứu phù hợp. 2. Xác định hướng nghiên cứu 3. Chọn tên đề tài nghiên cứu khoa học Sau khi đã có trong tay nhiều tài liệu bạn hãy đặt cho mình tên của đề tài. Lưu ý, tên đề tài phải ngắn gọn và phải thể hiện được vấn đề bạn đang định nghiên cứu. tên đề tài phải thể hiện đầy đủ đối tượng, phạm vi, chủ thể, khách thể, thời gian, không gian nghiên cứu.

Bạn hãy thể hiện ý tưởng của mình thành một đè cương sơ khởi bao gồm những nội dung sau đây:

Đặt vấn đề

Mục đích nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu khoa học

Câu hỏi nghiên cứu

Các giả thuyết

Kết cấu đề tài

Nguồn số liệu, tài liệu tham khảo

5. Tham khảo ý kiến của giảng viên