Một vài kinh nghiệm từ nghiên cứu trường hợp lên đồng ở châu thổ Bắc Bộ
NGUYỄN NGỌC MAI – TS. Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Tóm tắt: Phỏng vấn sâu trong nghiên cứu nhân học là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có ngành nghiên cứu tôn giáo. Phương pháp này thích hợp nhất và hiệu quả nhất trong những nghiên cứu làm rõ bản chất của vấn đề, động cơ của hành động. Bài viết này chia sẻ một vài kinh nghiệm áp dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhân học trong nghiên cứu trường hợp lên đồng ở châu thổ Bắc Bộ.
Thuật ngữ phỏng vấn (Interview) đã được sử dụng khá rộng rãi cả trong cuộc sống và trong nghiên cứu khoa học. Theo cách hiểu thông thường, phỏng vấn là sự tiếp xúc trao đổi giữa chủ thể (người phỏng vấn) và khách thể (người được phỏng vấn, người trả lời). Tuy nhiên, phỏng vấn trong nghiên cứu nhân học khác với phỏng vấn trong báo chí hay phỏng vấn trao đổi giữa bác sĩ và người bệnh. Nó không thuần túy là những hỏi – đáp đơn thuần, mà nội dung phỏng vấn cần phải được chuẩn bị trước, phải tuân thủ theo mục tiêu nghiên cứu, theo đối tượng đã được ghi nhận trong chương trình nghiên cứu. Nhà nghiên cứu cần phải được chuẩn bị ở mức độ kỹ lưỡng về kỹ năng và chuyên môn, việc ghi chép cũng cần thực hiện có hệ thống theo chương trình được chuẩn bị từ trước để tạo điều kiện tốt nhất cho xử lý thông tin sau này. Nguồn thông tin trong phỏng vấn không chỉ đơn thuần là những câu trả lời phản ánh ý thức, quan điểm của khách thể, mà còn bao gồm cả các yếu tố khác như hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ thân thể của người trả lời mà người phỏng vấn quan sát được trong suốt quá trình tiếp xúc.
Tiêu chí thứ nhất: Họ phải là chủ điện tư và một số là quản lý điện công; là những người đã làm Đồng lâu năm, có tần suất lên đồng nhiều trong số các đệ tử của tín ngưỡng Tứ Phủ; có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết sâu về nghi lễ lên đồng.
Tiêu chí thứ 2: Họ phải đại diện cho hai địa phương là Hà Nội (nơi có tỷ lệ người lên đồng nhiều nhất) và Nam Định (cái nôi của nghi lễ lên đồng – với tư cách quê gốc của 2 vị thánh nổi tiếng linh thiêng là Thánh Trần và Thánh Mẫu).
Tiêu chí thứ 3: Họ phải đại diện cho hai hoàn cảnh: “trình” đồng từ thuở bé (do được cho là có căn đồng); trình đồng và trở thành Đồng Thầy khi đã lớn tuổi.
Tiêu chí thứ 4: Họ đại diện cho hai hình thức nghề nghiệp: nghềbuôn bán (được coi là gắn rất chặt với tín ngưỡng này) và nghề khác.
Tiêu chí thứ 5: Họ phải đại diện cho hai giới: Đồng nữ và Đồng nam. Nhóm 2: Đồng lính, con nhang đệ tử, cung văn, người làm mãĐối tượng này là thành viên chính thức của các bản hội nêu trên. Họ cũng là những người thường xuyên đến lễ bái hay tham dự nghi lễ, thậm chí trực tiếp tổ chức lên đồng tại điện thờ của Đồng Thầy.
Sau khi chọn được hai nhóm đối tượng chính, chúng tôi tập trung phỏng vấn sâu Đồng Thầy và các thành viên trong bản hội của họ.Việc đưa ra được những tiêu chí đúng sẽ giúp nhà nghiên cứu xác định khách thể nghiên cứu trên thực địa hoặc trong quá trình giao tiếp tại thực địa. Điều quan trọng nhất của công việc này là các thông tin thu về sẽ có tính đại diện và tính chính xác cao. Sau khi xác định được tiêu chí nghiên cứu trường hợp, nhà nghiên cứu mới bắt tay vào điền dã và thực hiện phỏng vấn nhân học. Trên thực tế, trong phỏng vấn sâu nhiều khi còn phát sinh những vấn đề mà nhà nghiên cứu chưa hình dung ra hết. Vì vậy, trước khi tiến hành phỏng vấn, nhà nghiên cứu cần phải tuân thủ một số yêu cầu về thiết bị, tâm lý, kỹ thuật ghi chép.
Yêu cầu về thiết bị: Chuẩn bị đầy đủ máy ghi âm, máy chụp ảnh, máy quay phim và các giấy tờ cần thiết khác.
Yêu cầu về công tác chuẩn bị: Trước khi xuống địa bàn, nhà nghiên cứu cần chuẩn bị các nội dung cần phỏng vấn. Những nội dung này phải đảm bảo bám sát mục tiêu nghiên cứu.
Yêu cầu về công việc ghi chép: Ghi chép trong phỏng vấn sâu phải hết sức nghiêm túc, càng chi tiết càng tốt. Có 3 loại ghi chép trong phỏng vấn sâu nhân học, gồm:
Ghi chép trước khi phỏng vấn: ghi chép về không gian, thời gian, bối cảnh, tình huống, thái độ của người trả lời trước khi xảy ra cuộc phỏng vấn.
Ghi chép trong khi phỏng vấn: ghi chép trung thành với cách sử dụng từ ngữ, hành vi của người trả lời, không ghi tóm tắt, không ghi theo cách hiểu chủ quan của người phỏng vấn; hạn chế tối đa việc cắt bớt hoặc ghi khái quát câu trả lời. Cách ghi chép này sẽ tránh được tình trạng thông tin bị dịch chuyển bởi ý đồ chủ quan của người được phỏng vấn. Trong trường hợp có máy ghi âm thì việc ghi tóm tắt có thể được chấp nhận, nhưng nhà nghiên cứu cũng cần lưu ý vì máy ghi âm chỉ ghi lại được tiếng nói, còn các cử chỉ, hành vi thì không thể, trong khi những ngôn ngữ này lại chiếm tới 75% thông tin(2). Vì vậy, người phỏng vấn phải ghi chép đầy đủ các cử chỉ, điệu bộ và cách thể hiện cảm xúc khi nói của người trả lời phỏng vấn để tiện cho việc phân tích thông tin sau này.
Trong phỏng vấn sâu, số lượng câu hỏi không nên nhiều, mà nên giới hạn câu hỏi với từng đối tượng cụ thể. Trong một số trường hợp có thể sử dụng câu hỏi chéo để kiểm tra độ chính xác của thông tin. Cụ thể, với vấn đề cách thức thực hiện nghi lễ lên đồng, chúng tôi chỉ tập trung hỏi các Đồng Thầy (Đồng cựu). Với các vấn đề như cảm giác khi lên đồng, số tiền phải chuẩn bị cho lễ trình đồng, các quy định sau khi nhập đồng…, chúng tôi lại phỏng vấn các Đồng lính (Đồng mới). Thông tin về các “giá đồng”, những “giá” hay giáng, những “giá” mới xuất hiện, chúng tôi vừa kiểm chứng qua các đồng, vừa phải phỏng vấn ở các cung văn (người hát phục vụ buổi lễ). Như vậy, cùng một hiện tượng nhưng người phỏng vấn phải ưu tiên vấn đề cụ thể với những trường hợp cụ thể để có thể lấy được nhiều thông tin có độ chính xác cao.
Trong phỏng vấn sâu nhân học thì độ chính xác của thông tin phụ thuộc vào mối quan hệ được thiết lập giữa người phỏng vấn và đối tượng được phỏng vấn. Thông tin chỉ chính xác khi khoảng cách giữa khách thể và chủ thể gần như không còn. Điều đó đặt ra yêu cầu người phỏng vấn phải lấy được lòng tin từ người được phỏng vấn. Người phỏng vấn phải tạo ra được sự đồng cảm, thâm nhập được vào cộng đồng đối tượng nghiên cứu. Muốn vậy, phương pháp câu chuyện cuộc đời (life story) là một trong những phương pháp hữu dụng nhất. Bên cạnh những kỹ thuật thâm nhập cộng đồng như sự đồng cảm, gây dựng niềm tin…, người nghiên cứu cũng phải tỏ ra khờ khạo về vấn đề đang nghiên cứu. Điều này giúp cho người được phỏng vấn trả lời thoải mái bộc bạch mà không cần giấu giếm thông tin.
Trong nghiên cứu nhân học, kỹ thuật quan sát tham dự và sự trải nghiệm đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Muốn thực hiện được mục tiêu đề ra bắt buộc nhà nghiên cứu phải thâm nhập và hòa đồng với cộng đồng khách thể nghiên cứu. Tiêu chí 3 cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng hoạt động) phải được thực hiện một cách triệt để. Khi đó nhà nghiên cứu sẽ có nhiều điều kiện để chứng kiến và trải nghiệm cuộc sống của khách thể nghiên cứu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu về tôn giáo, việc quan sát tham dự và trải nghiệm dễ khiến người nghiên cứu bị tác động bởi niềm tin tôn giáo của khách thể nghiên cứu do cơ chế lây lan (cơ chế lây lan tâm lý). Tình trạng này rất dễ khiến nhà nghiên cứu bị hút vào đời sống tôn giáo và nhìn nhận các hiện tượng theo cách nhìn của tín đồ tôn giáo mà quên mất vị trí khách quan khi phân tích thông tin. Để hạn chế được tình trạng này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải hết sức vững vàng, tỉnh táo và có những kỹ năng để tránh bị cuốn theo khách thể mà xa rời nhiệm vụ nghiên cứu.
CHÚ THÍCH
Xem Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Allan Pease (2001), Ngôn ngữ của cơ thể, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Khoa Nhân học (2008), Nhân học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Laurel Kendall tuyển chọn (2007), Những phương pháp tiếp cận nhân học về tôn giáo nghi lễ và ma thuật. Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa kỳ – Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Allan Pease (2001), Ngôn ngữ của cơ thể, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Paul Thompson (1988), The Voice of the past Oral History, Oxford University, New York.
IN – DEPTH INTERVIEW METHODS OF ANTHROPOLOGICAL RESEARCH (Some experiences from Lên đồng case study in the Vietnam Northern Delta)
The in – depth interview of anthropological research is one important study methods of social sciences and humanities, including religious study. Especially it has clarified the nature of the matter, as well as the purpose of action. This article shares some experiences that using in – depth interview methods of anthropology for Lên đồng case study in the Vietnam Northern Delta. Key words: in – depth interview methods, Anthropology, Lên đồng, the Vietnam Northern Delta.