Phương Pháp Dưỡng Sinh Bác Sĩ Nguyễn Văn Hưởng / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Phương Pháp Dưỡng Sinh Bs Nguyễn Văn Hưởng

1.ĐẠI CƯƠNG: Từ ngàn xưa, sách Nội kinh Trung quốc đã nêu ra những nguyên lý dưỡng sinh để giữ gìn sức khỏe sống lâu; ở Ấn độ có phương pháp tập luyện Yoga nổi tiếng thế giới để tăng cường sức khỏe và tuổi thọ; Tuệ Tĩnh, Lãn Ông – các danh y cổ truyền Việt nam – cũng đã viết sách hướng dẫn dưỡng sinh để bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh.

BS Nguyễn Văn Hưởng – nguyên bộ trưởng y tế vào những năm 1970 – bị tai biến mạch máu não trong lúc đang công tác; nhờ kết hợp các phương pháp tập luyện cổ truyền và hiện đại với dùng thuốc, bác sĩ đã phục hồi coi như hoàn toàn; sau đó, ông tiếp tục nghiên cứu ứng dụng trên hàng chục ngàn người cao tuổi, người bệnh mạn tính liên tục suốt hơn 20 năm; bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đã xây dựng khởi đầu phương pháp dưỡng sinh, Phương pháp dưỡng sinh Nguyễn Văn Hưởng được Bộ y tế cho phép giảng ở các trường đại học, trung học y tế, và đang được nhiều giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ, nhân dân tiếp tục nghiên cứu phát triển.

2. VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH BỆNH TẬT VÀ CHỐNG BỆNH TẬT CỦA TÁC GIẢ – BS NGUYỄN-VĂN-HƯỞNG.

BS Nguyễn-Văn Hưởng sanh năm 1906, bị tai biến mạch máu não vào năm 64 tuổi, đang lúc là bộ trưởng bộ y tế; ông đã bị á khẩu, liệt nửa người. Phối hợp với thuốc, bác sĩ đã tự luyện tập để phục hồi, và xây dựng phương pháp dưỡng sinh; năm 1986 ông được phong Anh hùng lao động. Năm 1995 đã tái bản sách phương pháp dưỡng sinh lần thứ 8. Tháng 9 năm 1996 được trao giải thưởng Hồ chí Minh cao quí. Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng mất ngày 06 tháng 8 năm 1998.

Bác sĩ đã để lại cho hậu thế một phương pháp dưỡng sinh được nhiều nhà nghiên cứu coi là hoàn chỉnh; Phương pháp đã đề cập từ vấn đề tập luyện để khí huyết lưu thông, đến cách ăn uống cho hợp lý, đến thái độ tâm thần trong cuộc sống, đến vệ sinh, nghỉ ngơi … thể hiện được sự kết hợp khéo léo, nhuần nhuyễn y học cổ truyền và y học hiện đại; đã kế thừa những tinh hoa phương pháp tập luyện của nước bạn, của người xưa, đồng thời kết hợp với những kiến thức y học hiện đại; xây dựng thành công một PPDS mang tính khoa học, dân tộc và đại chúng.

3. VÀI PHƯƠNG PHÁP TẬP LUYỆN ĐỂ BẢO VỆ SỨC KHỎE VÀ CHỐNG BỆNH TẬT TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC.

Vài phương pháp tập luyện để bảo vệ sức khỏe và chống bệnh tật nổi tiếng trên thế giới như Yoga ở Ấn độ; Khí công, Thái cực quyền ở Trung quốc; Thể dục thể thao, điền kinh, aerobic của Châu âu, Châu Mỹ; các môn võ thuật Judo, Aikido,… Trong nước cũng có các môn trên du nhập từ lâu; ở nước ta, cách đây hàng trăm năm đã có những nhà dưỡng sinh tiền phong như Tuệ Tĩnh, Hải thượng Lãn Ong; và hiện nay đã xuất hiện nhiều nhà dưỡng sinh cả nước biết đến như BS Nguyễn Khắc Viện, GS Tô Như Khuê, GS Ngô Gia Hy, GS Đỗ Đình Hồ.

4. ĐỊNH NGHĨA SỨC KHỎE.

Tháng 9 năm 1978, tại Alma Ata, thủ đô của nước Cadắcstan, Tổ chức y tế thế giới (OMS) với sự tham gia của 134 nước, 67 tổ chức quốc tế, đã thông qua định nghĩa: Sức khỏe là tình trạng sảng khoái toàn diện, về thể xác, tinh thần và xã hội; không chỉ là không có bệnh và tật.

5. ĐỊNH NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA PPDS.

Phương pháp dưỡng sinh là một phương pháp tự luyện tập gồm có 4 mục đích:

-Bồi dưỡng sức khỏe.

-Từng bước chữa bệnh mạn tính.

-Tiến tới sống lâu và sống có ích.

Bốn mục đích này quan hệ hữu cơ với nhau.

Sức khỏe được tăng lên thì phòng bệnh tốt hơn.

Ít bị thêm bệnh nữa, mà sức lại tăng lên, đồng thời có phối hợp với thuốc khi cần thiết thì bệnh mạn tính từng bước sẽ được đẩy lùi;

Từ đó có nhiều khả năng sống lâu, sống có ích hơn.

6. BỐ TRÍ LỰC LƯỢNG TRONG VIỆC CHỐNG BỆNH MẠN TÍNH.

Bệnh mạn tính là những bệnh khó chữa khỏi; Ngưng thuốc thì bệnh sẽ tái phát và ngày càng nặng hơn; thí dụ như cao huyết áp, viêm đa khớp, hội chứng dạ dày tá tràng, suyễn, tiểu đường, …

7. GIẢI THÍCH CÂU THƠ CỦA TUỆ-TĨNH, NỘI DUNG CỦA PPDS:

Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần

Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.

Tinh có hai nghĩa; nghĩa thứ nhất là tinh hoa của thức ăn; y học cổ truyền gọi là tinh hậu thiên do thức ăn cung cấp qua tỳ vị.

Nghĩa thứ hai là tinh sinh dục, tinh tiên thiên do cha mẹ truyền cho, tàng trữ ở thận, và không ngừng được bổ sung bởi tinh hậu thiên.

Bế tinh theo nghĩa đen có nghĩa là đóng lại, không cho xuất tinh. Điều này chỉ áp dụng cho một số nhà tu hành thoát tục.

Ta nên hiểu là giữ gìn tinh sinh dục; tránh phóng túng, lạm dụng.

Khí là nguồn gốc, là động lực của mọi hoạt động của cơ thể.

Khí có hai nguồn gốc: Khí trời (trong đó có dưỡng khí) qua tạng Phế vào cơ thể kết hợp với tinh hoa của thức ăn ở Tỳ Vị để thành Khí hậu thiên, từ đó lưu thông đến các tạng phủ khác và là động lực để các tạng phủ hoạt động; Khí tiên thiên do cha mẹ truyền cho, tàng tại Thận, và không ngừng được bổ sung bởi khí hậu thiên.

Dưỡng khí là luyện thở, và hít thở khí trong sạch; cũng còn có nghĩa là khéo léo gìn giữ và bồi dưỡng khí lực của mình.

Thần do Tinh của cha và mẹ phối hợp, tác động qua lại với nhau mà thành.

Thần là hình thức năng lượng cao cấp mà các động vật cũng có, nhưng mức cao nhất chỉ có ở con người, do bộ thần kinh tạo ra. Nhờ nó mà con người biết tư duy, có ý chí, có tình cảm, có khoa học và nghệ thuật..

Theo y học cổ truyền Tâm là cơ quan quân chủ, thần minh từ đó mà sinh ra. Tâm tàng thần.

Năm tạng sáu phủ, tâm đứng làm chủ, quân chủ có minh (huyết mạch chạy đều) thời mười hai cơ quan đều điều hòa không rối loạn…, theo lẽ đó dưỡng sinh thời lo gì không sống lâu.

Tinh-Khí-Thần là biểu hiện quá trình chuyển hóa vật chất (tinh thức ăn, huyết, tinh sinh dục) thành năng lượng (khí) mà hình thức cao nhất là thần, thần trở lại điều khiển khí và tinh, toàn bộ cơ thể.

Khí lực cũng giúp thức ăn được tiêu hóa biến thành tinh hoa dinh dưỡng, huyết và tinh sinh dục. Sự chuyển hóa này xảy ra trong cơ thể một cách liên tục, nếu có rối loạn thì sẽ sinh bệnh, nếu ngưng lại thì chết. Luyện khí sẽ giúp cho quá trình chuyển hóa tinh biến thành khí, khí biến thành thần được tốt đẹp thêm. Tinh đầy đủ, khí dồi dào, thần mới có cơ sở để vững mạnh.

Tồn thần là giữ gìn tinh thần, tránh hao tổn. Muốn thế phải thanh tâm, qủa dục, thủ chân.

Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.

8. ĐIỀU KIỆN ĐỂ TIẾP THU VÀ ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHO CÓ KẾT QỦA.

Điều kiện để tiếp thu và áp dụng phương pháp cho có kết qủa là: Quyết tâm, kiên trì, và liên tục áp dụng phương pháp một cách chính xác, biện chứng, và sáng tạo. Phương pháp dưỡng sinh khi tập đúng rất mau có hiệu quả. Thí dụ bài tập thư giãn có tác dụng nhanh chóng chống căng thẳng, bảo vệ hoạt động của hệ thần kinh trung ương; Bài tập khí công làm khí huyết lưu thông gây ấm áp cơ thể, xoa bóp nội tạng, chống ứ trệ, táo bón do giảm trương lực cơ …

9.ĐỘNG TÁC DƯỠNG SINH CƠ BẢN:

H1: THƯ GIÃN

TƯ THẾ : Nằm che mắt, nơi yên tĩnh

: Tự nhủ cho cơ mềm ra, giãn ra; từng nhóm cơ, từ trên mặt xuống dần đến ngón chân, một cách từ từ chắc chắn. Toàn thân nặng xuống ấm lên.

Bước 3: Theo dõi hơi thở 10 lần, thở thật êm, nhẹ, đều, nông.

: – Luyện qúa trình ức chế của hệ thần kinh, luyện nghỉ ngơi chủ động.

CHỈ ĐỊNH : Trạng thái căng thẳng thần kinh, cơ bắp; Các hội chứng tâm thể; Mất ngủ; Các bệnh ngoại cảm, nội thương cần nghỉ ngơi.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH: – Hôn mê, rối loạn ý thức.

9.2. Động tác THỞ 4 THỜI CÓ KÊ MÔNG VÀ GIƠ CHÂN

H2: THỞ 4 THỜI CÓ KÊ MÔNG VÀ GIƠ CHÂN

TƯ THẾ: Nằm ngửa thẳng, kê một gối ở mông, cao khoảng 5-8 cm vừa sức, tay trái để trên bụng, tay phải để trên ngực; nhắm mắt, chú ý vào việc tập thở.

Thời 1 : Hít vào tối đa, ngực nở bụng phình và căng (3″- 6″); (Hít ngực bụng nở).

Thời 2 : Giữ hơi, mở thanh quản bằng cách cố gắng hít thêm, lồng ngực vẫn giữ nguyên ở tình trạng nở tối đa, bụng vẫn phình căng cứng, đồng thời giơ một chân giao động qua lại 4 cái, rồi hạ chân. (3″-6″); (Giữ hơi hít thêm).

TÁC DỤNG: Luyện tổng hợp hô hấp, tuần hoàn và thần kinh; chủ yếu là luyện sự cân bằng hai qúa trình hưng phấn và ức chế.

CHỈ ĐỊNH: Căng thẳng TK, Hội chứng tâm thể; Các chứng ứ trệ ở tạng phủ.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH: Bệnh bệnh tâm thần nặng, bệnh cấp cứu.

9.3. Động tác XEM XA, XEM GẦN

H3: XEM XA- XEM GẦN

TƯ THẾ: Ngồi hoa sen, hai bàn tay đan vào nhau và để trước bụng dưới, mắt nhìn vào ngón tay.

– Đưa hai tay lên trời mắt vẫn nhìn vào một điểm cố định của bàn tay, đồng thời hít vào tối đa; giữ hơi mở thanh quản (bằng cách hít thêm), đồng thời giao động thân qua lại từ 2-6 cái, thở ra triệt để, hạ tay xuống trước bụng, mắt vẫn nhìn theo tay; nghỉ. Làm như vậy 1-3 lần.

TÁC DỤNG: Luyện mắt và các khớp chi trên, tập vùng lưng trên.

CHỈ ĐỊNH: Yếu liệt chi trên, hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH : Bong gân, sai khớp, viêm khớp giai đoạn cấp./.

Phương Pháp “Dưỡng Sinh Nguyễn Khắc Viện”

Xin cho biết phương pháp dưỡng sinh của cố BS. Nguyễn Khắc Viện (1913-1997)?

* Xin cho biết phương pháp dưỡng sinh của cố BS. Nguyễn Khắc Viện (1913-1997)?

Bài tập thở đã được bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đúc kết thành một bài vè cho dễ nhớ: “Thót bụng thở ra/ Phình bụng thở vào/ Hai vai bất động/ Chân tay thả lỏng/ Êm, chậm, sâu, đều/ Tập trung theo dõi/ Luồng ra luồng vào/ Bình thường qua mũi/ Khi gấp qua mồm/ Đứng, ngồi hay nằm/ Ở đâu cũng được/ Lúc nào cũng được”.

Với phần tập vận động, thư giãn (luyện ý), từ lý thuyết đến các động tác cụ thể, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã giới thiệu trong cuốn Từ sinh lý đến dưỡng sinh (NXB Y Học – 1979; NXB Đồng Nai – 1988) và cuốn Dưỡng sinh dành cho mọi lứa tuổi (NXB Trẻ – 1993) với hình thức hỏi – đáp đơn giản, dễ hiểu. Nếu thiếu thời gian để tập đủ các động tác, bạn có thể tự chọn cách tập thích hợp, trên cơ sở nắm vững những nguyên lý, quan niệm của phương pháp dưỡng sinh. Thời đại ngày nay việc khiêng vác nặng đã có máy móc làm thay, con người cần thực hiện được những động tác nhanh, chính xác và luôn giữ được bình tĩnh. Cách tập vận động phải theo nguyên lý cứng tối thiểu, mềm tối đa. Tay có mềm dẻo mới nhanh được.

Người thợ rèn quai búa, chị chèo đò cũng nhờ hoạt động theo nguyên lý này nên vừa có hiệu quả cao, vừa đỡ mệt mỏi. Giữ cho cơ thể mềm mại, thả lỏng những cơ bắp lúc không sử dụng cũng là cách thư giãn dễ thực hiện, có hiệu quả và tiết kiệm được sức lực. Ví như ngồi nghe giảng, chân và tay chẳng việc gì phải căng cứng; hãy thả lỏng và kết hợp thở bụng, bạn sẽ thấy đỡ mỏi mệt. Bản thân bác sĩ Nguyễn Khắc Viện trong những năm cuối đời, khi tuổi đã cao, chủ yếu cũng chỉ thực hiện thở bụng, buông chùng da mặt, thả lỏng tay chân để thư giãn, giữ cho cơ thể luôn được mềm dẻo. Cái khó nhất của phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” là sự kiên trì, ngày nào cũng phải tập, riêng thở bụng thì giờ nào cũng tập để trở thành thói quen.

Điều quan trọng là đừng đợi đến lúc già yếu, hãy tập từ lúc còn trẻ trung, khỏe mạnh. Đừng để tình trạng nhiều nơi chỉ thấy các ông bà già tập luyện từ lúc còn mờ đất, còn tuổi trẻ thì dậy trưa. Sẽ có bạn bảo rằng tuổi trẻ quá nhiều mục tiêu phấn đấu, không còn thời gian để tập luyện. Nếu quả vậy, chỉ cần tập thở đúng cách – thở ngay trong lúc học, làm việc, không mất chút thời gian nào mà có thể đã đạt được quá 50% hiệu quả của phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện”.

Gs.TS Nguyễn Lân Dũng

Bác Sĩ Chuyên Khoa Nguyễn Thị Song Hà

Sanh mổ và sanh thường

Mổ lấy thai là phẫu thuật phổ biến của đẻ mổ. Trường hợp bạn cần sinh mổ bác sỹ sẽ chỉ định cho bạn. Với tình hình của bạn và thai nhi bạn hoàn toàn có thể chủ động nhận ra mình cần phải sinh mổ hay sinh thường? 

Thông thường sau khi ăn 6 tiếng, thức ăn mới có thể tiêu hóa toàn bộ. Khi đó dạ dày trống và đồng thới trong dạ dày chỉ có ít dịch nên không gây nguy hiểm. Còn trước 6 tiếng, thức ăn vẫn còn trong dạ dày do chưa được tiêu hóa hết, nên rất nguy hiểm nếu có hiện tượng trào ngược xảy ra do mất kiểm soát khi gây mê….

Nếu thai đã đủ 38 – 40 tuần và thấy xuất hiện một số triệu chứng như: tử cung co thắt, âm đạo chảy ra chất màu máu, mót tiểu tiện, phá nước ối… thì bà bầu nên vào bệnh viện để chờ sanh. Tuy nhiên, ở mỗi người sẽ có những biểu hiện rất khác nhau. 

Cuối cùng thì những tuần lễ mong đợi rồi cũng đã kết thức và bạn đã bắt đầu chuyển dạ. Đây là cao điểm của tiến trình mang thai của bạ, vì chỉ còn vài giờ nữa là bạn sẽ thấy được mặt con. Bạn sẽ rất phấn khởi, tuy nhiên cũng e sợ không biết rồi cuộc chuyển dạ của mình sẽ diễn ra thế nào. 

Trong các giai đoạn khi chuyển dạ, bạn hãy thử qua nhiều tư thế khác nhau, vì hẳn là từng lúc khác nhau, thì có những tư thế thoải mái khác nhau. 

Thời gian khó khăn nhất của tiến trình chuyển dạ thường rơi vào phần cuối của giai đoạn đầu khi các cơn co mạnh nhất. Các cơn co này kéo dài lối một phút và có thể chỉ cách nhau một phút thôi, nên có ít thời gian để nghỉ sau một cơn co, trước khi cơn sau ập tới bạn.

Mặc dù tiến trình chuyển dạ thường rất đau nhưng mỗi cơn đau đều đưa bạn đến gần sự trào đời của em bé thêm được một bước. Bạn có thể quyết tâm không dùng đến các biện pháp giảm đau, tuy nhiên bạn cũng nên cố gắng giữa đầu óc cởi mở.

Giờ đã tới cao điểm của tiến trình chuyển dạ, và em bé của bạn sắp sửa ra đời. Thật là hào hứng, khi bạn có thể sờ thấy đầu em bé lần đầu khi mới trồi ra, và chẳng mấy chốc sau đó, được nựng bé trên tay. 

Sanh đẻ là một quá trình sinh lý tự nhiên cho nên sản phụ không nên có tâm lý hoảng sợ, căng thẳng, chỉ cần không có tình trạng khác thường thì có thể phối hợp tốt với bác sỹ và y tá hộ sinh để việc sinh đẻ tự nhiên được diễn ra thuận lợi. 

Tác Dụng Bài Tập Dưỡng Sinh Của Nguyễn Văn Hưởng Trên Đói Tượng Công Nhân Phơi Nhiễm Xăng Dầu Có Hội Chứng Nhiễm Độc Benzen Nghề Nghiệp

Từ những năm đầu của thập kỷ 90 xăng, dầu đã là nguồn nguyên liệu chính của nền công nghiệp thế giới, việc khai thác và sử dụng xăng dầu ngày càng được đẩy mạnh.

Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu sử dụng xăng dầu ngày càng tăng, mạng lưới cung cấp, giao nhận, bán lẻ và đội ngũ nhân viên tiếp xúc với xăng dầu ngày càng nhiều, không thể tránh khỏi các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp như: nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm môi trường và một vấn đề rất đáng quan tâm đó là nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp.

Từ những năm 1920 Tetraethyl chì được pha vào xăng với mục đích đảm bảo hệ số cháy nổ của xăng. Sau 50 năm người ta đã chứng minh Tetraethyl chì là một chất gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khoẻ con người. Hàm lượng chì đã được giảm dần trong xăng từ năm 1975 và được thay thế bằng hợp chất khác mà vẫn đảm bảo hệ số cháy nổ như đối với xăng pha chì. Hợp chất được sử dụng là: Dung môi hữu cơ có nhân thơm (benzen, toluene, xylene…).

Để đạt được chỉ số octan 91-96 thì thành phần chất hữu cơ có chứa nhân thơm trong xăng phải là 36,4% và benzene là 3,3%.

Theo tài liệu quản lý độc tính của benzen (ATSDR-1997) cho thấy công nhân bán xăng dầu có nguy cơ tiếp xúc với benzen. Một công nhân bơm xăng 70 phút/ngày liên tục trong vòng một năm ước tính lượng benzen hấp thụ là 10 ^g/ngày. Với lượng tiếp xúc như vậy dần dần sẽ có các rối loạn chức phận như nhức đầu, chóng mặt, thay đổi thể chất và tâm thần đối với công nhân làm ảnh hưởng đến khả năng lao động, lâu dần làm thay đổi số lượng các tế bào máu và có thể dẫn đến ung thư máu nếu tiếp xúc trong thời gian dài.

Do vậy, việc tìm kiếm các biện pháp dự phòng giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm benzen như các biện pháp dự phòng cho đối tượng tiếp xúc, cũng như các biện pháp nhằm tăng cường thải độc benzen trên các đối tượng có nhiễm độc benzen đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Một số biện pháp thải độc của Y học hiện đại (YHHĐ) được áp dụng như dùng thuốc, luyện tập… Nhưng trên thực tiễn còn nhiều bất cập về hiệu quả, cũng như tính thuận tiện và giá thành.

Thực hiện phương châm phòng bệnh là chính, chữa bệnh là quan trọng và biến quá trình chữa bệnh thành quá trình tự chữa bệnh. Chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá tác dụng bài tập Dưỡng sinh của Nguyễn Văn Hưởn

trên đôi tượng công nhân phơi nhiễm xăng dâu có hội chứng nhiễm độc benzene nghề nghiệp” với các mục tiêu cụ thể sau:

1. Đánh giá tác dụng bài tập dưỡng sinh của Nguyễn Văn Hưởng trên

đối tượng công nhân phơi nhiễm xăng dầu có hội chứng nhiễm độc

benzen nghề nghiệp trên một số chỉ tiêu lâm sàng.

2. Đánh giá sự biên đoi một số chỉ số huyêt học và sinh hoá trên đối

tượng công nhân phơi nhiễm xăng dầu có hội chứng nhiễm độc benzen nghề nghiệp sau luyện tập bằng bài tập dưỡng sinh của Nguyễn Văn Hưởng.