I. Vị trí và mục tiêu của môn Làm văn trong trường phổ thông trung học
Có thể nói kĩ năng làm văn là thước đo năng lực ngôn ngữ, vốn văn học, vốn sống, sự phát triển nhân cách… của học sinh sau một giai đoạn học tập tiếng Việt và văn học. Chính điều này nêu rõ vị trí đặc biệt quan trọng của phân môn Làm văn trong nhà trường.
– Hoàn chỉnh các tri thức về làm văn: Những vấn đề lí thuyết và thực hành đã được học, rèn luyện ở cấp dưới sẽ được củng cố, bổ sung, nâng cao. Xong lớp 12, học sinh sẽ được trang bị một hệ thống trọn vẹn, đầy đủ những vấn đề lí thuyết cơ bản cũng như rèn luyện những kĩ năng chính trong việc xây dựng văn bản.
– Nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ:
– Nâng cao năng lực tư duy
II. Chương trình và sách giáo khoa phần làm văn ở trường phổ thông trung học
2.1 Lý thuyết về kĩ năng Làm Văn:
– Trình bày một bài văn là sự thể hiện nội dung, câu chữ, bố cục của bài văn đó thành hình thức cụ thể trên trang giấy.
– Giúp HS tránh được những sai sót trong trình bày và phải đáp ứng được một số yêu cầu sau: chữ viết cần đúng và đẹp, lề và bố cục các phần rõ rệt, trích dẫn đúng quy cách, trình bày dẫn chứng cân đối, hàihòa.
2.2. Đặc điểm cơ bản về các thể loại trong môn Làm văn:
2.3Thực hành về kĩ năng môn Làm Văn:
2.3.1 Kĩ năng thực hành văn bản:
– Liên t ưởng là hoạt động tâm lí của con người, từ việc này mà nghĩ đến việc kia, từ người này liên tưởng đến người khác.
– Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh:
+ Nắm vững các kiến thức về đoạn văn thuyết minh và kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh.
+ Có đủ tri thức cần thiếc và chuẩn xác để làm rõ ý của đoạn.
+ Sắp sếp hợp lí các tri thức đó theo một trật tự rõ ràng, rành mạch.
+ Vận dụng đúng đắn, sáng tạo những phương pháp thuyết minh và diễn đạt để đoạn văn trở nên cụ thể, sinh động, hấp dẫn
III. Một số tiền đề lí thuyết của việc dạy học làm văn
2. Lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ
(Sinh viên tham khảo tài liệu đã chỉ dẫn)
IV. Phương pháp dạy học làm văn
Thực hành làm văn là những giờ dùng để luyện tập, hình thành kĩ năng kĩ xảo tạo sinh văn bản cho học sinh. Thời gian dùng để luyện tập có thể được bố trí xen kẽ với việc giảng lí thuyết nhưng thường được tách ra thành những tiết luyện riêng. Hiện nay, chương trình và sách giáo khoa làm văn không định ra cụ thể số tiết thực hành cho từng chương hoặc từng bài cụ thể nhưng qua sách giáo viên, chúng ta có thể tìm được những chỉ dẫn rõ hơn cho tỉ lệ giữa lí thuyết và thực hành ở từng bài, từng chương. Nhìn chung, ở tất cả các bài, tỉ lệ thực hành luyện tập phải chiếm tối thiểu một nửa số thời gian dành cho bài học. Để những tiết thực hành đạt hiệu quả, giáo viên cần chú ý:
a- Cung cấp đầy đủ những kiến thức lí thuyết định hướng thực hành. Không có lí thuyết định hướng, học sinh sẽ nói, viết tuỳ tiện. Có những tiết luyện tập chỉ nhằm vào việc luyện một thao tác, khẳng định, củng cố một loại kiến thức nhưng phần lớn những tiết luyện tập đều nhằm vào việc củng cố, làm sáng tỏ lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng. Bởi vậy, dù là giờ thực hành nhằm khẳng định, củng cố, rèn luyện một hay nhiều kĩ năng…giáo viên cũng đều cần cung cấp đủ các nội dung lí thuyết, dù là lí thuyết về các thao tác thực hành.
b- Chuẩn bị tốt nội dung viết ( hoặc nói ). Nếu chỉ có kiến thức lí thuyết về các kiểu bài làm văn và các thao tác làm văn, học sinh chưa thể tạo ra được một bài văn tốt. Học sinh sẽ không biết viết gì, nói gì trong bài làm của mình khi chưa có những hiểu biết đầy đủ về đối tượng trình bày. Bởi vậy, tư liệu, vốn hiểu biết…càng phong phú, đa dạng thì nội dung càng sâu sắc, hàm súc, sáng tỏ. Ngược lại, vốn tư liệu và hiểu biết quá ít ỏi, mờ nhạt thì nội dung thường dàn trải, mơ hồ và sự liên kết nội dung sẽ lỏng lẻo.
c- Tạo được nhu cầu giao tiếp cho học sinh. Đây là điều hết sức quan trọng, đặc biệt đối với những giờ luyện nói. Học sinh sẽ không thể nói được, viết được bất cứ điều gì khi các em không có nhu cầu giao tiếp. Bởi vậy, việc khơi gợi ý muốn biểu đạt, khơi gợi sự hứng thú với vấn đề trình bày sẽ giúp các em thể hiện chân thật những suy nghĩ riêng của mình trong bài văn, tránh được tình trạng nói lại, hoặc nói như người khác đã nói.
d- Tạo môi trường giao tiếp tốt. Đây là yêu cầu quan trọng đối với giờ luyện nói. Môi trường ở đây được quan niệm là không khí lớp học, nét mặt, cử chỉ, lời nói của giáo viên; là các hoạt động của học sinh
3. Phương pháp ra đề làm văn
a- Phần cung cấp dữ kiện làm bài thường giữ một vị trí quan trọng trong đề bài. Đây chính là phần người soạn đề gợi ý, định hướng nội dung cho học sinh. Phần này sẽ giúp học sinh trả lời được câu hỏi: viết cái gì? Để định hướng, người soạn thường đưa vào đề bài một câu văn, câu thơ, một đoạn trích, một ý kiến hoặc một câu ca dao, tục ngữ nào đó…Chính lời dẫn này chứa đựng vấn đề hoặc chỉ ra vấn đề cần trình bày trong bài viết. Bởi vậy, khi đưa lời dẫn vào đề bài, giáo viên không nên tuỳ tiện mà cần phải cân nhắc kĩ từng dấu chấm, dấu phẩy, bảo đảm các ý được hiểu đầy đủ, chính xác.
b- Phần yêu cầu làm bài dù được đưa vào đề bài dưới dạng nào, trực tiếp hay gián tiếp, học sinh đều phải nhận thức được. Phần yêu cầu nếu quá chung chung, học sinh sẽ viết lung tung, mơ hồ, lạc hướng. Chúng ta có thể quan niệm phần yêu cầu làm bài là phần mang đặc tính thông tin hiệu lệnh. Phần này chứa một loạt những mệnh lệnh, những yêu cầu mà đề bài đòi hỏi học sinh phải giải quyết.
Đề văn không chỉ cần bảo đảm chính xác về mặt nội dung, đầy đủ về những chỉ dẫn mà còn đòi hỏi sự mẫu mực trong cách diễn đạt.
Nói chung, yêu cầu của một đề văn phải đầy đủ bốn nhân tố: nội dung, mục đích, đối tượng và cách thức.
4. Phương pháp chấm và trả bài làm văn
1. Nhắc lại đề văn đã làm
2. Xác định yêu cầu của đề
3. Đánh giá chung kết quả làm bài của lớp
– Dẫn chứng ưu khuyết điểm
V. Một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho học sinh
1. Kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề nhằm xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai bài viết.
Để có thể xác định được nội dung, yêu cầu của đề bài và vạch ra được phương hướng triển khai bài viết một cách đúng đắn, học sinh cần phải:
– Đọc kĩ đề bài, chú ý tới các dữ kiện đề bài đưa ra và những yêu cầu mà đề bài đòi hỏi. Khi có những lời dẫn, cần hết sức thận trọng, tìm hiểu cẩn thận từng từ ngữ, từng mối quan hệ giữa các thành phần câu để có thể hiểu một cách chính xác nội dung vấn đề được nêu. Nếu lời dẫn là một câu tục ngữ, châm ngôn, hoặc lời nói có ngụ ý sâu xa cần phải xem xét nghĩa đen lẫn nghĩa bóng để có thể hiểu đúng hướng, tránh hiểu lầm hoặc suy diễn thiếu cơ sở.
– Xác định những vấn đề chính của đề: nội dung, giới hạn, dạng đề, mức độ cần giải quyết…Để có thể định được phương hướng triển khai bài viết, học sinh cần phải trả lời được các câu hỏi: Viết cái gì ? Viết để làm gì ? Viết cho ai ? Viết theo cách nào ?…
2. Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý.
Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý giúp bài viết có ý, đủ ý và có bố cục; kết cấu bài văn hợp lí.
Dàn ý được lập trên cơ sở đã xác định được hệ thống ý sau khâu tìm ý.Lập dàn ý là cách sắp xếp nội dung chủ yếu của bài viết theo một chiến lược giao tiếp nhất định. Đó là cách tổ chức các luận điểm của bài viết sao cho không phải chỉ bộc lộ được nội dung cần trình bày mà còn có ảnh hưởng tích cực tới người đọc, giúp họ nhận thức bài viết của mình một cách dễ dàng, tác động tới tư tưởng, tình cảm và hành động của họ theo ý mà mình mong muốn.
3. Kĩ năng diễn đạt đúng theo dàn ý và phép hành văn nhằm bảo đảm các yêu cầu về nội dung của bài văn. Trong nhà trường hiện nay còn tình trạng khi làm văn có lập dàn ý nhưng do khi viết không điều khiển được ngòi bút, không điều khiển được dòng suy nghĩ nên bài viết hoặc không bám sát dàn ý, hoặc thoát li hoàn toàn dàn ý. Việc này đã làm cho dàn ý mất hết ý nghĩa và việc lập dàn ý trở thành hình thức, máy móc. Bởi vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đúng theo dàn ý đã lập là điều hết sức cần thiết đối với học sinh.
4. Kĩ năng lập luận là kĩ năng đưa ra vấn đề, trình bày vấn đề sao cho có tính thuyết phục và luôn luôn bảo đảm được sự nhất quán trong suốt quá trình trình bày. Luận điểm, luận cứ, luận chứng là những yếu tố quan trọng của lập luận. Những yếu tố này cần phải cùng hướng, phù hợp với lập luận. Nếu lập luận theo chiều hướng tích cực thì các yếu tố đưa ra cũng phải theo hướng tích cực, còn nếu lập luận đi theo hướng tiêu cực thì các yếu tố đưa ra cũng cần theo hướng tiêu cực. Khi lập luận theo hướng này mà các yếu tố của lập luận lại đi theo hướng khác, kết quả là sẽ phá vỡ nội dung, thiếu tính nhất quán.
5. Kĩ năng hành văn đúng phong cách, phù hợp với nội dung bài viết là rất cần thiết đối với thực hành làm văn. Hành văn vòng vèo, từ ngữ sáo mòn, kiểu cách…khiến cho lời văn cầu kì, sến mà học sinh cứ tưởng là hay, là bay bổng…
6. Kĩ năng hoàn thiện bài viết đòi hỏi học sinh biết tự nhận xét, tự đánh giá và điều chỉnh bài viết của mình. Học sinh phải tập nhận xét, tập liên kết và so sánh từ hình thức đến nội dung của từng phần, từng đoạn, từng câu, từng từ nhằm chỉnh sửa đúng theo quan điểm chung về hình thức và ý tưởng riêng về nội dung của mình.
Giới thiệu chương trình môn Ngữ văn Trung học phổ thông
Môn Ngữ văn có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông trung học, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời thành người lao động có kiến thức và kĩ năng thực hành nghề nghiệp, hoặc tiếp tục học lên ở bậc cao hơn.
Thông qua việc cho học sinh (HS) tiếp xúc rộng rãi và sâu sắc hơn với những giá trị tinh thần cao đẹp, đa dạng và phong phú của văn học, môn Ngữ văn còncó vai trò hết sức to lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cao đẹp cho học sinh, giúp các em tiếp nhận một cách sâu sắc và có hệ thống những giá trị tư tưởng lớn của văn học dân tộc và nhân loại như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa nhân văn…thể hiện ở nhiều khía cạnh và dưới nhiều màu sắc khác nhau, trong những quan hệ đa dạng và phong phú củacon người, cũng như trong cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, cho lẽ phải, sự công bằng, cho hạnh phúc và nhân phẩm.
Với tinh thần đó, chương trình (CT) môn Ngữ văn hướng tới những mục tiêu-nhiệm vụ sau đây:
Mục tiêu riêng của từng ban.
Ban khoa học tự nhiên (sau này gọi là chương trình chuẩn)
Thông qua việc giảng dạy những áng văn ấy, giúp HS dù có khuynh hướng về KHTN cũng nhận thức được:
Ban Khoa học xã hội và Nhân văn (sau này gọi là chương trình nâng cao)
Đối với ban KHXH-NV, môn Ngữ văn là một trong những môn học có vai trò định hướng đặc biệt quan trọng (định hướng học tập và định hướng nghề nghiệp cho HS)
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ phải được xây dựng vững chắc và tinh tế; khả năng phân tích, đánh giá văn học với sự kết hợp giữa trực cảm và suy lí logic phải đạt mức độ tự giác, chủ động và khá thành thạo; khả năng diễn đạt những suy nghĩ và tình cảm bằng nói và viết tiếng mẹ đẻ, chẳng những phải đạt yêu cầu chính xác, sáng tỏ, trôi chảy mà còn phải hướng tới tiêu chuẩn hay và hấp dẫn ở một chừng mục nào đấy. Vận dụng các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết một cách kháthànhthạo trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong việc tạo lập các loại văn bản thông thường; có kĩ năng đọc hiểu tác phẩm khá tốt.
2. Trên cơ sở vốn kiến thức, vốn tư tưởng, tình cảm và những năng lực nói trên, giúp HS có định hướng chắc chắn và có hứng thú thật sự khi tiếp tục học lên bậc đại học về các môn khoa học xã hội, giúp các em (kể cả các em không có điều kiện học lên) có khả năng tham gia một cách chủ động và có hiệu quả vào những hoạt động có tính chất đại chúng về văn hoá, văn nghệ trong đời sống xã hội. Đối với những HS có năng khiếu văn học thật sự thì tạo điều kiện khơi dậy và phát huy ở các em sự say mê đọc văn, học văn, niềm hứng thú và nhiệt tình tham gia vài các hoạt động sáng tác hoặc nghiên cứu phê bình văn học theo khả năng của mình.
Cùng với việc coi trọng năng lực đọc, các năng lực nghe, nói, viết cũng đều được coi trọng thích đáng.
Thực hiện các nguyên tắc trên, CT Ngữ văn THPT được tổ chức như sau:
+ Hoạt động giao tiếp, các nhân tố giao tiếp: 3 tiết.
+ Những yêu cầu chung về sử dụng tiếng Việt (chính tả, từ ngữ, ngữ pháp): 3 tiết.
+ Đặc điểm loại hình tiếng Việt: 2 tiết.
+ Khái quát về lịch sử tiếng Việt: 2 tiết.
+ Chuẩn hoá tiếng Việt: 2 tiết
+ Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân. Sáng tạo ngôn từ: 2 tiết.
+ Đặc điểm ngôn ngữ dạng nói và dạng viết: 2 tiết
+ Văn bản. Đặc điểm củavăn bản, các thành tố nội dung của văn bản: 4 tiết
+ Phong cách sinh hoạt: 2 tiết
+ Phong cách khoa học: 2 tiết
+ Phong cách chính luận: 2 tiết
+ Phong cách báo chí: 2 tiết
+ Phong cách hành chính: 2 tiết
+ Phong cách văn chương nghệ thuật: 4 tiết
+ Thi luật. Tính nhạc trong tiếng Việt. Một số thể thơ quen thuộc (thơ lục bát, thơ thất ngôn…): 2 tiết.
Những nội dung này ở cụm II sẽ được gắn với các cụm thể loại của bài đọc hiểu hoặc bài làm văn.
+ Nghĩa của từ trong sử dụng. Hiệu quả sử dụng các từ cùng trường nghĩa, các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, các từ tượng thanh, tượng hình…Từ vựng phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội. Từ Hán Việt. Lựa chọn và thay thế từ ngữ.. Phát hiện và chữa lỗi về dùng từ…
+ Câu phân loại theo mục đích nói và việc thực hiện các hành động nói. Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Lựa chọn và chuyển đổi các kiểu câu. Lời dẫn trực tiếp và lời dẫn gián tiếp. Phát hiện và chữa lỗi về câu. Các kiểu kết cấu đoạn văn và chức năng tổ chức văn bản của đoạn văn. Liên kết câu và liên kết đoạn văn trong văn bản.
Cụm III gồm những tri thức đã chuyển thành bài thực hành trong các bài đọc hiểu.
7.1 Cung cấp các tri thức về hoạt động tìm ý và lập dàn ý như quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, các phép suy lí như quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh; cách lập luận và cách phản bác một ý kiến; cách lập luận và cuối cùng là cách sữa chữa, hoàn thiệnmột bài văn, chứ không đơn giản là kĩ năng hình thức.
Cho HS viết các loại bài đã học ở THCS để ôn luyện, củng cố và từ lớp 11 trở đittập trung vào văn nghị luận, trong đó tỉ lệ bài văn nghị luận xã hội so với tỉ lệ bài văn nghị luận văn học là 2/1.