Phương Pháp Dạy Học Văn / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Phương Pháp Dạy Học Ngữ Văn

3. Trình độ: Đại học (sinh viên năm thứ 2)

5. Điều kiện tiên quyết: không

6. Mục tiêu của học phần:

6.1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lý luận dạy học chuyên ngành Ngữ văn; về lí thuyết nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp dạy học các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn; về phương pháp thiết kế bài giảng và tổ chức dạy học bộ môn.

6.2. Về kỹ năng: Biết cách vận dụng những kiến thức đã được học vào việc nghiên cứu, ứng dụng giảng dạy từng phân môn cụ thể trong môn học Ngữ văn.

7.1. Đối tượng, nhiệm vụ, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu

7.3. Nhiệm vụ và nội dung môn Ngữ văn ở trường phổ thông

7.4. Phương pháp và phương tiện dạy học môn Ngữ văn

7.5. Hình thức tổ chức dạy học môn Ngữ văn

7.6. Kiểm tra và đánh giá kết quả dạy và học môn Ngữ văn

8. Nhiệm vụ của sinh viên:

8.1. Nghe giảng lý thuyết

8.2. Thực hành: tìm hiểu và phân tích sách giáo khoa Ngữ văn

8.3. Kiểm tra, thi học phần

2. Phan Trọng Luận (2001), Phương pháp dạy học văn (2 tập) NXB GD, HN.

3. Lê A – Nguyễn Quang Ninh – Bùi Minh Toán ( 1996), Phương pháp dạy học tiếng Việt, Nxb Giáo dục

4. Lê Hữu Tỉnh (1991), Giáo trình phương pháp giảng dạy tiếng Việt, ĐHSP HÀ NỘI 2

1. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy tác phẩm văn chương theo loại thể, NXB ĐHQG, HN.

2. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB KHXH, HN.

3. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà văn, NXB GD, HN.

4. Phan Trọng Luận (2002), Thiết kế và dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường PT (tập1), NXB GD, HN.

5. Phan Trọng Luận (2003), Thiết kế và dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường PT (tập2), NXB GD, HN.

10 . Nhiều tác giả (2007), Ngữ văn 11 nâng cao (tập 1, 2), NXB GD, HN.

13. Nhiều tác giả (2003), Thiết kế dạy học văn – tiếng Việt THPT, NXB ĐHSP, HN.

15. Vũ Dương Quỹ – Lê Bảo (2002), Tác phẩm văn chương trong trường PT – những con đường khám phá (tập1, 2), NXB GD, HN.

16. Vũ Dương Quỹ – Lê Bảo (2003), Tác phẩm văn chương trong trường PT – những con đường khám phá (tập 3), NXB GD, HN.

17. Phùng Văn Tửu (2002), Cảm thụ và giảng dạy văn học nước ngoài, NXB GD, HN.

18. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy nghiên cứu VHDG, NXB GD, HN.

19. Trịnh Xuân Vũ (2000), Văn chương và phương pháp giảng dạy văn chương, NXB ĐHQG, Tp HCM.

20. chúng tôi REZ (1983), Phương pháp luận dạy văn học, Phan Thiều (dịch), NXB GD, HN.

10. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên:

10.1. Dự lớp (tối thiểu 35 tiết)

10.2. Thực hành: Tìm hiểu và phân tích nội dung, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn

10.3. Kiểm tra giữa học phần (1 bài)

10.4. Thi kết thúc học phần: Thi viết

Thi kết thúc học phần:0,6

CHƯƠNG 1. ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1.Đối tượng nghiên cứu của Phương pháp dạy học Ngữ văn

1.2.Mục tiêu của Phương pháp dạy học Ngữ văn

1.3.Nhiệm vụ của Phương pháp dạy học Ngữ văn

1.4.Phương pháp nghiên cứu Phương pháp dạy học Ngữ văn

1.5.Nội dung của môn Phương pháp dạy học Ngữ văn (bao gồm các nguyên tắc tổ chức dạy học, nhiệm vụ và nội dung, phương pháp và phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả môn Ngữ văn ở trường phổ thông)

CHƯƠNG 2. CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN

2.1. Nguyên tắc tiếp cận giao tiếp và quan điểm lịch sử

2.2. Nguyên tắc tích hợp trong vận dụng kiến thức và kĩ năng

2.3. Nguyên tắc rèn luyện và phát triển các loại hình tư duy: tư duy logic và tư duy hình tượng

2.4. Nguyên tắc xây dựng bản sắc cá nhân, phát triển nhân cách (cá thể) trong mối quan hệ thống nhất với cộng đồng.

2.5. Nguyên tắc khai phóng tư duy, phát huy tính tích cực, chủ động của người học

CHƯƠNG 3. NHIỆM VỤ VÀ NỘI DUNG MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

3.1. Trang bị kiến thức có hệ thống về ngôn ngữ và văn học

3.2. Rèn luyện năng lực cảm thụ văn chương và kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ

3.3. Phát triển nhân cách, năng lực trí tuệ và đời sống tư tưởng, tình cảm

CHƯƠNG 4. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

4.1. Lí luận về phương pháp dạy học Ngữ văn

4.1.1. Khái niệm: phương pháp dạy học

4.1.2. Tính đặc thù của phương pháp dạy học Ngữ văn

4.1.3. Phương pháp luận dạy học Ngữ văn và phương pháp dạy học Ngữ văn chuyên biệt hóa (Văn học, tiếng Việt, Làm văn)

4.1.4. Vận dụng các phương pháp dạy học Ngữ văn chuyên biệt hóa theo quan điểm tích hợp

4.2. Phương tiện dạy học môn Ngữ văn

4.2.1. Các khái niệm: trực quan, đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học

4.2.2. Tác phẩm văn học, các hiện tượng ngôn ngữ, môi trường giao tiếp, các hình thức giao tiếp là phương tiện dạy học có tính trực quan.

4.2.3. Bảng biểu, sơ đồ, tranh ảnh, …là các đồ dùng dạy học do giáo viên tự sáng tạo

4.2.4. Các thiết bị nghe, nhìn như audio, video, … là phương tiện dạy học ngày càng phổ biến

CHƯƠNG 5. HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN

5.1. Các hình thức tổ chức dạy học môn Ngữ văn

5.1.2. Ngoại khóa: sáng tác, sinh hoạt câu lạc bộ, viết tiểu luận,…

5.2. Chuẩn bị điều kiện cần và đủ trước khi soạn một giáo án Ngữ văn

5.2.1. Đọc kĩ bài học mới trong sách giáo khoa (SGK)

5.2.2. Xác định mục tiêu bài dạy

5.2.3. Xem xét mối quan hệ giữa kiến thức học sinh đã học và nội dung sắp học theo tinh thần tích hợp hệ thống (dọc)

5.2.5. Câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu (trước) bài học mới ở nhà.

5.3. Triển khai một tiết dạy học Ngữ văn.

5.3.1. Tạo tâm thế tiếp nhận

5.3.2. Đồng bộ hóa tiến trình tiếp nhận

5.3.3. Hoạt động tương tác trong dạy văn học và trong dạy tiếng

5.3.4. Thông tin phản hồi (feedback) và điều khiển

CHƯƠNG 6. KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ DẠY HỌC NGỮ VĂN

5.1. Ra đề và các hình thức tổ chức kiểm tra

5.2. Đổi mới quan điểm kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn học Ngữ văn

5.3. Tự luận và trắc nghiệm trong kiểm tra môn học Ngữ văn

Phương Pháp Dạy Học Làm Văn Thpt

I. Vị trí và mục tiêu của môn Làm văn trong trường phổ thông trung học

Có thể nói kĩ năng làm văn là thước đo năng lực ngôn ngữ, vốn văn học, vốn sống, sự phát triển nhân cách… của học sinh sau một giai đoạn học tập tiếng Việt và văn học. Chính điều này nêu rõ vị trí đặc biệt quan trọng của phân môn Làm văn trong nhà trường.

– Hoàn chỉnh các tri thức về làm văn: Những vấn đề lí thuyết và thực hành đã được học, rèn luyện ở cấp dưới sẽ được củng cố, bổ sung, nâng cao. Xong lớp 12, học sinh sẽ được trang bị một hệ thống trọn vẹn, đầy đủ những vấn đề lí thuyết cơ bản cũng như rèn luyện những kĩ năng chính trong việc xây dựng văn bản.

– Nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ:

– Nâng cao năng lực tư duy

II. Chương trình và sách giáo khoa phần làm văn ở trường phổ thông trung học

2.1 Lý thuyết về kĩ năng Làm Văn:

– Trình bày một bài văn là sự thể hiện nội dung, câu chữ, bố cục của bài văn đó thành hình thức cụ thể trên trang giấy.

– Giúp HS tránh được những sai sót trong trình bày và phải đáp ứng được một số yêu cầu sau: chữ viết cần đúng và đẹp, lề và bố cục các phần rõ rệt, trích dẫn đúng quy cách, trình bày dẫn chứng cân đối, hàihòa.

2.2. Đặc điểm cơ bản về các thể loại trong môn Làm văn:

2.3Thực hành về kĩ năng môn Làm Văn:

2.3.1 Kĩ năng thực hành văn bản:

– Liên t ưởng là hoạt động tâm lí của con người, từ việc này mà nghĩ đến việc kia, từ người này liên tưởng đến người khác.

– Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh:

+ Nắm vững các kiến thức về đoạn văn thuyết minh và kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh.

+ Có đủ tri thức cần thiếc và chuẩn xác để làm rõ ý của đoạn.

+ Sắp sếp hợp lí các tri thức đó theo một trật tự rõ ràng, rành mạch.

+ Vận dụng đúng đắn, sáng tạo những phương pháp thuyết minh và diễn đạt để đoạn văn trở nên cụ thể, sinh động, hấp dẫn

III. Một số tiền đề lí thuyết của việc dạy học làm văn

2. Lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ

(Sinh viên tham khảo tài liệu đã chỉ dẫn)

IV. Phương pháp dạy học làm văn

Thực hành làm văn là những giờ dùng để luyện tập, hình thành kĩ năng kĩ xảo tạo sinh văn bản cho học sinh. Thời gian dùng để luyện tập có thể được bố trí xen kẽ với việc giảng lí thuyết nhưng thường được tách ra thành những tiết luyện riêng. Hiện nay, chương trình và sách giáo khoa làm văn không định ra cụ thể số tiết thực hành cho từng chương hoặc từng bài cụ thể nhưng qua sách giáo viên, chúng ta có thể tìm được những chỉ dẫn rõ hơn cho tỉ lệ giữa lí thuyết và thực hành ở từng bài, từng chương. Nhìn chung, ở tất cả các bài, tỉ lệ thực hành luyện tập phải chiếm tối thiểu một nửa số thời gian dành cho bài học. Để những tiết thực hành đạt hiệu quả, giáo viên cần chú ý:

a- Cung cấp đầy đủ những kiến thức lí thuyết định hướng thực hành. Không có lí thuyết định hướng, học sinh sẽ nói, viết tuỳ tiện. Có những tiết luyện tập chỉ nhằm vào việc luyện một thao tác, khẳng định, củng cố một loại kiến thức nhưng phần lớn những tiết luyện tập đều nhằm vào việc củng cố, làm sáng tỏ lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng. Bởi vậy, dù là giờ thực hành nhằm khẳng định, củng cố, rèn luyện một hay nhiều kĩ năng…giáo viên cũng đều cần cung cấp đủ các nội dung lí thuyết, dù là lí thuyết về các thao tác thực hành.

b- Chuẩn bị tốt nội dung viết ( hoặc nói ). Nếu chỉ có kiến thức lí thuyết về các kiểu bài làm văn và các thao tác làm văn, học sinh chưa thể tạo ra được một bài văn tốt. Học sinh sẽ không biết viết gì, nói gì trong bài làm của mình khi chưa có những hiểu biết đầy đủ về đối tượng trình bày. Bởi vậy, tư liệu, vốn hiểu biết…càng phong phú, đa dạng thì nội dung càng sâu sắc, hàm súc, sáng tỏ. Ngược lại, vốn tư liệu và hiểu biết quá ít ỏi, mờ nhạt thì nội dung thường dàn trải, mơ hồ và sự liên kết nội dung sẽ lỏng lẻo.

c- Tạo được nhu cầu giao tiếp cho học sinh. Đây là điều hết sức quan trọng, đặc biệt đối với những giờ luyện nói. Học sinh sẽ không thể nói được, viết được bất cứ điều gì khi các em không có nhu cầu giao tiếp. Bởi vậy, việc khơi gợi ý muốn biểu đạt, khơi gợi sự hứng thú với vấn đề trình bày sẽ giúp các em thể hiện chân thật những suy nghĩ riêng của mình trong bài văn, tránh được tình trạng nói lại, hoặc nói như người khác đã nói.

d- Tạo môi trường giao tiếp tốt. Đây là yêu cầu quan trọng đối với giờ luyện nói. Môi trường ở đây được quan niệm là không khí lớp học, nét mặt, cử chỉ, lời nói của giáo viên; là các hoạt động của học sinh

3. Phương pháp ra đề làm văn

a- Phần cung cấp dữ kiện làm bài thường giữ một vị trí quan trọng trong đề bài. Đây chính là phần người soạn đề gợi ý, định hướng nội dung cho học sinh. Phần này sẽ giúp học sinh trả lời được câu hỏi: viết cái gì? Để định hướng, người soạn thường đưa vào đề bài một câu văn, câu thơ, một đoạn trích, một ý kiến hoặc một câu ca dao, tục ngữ nào đó…Chính lời dẫn này chứa đựng vấn đề hoặc chỉ ra vấn đề cần trình bày trong bài viết. Bởi vậy, khi đưa lời dẫn vào đề bài, giáo viên không nên tuỳ tiện mà cần phải cân nhắc kĩ từng dấu chấm, dấu phẩy, bảo đảm các ý được hiểu đầy đủ, chính xác.

b- Phần yêu cầu làm bài dù được đưa vào đề bài dưới dạng nào, trực tiếp hay gián tiếp, học sinh đều phải nhận thức được. Phần yêu cầu nếu quá chung chung, học sinh sẽ viết lung tung, mơ hồ, lạc hướng. Chúng ta có thể quan niệm phần yêu cầu làm bài là phần mang đặc tính thông tin hiệu lệnh. Phần này chứa một loạt những mệnh lệnh, những yêu cầu mà đề bài đòi hỏi học sinh phải giải quyết.

Đề văn không chỉ cần bảo đảm chính xác về mặt nội dung, đầy đủ về những chỉ dẫn mà còn đòi hỏi sự mẫu mực trong cách diễn đạt.

Nói chung, yêu cầu của một đề văn phải đầy đủ bốn nhân tố: nội dung, mục đích, đối tượng và cách thức.

4. Phương pháp chấm và trả bài làm văn

1. Nhắc lại đề văn đã làm

2. Xác định yêu cầu của đề

3. Đánh giá chung kết quả làm bài của lớp

– Dẫn chứng ưu khuyết điểm

V. Một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho học sinh

1. Kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề nhằm xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai bài viết.

Để có thể xác định được nội dung, yêu cầu của đề bài và vạch ra được phương hướng triển khai bài viết một cách đúng đắn, học sinh cần phải:

– Đọc kĩ đề bài, chú ý tới các dữ kiện đề bài đưa ra và những yêu cầu mà đề bài đòi hỏi. Khi có những lời dẫn, cần hết sức thận trọng, tìm hiểu cẩn thận từng từ ngữ, từng mối quan hệ giữa các thành phần câu để có thể hiểu một cách chính xác nội dung vấn đề được nêu. Nếu lời dẫn là một câu tục ngữ, châm ngôn, hoặc lời nói có ngụ ý sâu xa cần phải xem xét nghĩa đen lẫn nghĩa bóng để có thể hiểu đúng hướng, tránh hiểu lầm hoặc suy diễn thiếu cơ sở.

– Xác định những vấn đề chính của đề: nội dung, giới hạn, dạng đề, mức độ cần giải quyết…Để có thể định được phương hướng triển khai bài viết, học sinh cần phải trả lời được các câu hỏi: Viết cái gì ? Viết để làm gì ? Viết cho ai ? Viết theo cách nào ?…

2. Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý.

Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý giúp bài viết có ý, đủ ý và có bố cục; kết cấu bài văn hợp lí.

Dàn ý được lập trên cơ sở đã xác định được hệ thống ý sau khâu tìm ý.Lập dàn ý là cách sắp xếp nội dung chủ yếu của bài viết theo một chiến lược giao tiếp nhất định. Đó là cách tổ chức các luận điểm của bài viết sao cho không phải chỉ bộc lộ được nội dung cần trình bày mà còn có ảnh hưởng tích cực tới người đọc, giúp họ nhận thức bài viết của mình một cách dễ dàng, tác động tới tư tưởng, tình cảm và hành động của họ theo ý mà mình mong muốn.

3. Kĩ năng diễn đạt đúng theo dàn ý và phép hành văn nhằm bảo đảm các yêu cầu về nội dung của bài văn. Trong nhà trường hiện nay còn tình trạng khi làm văn có lập dàn ý nhưng do khi viết không điều khiển được ngòi bút, không điều khiển được dòng suy nghĩ nên bài viết hoặc không bám sát dàn ý, hoặc thoát li hoàn toàn dàn ý. Việc này đã làm cho dàn ý mất hết ý nghĩa và việc lập dàn ý trở thành hình thức, máy móc. Bởi vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đúng theo dàn ý đã lập là điều hết sức cần thiết đối với học sinh.

4. Kĩ năng lập luận là kĩ năng đưa ra vấn đề, trình bày vấn đề sao cho có tính thuyết phục và luôn luôn bảo đảm được sự nhất quán trong suốt quá trình trình bày. Luận điểm, luận cứ, luận chứng là những yếu tố quan trọng của lập luận. Những yếu tố này cần phải cùng hướng, phù hợp với lập luận. Nếu lập luận theo chiều hướng tích cực thì các yếu tố đưa ra cũng phải theo hướng tích cực, còn nếu lập luận đi theo hướng tiêu cực thì các yếu tố đưa ra cũng cần theo hướng tiêu cực. Khi lập luận theo hướng này mà các yếu tố của lập luận lại đi theo hướng khác, kết quả là sẽ phá vỡ nội dung, thiếu tính nhất quán.

5. Kĩ năng hành văn đúng phong cách, phù hợp với nội dung bài viết là rất cần thiết đối với thực hành làm văn. Hành văn vòng vèo, từ ngữ sáo mòn, kiểu cách…khiến cho lời văn cầu kì, sến mà học sinh cứ tưởng là hay, là bay bổng…

6. Kĩ năng hoàn thiện bài viết đòi hỏi học sinh biết tự nhận xét, tự đánh giá và điều chỉnh bài viết của mình. Học sinh phải tập nhận xét, tập liên kết và so sánh từ hình thức đến nội dung của từng phần, từng đoạn, từng câu, từng từ nhằm chỉnh sửa đúng theo quan điểm chung về hình thức và ý tưởng riêng về nội dung của mình.

Giới thiệu chương trình môn Ngữ văn Trung học phổ thông

Môn Ngữ văn có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông trung học, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời thành người lao động có kiến thức và kĩ năng thực hành nghề nghiệp, hoặc tiếp tục học lên ở bậc cao hơn.

Thông qua việc cho học sinh (HS) tiếp xúc rộng rãi và sâu sắc hơn với những giá trị tinh thần cao đẹp, đa dạng và phong phú của văn học, môn Ngữ văn còncó vai trò hết sức to lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cao đẹp cho học sinh, giúp các em tiếp nhận một cách sâu sắc và có hệ thống những giá trị tư tưởng lớn của văn học dân tộc và nhân loại như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa nhân văn…thể hiện ở nhiều khía cạnh và dưới nhiều màu sắc khác nhau, trong những quan hệ đa dạng và phong phú củacon người, cũng như trong cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, cho lẽ phải, sự công bằng, cho hạnh phúc và nhân phẩm.

Với tinh thần đó, chương trình (CT) môn Ngữ văn hướng tới những mục tiêu-nhiệm vụ sau đây:

Mục tiêu riêng của từng ban.

Ban khoa học tự nhiên (sau này gọi là chương trình chuẩn)

Thông qua việc giảng dạy những áng văn ấy, giúp HS dù có khuynh hướng về KHTN cũng nhận thức được:

Ban Khoa học xã hội và Nhân văn (sau này gọi là chương trình nâng cao)

Đối với ban KHXH-NV, môn Ngữ văn là một trong những môn học có vai trò định hướng đặc biệt quan trọng (định hướng học tập và định hướng nghề nghiệp cho HS)

Năng lực cảm thụ thẩm mĩ phải được xây dựng vững chắc và tinh tế; khả năng phân tích, đánh giá văn học với sự kết hợp giữa trực cảm và suy lí logic phải đạt mức độ tự giác, chủ động và khá thành thạo; khả năng diễn đạt những suy nghĩ và tình cảm bằng nói và viết tiếng mẹ đẻ, chẳng những phải đạt yêu cầu chính xác, sáng tỏ, trôi chảy mà còn phải hướng tới tiêu chuẩn hay và hấp dẫn ở một chừng mục nào đấy. Vận dụng các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết một cách kháthànhthạo trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong việc tạo lập các loại văn bản thông thường; có kĩ năng đọc hiểu tác phẩm khá tốt.

2. Trên cơ sở vốn kiến thức, vốn tư tưởng, tình cảm và những năng lực nói trên, giúp HS có định hướng chắc chắn và có hứng thú thật sự khi tiếp tục học lên bậc đại học về các môn khoa học xã hội, giúp các em (kể cả các em không có điều kiện học lên) có khả năng tham gia một cách chủ động và có hiệu quả vào những hoạt động có tính chất đại chúng về văn hoá, văn nghệ trong đời sống xã hội. Đối với những HS có năng khiếu văn học thật sự thì tạo điều kiện khơi dậy và phát huy ở các em sự say mê đọc văn, học văn, niềm hứng thú và nhiệt tình tham gia vài các hoạt động sáng tác hoặc nghiên cứu phê bình văn học theo khả năng của mình.

Cùng với việc coi trọng năng lực đọc, các năng lực nghe, nói, viết cũng đều được coi trọng thích đáng.

Thực hiện các nguyên tắc trên, CT Ngữ văn THPT được tổ chức như sau:

+ Hoạt động giao tiếp, các nhân tố giao tiếp: 3 tiết.

+ Những yêu cầu chung về sử dụng tiếng Việt (chính tả, từ ngữ, ngữ pháp): 3 tiết.

+ Đặc điểm loại hình tiếng Việt: 2 tiết.

+ Khái quát về lịch sử tiếng Việt: 2 tiết.

+ Chuẩn hoá tiếng Việt: 2 tiết

+ Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân. Sáng tạo ngôn từ: 2 tiết.

+ Đặc điểm ngôn ngữ dạng nói và dạng viết: 2 tiết

+ Văn bản. Đặc điểm củavăn bản, các thành tố nội dung của văn bản: 4 tiết

+ Phong cách sinh hoạt: 2 tiết

+ Phong cách khoa học: 2 tiết

+ Phong cách chính luận: 2 tiết

+ Phong cách báo chí: 2 tiết

+ Phong cách hành chính: 2 tiết

+ Phong cách văn chương nghệ thuật: 4 tiết

+ Thi luật. Tính nhạc trong tiếng Việt. Một số thể thơ quen thuộc (thơ lục bát, thơ thất ngôn…): 2 tiết.

Những nội dung này ở cụm II sẽ được gắn với các cụm thể loại của bài đọc hiểu hoặc bài làm văn.

+ Nghĩa của từ trong sử dụng. Hiệu quả sử dụng các từ cùng trường nghĩa, các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, các từ tượng thanh, tượng hình…Từ vựng phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội. Từ Hán Việt. Lựa chọn và thay thế từ ngữ.. Phát hiện và chữa lỗi về dùng từ…

+ Câu phân loại theo mục đích nói và việc thực hiện các hành động nói. Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Lựa chọn và chuyển đổi các kiểu câu. Lời dẫn trực tiếp và lời dẫn gián tiếp. Phát hiện và chữa lỗi về câu. Các kiểu kết cấu đoạn văn và chức năng tổ chức văn bản của đoạn văn. Liên kết câu và liên kết đoạn văn trong văn bản.

Cụm III gồm những tri thức đã chuyển thành bài thực hành trong các bài đọc hiểu.

7.1 Cung cấp các tri thức về hoạt động tìm ý và lập dàn ý như quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, các phép suy lí như quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh; cách lập luận và cách phản bác một ý kiến; cách lập luận và cuối cùng là cách sữa chữa, hoàn thiệnmột bài văn, chứ không đơn giản là kĩ năng hình thức.

Cho HS viết các loại bài đã học ở THCS để ôn luyện, củng cố và từ lớp 11 trở đittập trung vào văn nghị luận, trong đó tỉ lệ bài văn nghị luận xã hội so với tỉ lệ bài văn nghị luận văn học là 2/1.

Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Môn Ngữ Văn

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN

I/ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỔI MỚI KỸ THUẬT ĐÁNH GIÁ, ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN.

Từ xưa tới nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Nếu nói người giáo viên là những “Kỹ sư tâm hồn” thì điều đó đúng nhất đối với các thầy cô giáo dạy văn vì Ngữ văn chính là bộ môn dễ gây xúc động vui, buồn tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người, giúp con người phát huy đầy đủ năng lực phẩm chất để xây dựng cuộc sống.Những năm gần đây việc dạy và học ngữ văn đã và đang trở thành một điểm “nóng” ngày càng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Dư luận (và cả thực tế) cho thấy rằng học sinh hiện nay không thích học văn. Trong trường THCS vẫn tồn tại tình trạng một số học sinh học theo kiểu đối phó, các em lười đọc, lười suy nghĩ về tác phẩm văn học, ngại viết, ngại luyện kỹ năng diễn đạt. TRong lớp 8B tôi đang dạy có 45 học sinh, khi điền vào phiếu trưng cầu ý kiến về thái độ của các em với môn văn như thế nào. Số trả lời “Thích học” là 15 em (33%) “Bình thường” là 22 em (48%), “Thờ ơ” là 08 em (19,0%), “Ghét” 0% (Số liệu này tôi nghĩ chưa sát lắm vì có thể học sinh còn “nể” cô). Tất nhiên việc học sinh ngại học ngữ văn do nhiều yếu tố chi phối (ví dụ sự tác động của xã hội là chọn ngành nghề sau này, song có lẽ phần lớn là do giáo viên chưa có sức lôi cuốn học sinh, phương pháp dạy còn cứng nhắc…). Vì vậy để học sinh thích học ngữ văn có lẽ giáo viên cần thực sự hiểu và thực hiện cuộc vận động “đổi mới phương pháp dạy văn, đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh”. Hiện nay, ngành giáo dục đang triển khai thực hiện đồng bộ đổi mới giữa “nội dung- phương pháp và việc kiểm tra đánh giá” nếu chỉ đổi mới về nội dung- phương pháp dạy mà không đổi mới kiểm tra đánh giá thì cũng vô nghĩa không thẩm định được thực chất kiến thực học sinh, học sinh không phát huy khả năng sáng tạo. Có một thời trước cải cách giáo dục, đề thi kiểm tra môn ngữ văn chủ yếu yêu cầu viết bài nghị luận xã hội, sau đó lại nghiêng hẳn về nghị luận văn học. Cách kiểm tra, đánh giá này dễ tạo ra một dạng “đường mòn” cho “văn mẫu” xuất hiện, học sinh tìm đọc thuộc lòng để sao chép làm mất đi tính sáng tạo. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chương trình cải cách giáo dục đã có nhiều khác biệt so với trước như kiểu kiểm tra trắc nghiệm khách quan và các bài kiểm tra kỹ năng thực hành vận dụng. Mỗi đề kiểm tra bao gồm những câu hỏi nhằm vào nhiều mảng kiến thức kỹ năng mà học sinh đã được học.Từ năm học 2008- 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục điều chỉnh tập huấn cho giáo viên nâng cao hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn.Quá trình đổi mới này đã luyện cho học sinh bớt đi tính thụ động, khuyến khích sự sáng tạo của học sinh bởi việc đổi mới kiểm tra đánh giá hiện nay phải theo các tiêu chí: phạm vi kiến thức phải toàn diện, số câu hỏi cần phải bao quát được phạm vi kiểm tra. Mức độ kiểm tra phải theo chuẩn kiến thức và không nằm ngoài chương trình. Hình thức kiểm tra kết hợp cả trắc nghiệm và tự luận (trừ kiểm tra học kỳ) trong đó trắc nghiệm chiếm ≤ 30%. Với lớp 6, 7 mỗi câu trắc nghiệm từ 0,25 đ- 0,5 đ; với lớp 8, 9 thì khoảng 0,2- 0,25 đ/câu. Đề kiểm tra phải có tác dụng phân hoá, có tính phản hồi, vừa đề cao tính chính xác khoa học vừa có tình khả thi, phần từ luận cần cả đề nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Với đề kiểm tra như vậy sẽ là một trong những cách thức đo được đúng nhất những suy nghĩ của người viết. Và đó cũng là cách tốt nhất để chống việc học tủ, dạy tủ.Đổi mới kiểm tra đánh giá cũng cần đổi mới cả lời phê, cách phê của giáo viên. Điểm số của một bài kiểm tra ngữ văn rất quan trọng nhưng cái quan trọng hơn là thầy cô phải phát hiện những ưu khuyết điểm của bài viết nhằm động viên khuyến khích hoặc nhắc nhở học sinh để lần sau làm bài tốt hơn.Về đổi mới phương pháp dạy văn, Bộ Giáo dục đã đưa ra một số phương pháp đặc thù như đọc sáng tạo, đọc- hiểu, vấn đáp gợi tìm với các dạng cấu trúc câu hỏi như phát hiện, giảng, phân tích liên tưởng và bình… để giúp học sinh tiếp xúc văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn; cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết… dần dần học sinh sẽ tự đọc, hiểu tác phẩm văn học một cách đúng đắn, trách sự thẩm định lệch lạc.Bởi vậy đổi mới phương pháp dạy văn, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn ngữ văn là vô cùng cần thiết và phải làm đồng bộ.

II/ THỰC TRẠNG VIỆC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN VIỆC ĐỔI MỚI, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THCS .1. Ưu điểm:a) Về công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu:– Ngay từ những năm đầu thực hiện thay sách, Ban giám hiệu Trường THCS đã có kế hoạch cụ thể, phân công người dạy theo chương trình mới; cử giáo viên đi học tiếp thu phương pháp dạy học mới theo các đợt tập huấn do Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục tổ chức. Trong suốt các năm học Ban Giám hiệu đều bố trí cử giáo viên đi dự đầy đủ các chuyên đề của Sở, của Phòng.– Trong các kế hoạch đầu năm, kế hoạch tháng, Ban giám hiệu đều đặt mục tiêu phải kiểm tra đánh giá học sinh một cách trung thực, khách quan toàn diện, tránh hiện tượng chạy theo thành tích.– Ban Giám hiệu cũng đã đầu tư, khuyến khích giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học, khuyến khích giáo viên sử dụng công nghệ trình chiếu trong giảng dạy. Lên kế hoạch cho phép các giáo viên bộ môn phôtô đề kiểm tra trắc nghiệm phát đến từng học sinh từ bài kiểm tra 15 phút trở lên.– Chỉ đạo các tổ chuyên môn lập kế hoạch tổ chức các buổi chuyên đề bàn về phương pháp giảng dạy, cách kiểm tra đánh giá học sinh.

2. Tồn tại.a) Đối với Ban giám hiệu: Do phải quan tâm chỉ đạo nhiều công tác khác như làm phổ cập, các cuộc thi do Đảng, đoàn phát động nên có lúc sự kiểm tra của Ban giám hiệu bị ngắt quãng.

b) Đối với giáo viên, học sinh: * Đối với giáo viên:Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung giáo viên vẫn còn tồn tại một số mặt sau:– Tinh thần “Đổi mới” rất tốt nhưng do tư duy cũ đã ăn sâu nên ở một vài giáo viên lối tư duy cũ ấy đã bám rễ nên rất khó thay đổi hoặc thay đổi chậm.VD: Thói quen áp đặt, giáo viên ép học sinh hiểu, cảm thụ tác phẩm văn chương, lý giải vấn đề theo cách hiểu, cảm thụ và lý giải của giáo viên. Trong bài kiểm tra nhất là phần tự luận, nếu học sinh cảm nhận, phân tích không theo ý cô thì bị phê phán, chê trách.– Giáo viên ngại ra đề trắc nghiệm, đề có độ mở vì đáp án cần phải tỉ mỉ, độ chính xác cao phải đưa ra nhiều phương án.– Đôi lúc giáo viên sao nhãng khi chấm bài, ngại chữa, ngại nhận xét, ngại phê trong mục “Lời phê”.– Ngại tìm tòi suy nghĩ: Một vài giáo viên soạn giảng y hệt sách “Thiết kế bài giảng ngữ văn”, không đọc kỹ, không chỉnh sửa… còn lúng túng khi dạy một văn bản dài với thời lượng ngắn (Ví dụ: Tác phẩm Lão Hạc (Ngữ văn 8- tập I), Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ văn 9- tập I), phân phối chương trình chỉ có hai tiết mà giáo viên thường phải kéo sang ít phút của tiết ba).– Chưa chú ý rèn kỹ năng phân tích đề, kỹ năng làm bài cho học sinh đại trà nên khi gặp kiểu câu hỏi khác lạ là học sinh không biết vận dụng để làm, mặc dù hiểu khá kỹ về tác phẩm (VD: Bài kiểm định chất lượng Văn 9 của Phòng giáo dục ngày 12/01/2009).

III/ KẾT QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN:

1. Tác động của việc đổi mới kiểm tra đánh giá đối với người dạy:– Nếu thực hiện tốt đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh thì giáo viên sẽ có sự đổi mới về phương pháp dạy. Hiện nay giáo viên dạy ngữ văn Trường THCS đã hiểu rõ: Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện của thầy. Nếu không phấn đấu, tự vận động thì giáo viên sẽ không đáp ứng được yêu cầu của giáo dục.– Nếu giáo viên không nắm vững kiến thức, không hiểu kiến thức một cách hệ thống từ lớp 6 đến lớp 9 thì không thể ra đề hoặc giảng bài theo hướng tích hợp. Vì vậy tất cả giáo viên dạy ngữ văn của Trường THCS đều đã được lần lượt phân dạy cả bốn khối, do đó tay nghề giáo viên đã được nâng lên.– Tuy nhiên kiểm tra theo kiểu trắc nghiệm cũng gây khó khăn cho giáo viên trong việc luyện các em viết chữ, trình bày.

IV/ NHỮNG KINH NGHIỆM TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH:* Đối với giáo viên:Để chất lượng dạy và học văn ngày một nâng cao, trong giờ lên lớn, người giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp để giúp học sinh phát huy đến mức cao nhất sự suy nghĩ độc lập, tìm tòi khám phá tác phẩm văn chương với sự hứng thú tích cực. Muốn thế người giáo viên cần:– Xuất phát từ “Mục đích, yêu cầu” của bài dạy để chọn cách dạy phù hợp. Dạy học sinh đọc hiểu văn bản là phân tích hình tượng và ý nghĩa ngôn từ của văn bản, thấy được sự thống nhất chặt chẽ giữa nghệ thuật và nội dung. Nội dung chỉ hay và sâu khi hình thức hoàn chỉnh có giá trị thẩm mỹ cao, ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ chắt lọc từ cuộc sống, có giá trị gợi ta, gợi cảm cao. Khi hướng dẫn học sinh phân tích, giáo viên không được áp đặt, không gò ép vào khuôn khổ chật hẹp cứng nhắc, giúp học sinh có thói quen độc lập suy nghĩ tránh sự vay mượn.– Rèn cho học sinh thói quen đọc kỹ tác phẩm, phải thuộc thơ, nhớ những chi tiết của truyện (thuộc trước tiết học thì càng tốt)+ Chú ý phát huy tính tích hợp trong giảng dạy vì nó vừa mở rộng phạm vi tiếp xúc đời sống của văn học, vừa góp phần rèn luyện tính năng động của người học trò. Tuy nhiên dạy tích hợp phải nhuần nhuyễn, uyển chuyển, tránh máy mọc.+ Dạy học theo tinh thần đổi mới là phải có khả năng tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại, tuy nhiên không nên lạm dụng quá nhiều trình chiếu trong dạy văn.+ Đề kiểm tra nếu là trắc nghiệm thì cũng chỉ dừng ở 20% số điểm là bài trắc nghiệm (khoảng 8 câu hỏi) còn lại là bài tự luận (có thể một câu tự luận ngắn, một câu tự luận dài hoặc bằng nhau).+ Giáo viên cần quan tâm đến các dạng câu hỏi, dạng đề, thường xuyên rèn kỹ năng phân tích đề, rèn kỹ năng làm bài cho học sinh.* Đối với học sinh:

V/ NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT:Đối với bài kiểm tra văn khối 9 hiện nay, thời gian dành cho bài kiểm tra là một tiết thì quá ít. Nên chăng cần tăng thêm thời gian để học sinh làm bài.

Đinh Văn Tước @ 07:43 06/03/2009 Số lượt xem: 8086

Phương Pháp Dạy Học Tập Làm Văn Ở Thcs

3.Yêu cầu cần đạta)Giáo dục Giúp học sinh hình thành:đức,trí,thể, mĩ(nhân cách) bộc lộ vốn tri thức,vốn sống tư tưởng,tình cảm của mình.Uốn nắn sai lệch cho học sinh ,điều chỉnh cho học sinh một cách chính xác hơn.b)Giáo dưỡng Tập làm văn hệ thống củng cố kiến thức tiếng Việt và văn học.Tập làm văn góp phần bồi dưỡng tâm hồn,trí tuệ để học sinh biết rung động trước cái đẹp,hướng các em tới nhu cầu phát triển thẩm mĩ ……c)Kĩ năng Trong tập làm văn cần được rèn luyện là:kĩ năng phân tích đề,lập dàn ý,dùng từ,đặt câu,dựng đoạn……– Các kĩ năng tạo lập,nói và viết các kiểu văn bản cho đúng với các phong cách chức năng,phong cách khẩu ngữ và phong cách văn hóa.

d)Tư duy Yêu cầu phát triển năng lực tư duy cho học sinh qua năng lực sử dụng ngôn ngữ,giúp học sinh biết tích lũy vốn tri thức,biết đặt ra vấn đề và giải quyết vấn đề,biết huy động vốn tri thức,biết trình bày kết quả tư duy của mình một cách rõ ràng,chặt chẽ có sức thuyết phục.II. chương trình và sách giáo khoa tập làm văn ở THCS.1, chương trình tập làm văn ở THCS.Chương trình tập làm văn ở THCS được thực hiện khi tiến hành CCGD ở cấp học này(1986) và được chỉnh lí năm 1995. cụ thể là:+ Lớp 6 – Trần thuật – Miêu tả – Tập phát biểu cảm nghĩ – Viết thư+ Lớp 7: -Tường thuật – Kể chuyện – Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật văn học – Đơn từ+ Lớp 8: – Chứng minh – Giải thích – Phân tích nhân vật – Biên bản

– Tiêu chuẩn chọn mẫu văn là khi đưa vào mẫu văn nào thi tương ứng vời tiêu chuẩn ấy. b.tổ chức dạy.– Tổ chức cho học sinh quan sát mẫu.Phân tích mẫu bằng xây dựng câu hỏi: Nêu câu hỏi và trả lời, giáo viên nhận xét và đánh giá.Rút ra khái niệm ứng với ghi nhớ trong sách giáo khoa của học sinh. 2. Phương pháp diễn dịch. a. khái niệm: phương pháp diễn dịch trong dạng tlv là đưa học sinh đén thẳng khái niệm trước khi tiếp xúc với mẫu. b. tổ chức dạy.– Tiếp xúc với khái niệm bằng hình thức cho học sinh đọc khái niệm, giáo viên đọc khái niệm hoặc chiếu khái niệm.– Phân tích mẫu để khắc sâu lí thuyết đã học ở trên.C. Phương pháp dạy thực hành.Thực hành trong tập làm văn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc dạy tập làm văn ở THCS.Những yêu cầu và nội dung thực hành trong tập làm văn thường được bố trí xen kẽ với việc học lí thuyết.Cũng có khi yêu cầu thực hành được tách ra thành phần luyện tập, làm bài tập.Mặt khác, những tiết tập miệng,những bài kiểm tra viết thì chủ yếu vẫn là yêu cầu và nội dung thực hành.Có thể thấy chương trình tập làm văn, Sách giáo khoa tạp làm văn THCS đều quan tâm đến vấn đề thực hành :Thực hành trong lí thuyết, thực hành trong rèn luyện kĩ năng và thao tác làm văn. Thực hành sáng tạo bài văn (làm văn).Dù yêu cầu và nội dung thực hành ở mức độ nào,ở kiểu bài nào,ở bước nào trong quy trình học 1 loại văn cũng nên quy về một cách nhìn khái quát, những điều chung nhất, những lưu ý quan trọng khi dạy thực hành làm văn ở THCS là:1.Thực hành làm văn phải dựa trên cơ sở thông hiểu lí thuyết làm văn.-Lí thuyết làm văn là những nội dung, những vấn đề lí thuyết có tính chất định hướng.Thực hành làm văn để củng cố, khắc sâu,khẳng định, tái hiện lí thuyết.-Đối với học sinh,sự thông hiểu lí thuyết chính là việc nắm được các khái niệm về loại văn,về kĩ năng (dàn ý, dựng đoạn ,liên kết đoạn…) 2. Thực hành làm văn phải dựa trên cơ sở hệ thống bài tập làm văn.-Đối với mỗi loại văn trong chương trình, SGK đã xây dựng một hệ thống bài tập gồm: Bài tập tìm hiểu về một loại văn. Bài tập rèn luyện các kĩ năng làm văn. Bài tập tổng hợp.-Việc thực hành làm văn trên cơ sở hệ thống bài tập làm văn trong SGK là học sinh đã có được môi trường giao tiếp.