Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án

Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, có thể lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách học của các em. Thông thường học sinh sẽ được làm việc với các chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu sâu nội dung hơn. Các phương tiện kỹ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp học sinh tạo ra những sản phẩm có chất lượng.

Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó HS dưới sự điều khiển và giúp đỡ của GV tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được.

a) Phân loại theo quĩ thời gian thực hiện dự án:

Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 đến 6 giờ.

Dự án trung bình: thực hiện trong một số ngày (còn gọi là ngày dự án) nhưng giới hạn trong một tuần hoặc 40 giờ học.

Dự án lớn: được thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần, có thể kéo dài trong nhiều tuần.

b) Phân loại theo nhiệm vụ:

Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.

Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình.

Dự án kiến tạo: tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện các hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.

c) Phân loại theo mức độ phức hợp của nội dung học tập:

Dự án mang tính thực hành: là dự án có trong tâm là việc thực hiện một nhiệm vụ thực hành mang tính phức hợp trên cơ sở vận dụng kiến thức, kỹ năng cơ bản đã học nhằm tạo ra một sản phẩm vật chất

Dự án mang tính tích hợp: là dự án mang nội dung tích hợp nhiều nội dung hoạt động như tìm hiểu thực tiễn, nghiên cứu lí thuyết, giải quyết vấn đề, thực hiện các hoạt động thực hành, thực tiễn

Ngoài các cách phân loại trên, còn có thể phân loại theo chuyên môn (dự án môn học, dự án liên môn, dự án ngoài môn học); theo sự tham gia của người học (dự án cá nhân, dự án nhóm, dự án lớp…).

Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.

Mang tính phức hợp, liên môn: nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp.

Định hướng hành động: trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.

Tính tự lực của người học: trong dạy học theo dự án, người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của học sin và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.

Cộng tác làm việc: các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng công tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội.

Định hướng sản phẩm: trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.

Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành.

Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS.

HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân.

Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.

Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.

Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.

Dạy học dự án rất thích hợp để tổ chức dạy học các ứng dụng kĩ thuật của vật lí hay vận dụng các kiến thức vật lí để giải quyết các vấn đề thực tiễn.

Dạy học dự án không phù hợp với các bài học đòi hỏi sự trình bày chính xác, chặt chẽ và hệ thống (đại lượng vật lí, định luật, thuyết vật lí).

Bước Hoạt động của GV Hoạt động của HS

1. Chuẩn bị

Xây dựng ý tưởng,

Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập

2. Thực hiện dự án

Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế hoạch.

Tiến hành thu thập, xử lý thông tin thu được.

Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo.

Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần.

Thường xuyên phản hồi, thông báo thông tin cho GV và các nhóm khác.

3. Kết thúc dự án

Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án.

Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm.

Thiet-ke-du-an-hieu-qua-Intel.docx

Vat-ly-THPT-Tap-huan-Day-hoc-kiem-tra-theo-dinh-huong-phat-trien-nang-luc-hoc-sinh-2014.doc

Cac-phuong-phap-day-hoc-tich-cuc.doc

Md18-Phuong-phap-day-hoc-tich-cuc.pdf

Vận Dụng Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án Để Dạy Môn Gdcd

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁNĐỂ DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂNỞ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNGĐào Thị Ngọc MinhTrường Đại học Sư Phạm Hà Nội

1. Mở đầu Đổi mới phương pháp dạy học được coi là tâm điểm của giáo dục Việt nam hiện nay. Dạy học theo dự án là một phương pháp tích cực trong dạy học môn Giáo dục công dân. Phương pháp này không chỉ phát huy tính tích cực học tập mà còn hình thành cho học sinh kĩ năng sống và giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Vận dụng phương pháp dạy học này giúp giáo viên dạy môn Giáo dục công dân khẳngđịnh được vị trí quan trọng của môn học, thay đổi được cách nhìn nhận chưa đúng của xã hội về môn học này. Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học đã và đang được coi là tâm điểm của ngành giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện ở tất cả các cấp học, ngành học, môn học trong đó có môn Giáo dục công dân – một môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, từ trước đến nay, việc giảng dạy môn học này chưa đạt được hiệu quả thực sự bởi nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là sử dụng các phương pháp dạy học chưa phù hợp. Bởi lẽ, môn học này giáo dục cho người học những phẩm chất và kĩ năng sống, do đó việc dạy học đòi hỏi phải có tính thực tiễn cao, trong khi đó phương pháp dạy học được sử dụng lại nặng về truyền thụ lí thuyết, mang nặng tính hàn lâm kinh viện mà thiếu thực tiễn. Nhận thức được vấn đề đó, nhiều giáo viên dạy Giáo dục công dân đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo mục tiêu của dạy học hiện đại là hướng học sinh vào trung tâm. Quá trình đổi mới bước đầu đã mang lại một số kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Phần lớn giáo viên thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng truyền thống, chưa mạnh dạn đưa các phương pháp mới, hiện đại vào dạy học. Hiện nay, trong khi các phương pháp dạy học hiện đại đang được các nước phát triển sử dụng phổ biến thì ở nước ta những phương pháp đó còn hết sức xa lạ và mới mẻ, thậm chí nhiều giáo viên còn không biết đến khái niệm, bản chất của những phương pháp đó như thế nào. Trong những phương pháp dạy học hiện đại thì phương pháp dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học hiện đại, mang tính tích cực cao và rất phù hợp với môn Giáo dục công dân. Vì vậy, làm rõ hơn tính tích cực và khả năng vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học môn Giáo dục công dân sẽ giải đáp được phần nào những trăn trở của giáo viên về phương pháp dạy học này.

Học Tập Theo Dự Án Trong Môn “Phương Pháp Dạy Học Lịch Sử”

HỌC TẬP THEO DỰ ÁN TRONG MÔN “PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ”

SV thực hiện : Trịnh Văn Nam, Đặng Thị Huyền TrangLớp : QH.2004.S Lịch SửGiảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Thanh Tú1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay, cùng với việc đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp dạy học đã trở thành một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng giáo dục. Trong “chiến lược giáo dục đào tạo giai đoạn 2001 – 2010”, phương hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được chỉ rõ: “đổi mới và hệ thống hóa phương pháp dạy học chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động “thầy giảng trò ghi” sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức”, tăng cường hơn nữa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.Tại Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (12/1996) đã nhấn mạnh sử dụng công nghệ thông tin trong dạy và học hiện nay. Học tập theo dự án là một phương pháp học tập mới đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong giáo dục và thể hiện việc ứng dụng hiệu quả công nghệ vào quá trình học tập. Việc phân tích, đánh giá hiệu quả một dự án cụ thể do sinh viên thực hiện trong quá trình học tập môn “Phương pháp dạy học Lịch sử” là cần thiết. Thông qua đó tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của sinh viên trong quá trình thực hiện; đề xuất ý kiến để việc triển khai học tập theo dự án trong môn “Phương pháp dạy học Lịch sử” đạt hiệu quả cao. Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Học qua dự án trong môn phương pháp dạy học Lịch sử” cho báo cáo khoa học của mình.2. Mục đích nghiên cứuKhẳng định vai trò của học tập theo dự án trong việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống cho người học, đặc biệt là đối với sinh viên sư phạm.3. Đối tượng nghiên cứuQuá trình học tập qua việc thực hiện dự án trong môn “Phương pháp dạy học Lịch sử” của sinh viên QH-2004-S Lịch sử.4. Nhiệm vụ nghiên cứuĐể hoàn thành tốt mục đích nghiên cứu đề ra, báo cáo hướng tới việc thực hiện các nhiệm vụ sau:– Nghiên cứu lý luận về dạy học theo dự án: khái niệm, các bước tiến hành, đặc điểm của dạy học theo dự án, ưu và nhược điểm của dạy học dự án…– Phân tích quá trình triển khai dự án trong môn “Phương pháp dạy học Lịch sử”.– Điều tra, kháo sát, tập hợp xử lý số liệu làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả của học tập theo dự án.5. Phương pháp nghiên cứuBáo cáo vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp nghiên cứu lý luận (phân tích, tổng hợp…); điều tra, phỏng vấn, khảo sát6. Kết quả nghiên cứu 6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp dạy học theo dự án; những đặc trưng của môn “Phương pháp dạy học Lịch sử” và vai trò của học tập theo dự án trong môn học, từ đó chỉ ra rằng việc ứng dụng học tập theo dự án hoàn toàn phù hợp với đặc trưng môn học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 6.2. Tổng hợp và xây dựng một bộ sản phẩm dự án trong môn “Phương pháp dạy học Lịch sử” và đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên khóa sau. 6.3. Phân tích quy trình thực hiện học tập theo dự án trong môn học, từ đó đánh giá hiệu qủa của học tập theo dự án qua một dự án cụ thể: – Quy trình thực hiện: Nêu ý tưởng dự án; phân công nhiệm vụ; chuẩn bị dự án; tìm kiếm tài liệu; hoàn thành dự án; công bố sản phẩm dự án; đánh giá dự án và tiến hành rút kinh nghiệm. – Đánh giá hiệu quả dự án qua cơ sở sự đánh giá chung của giảng viên và của người học. Kết quả đánh giá được thể hiện thông qua phiếu đánh giá (ấn phẩm, Power Point, Web, phần trình bày của sinh viên). – Đánh giá ý kiến phản hồi của sinh viên sau khi thực hiện dự án về: Hiểu biết của sinh viên đối với phương pháp dạy học theo dự án; đánh giá về dự án đã triển khai; vai trò của giảng viên, sinh viên và nêu thuận lợi, khó khăn của sinh viên trong quá trình thực hiện dự án. – Đưa ra những đề xuất, kiến nghị để việc triển khai học tập theo dự án trong môn “Phương pháp dạy học Lịch

Skkn Vận Dụng Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án Vào Việc Dạy Học Môn Ngữ Văn Ở Trường Thpt(Áp Dụng Cụ Thể Vào Dạy Học Tác Phẩm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc =====*****=====

1

* Nhược điểm: Có thể nói nhược điểm của phương pháp truyền thống là rất nhiều: – Người học càng ngày càng mất hứng thú học tập; hạn chế, thậm chí triệt tiêu sự sáng tạo, luôn thụ động ghi nhớ kiến thức máy móc. Thực tế cho thấy càng ngày học sinh càng không thích học môn Ngữ Văn. Nếu học chỉ là học thuộc để chống đối với các kì thi. – Kiến thức thu nhận từ các bài học không gắn với thực tế cuộc sống, không phát triển năng lực, kĩ năng sống…cho học sinh. Trong khi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói chung và việc dạy học môn Ngữ Văn trong nhà trường. – Phương pháp cũ cũng không đáp ứng được yêu cầu tích hợp, liên môn theo hướng đổi mới giáo dục hiện nay. 2. Giải pháp mới cải tiến Sau một thời gian vận dụng phương pháp dạy học cũ, tôi và nhiều đồng nghiệp càng nhận ra những mặt hạn chế đã nêu. Với mong muốn cải tiến phương pháp để hiệu quả giảng dạy được tốt hơn, tôi đã tìm hiểu và nhận thấy cần phải tích cực hơn nữa trong việc vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học môn Ngữ Văn. Theo sự tìm hiểu về các phương pháp dạy học, dựa vào đặc thù bộ môn, tôi nhận thấy phương pháp phù hợp nhất, có khả năng khắc phục được hầu hết các nhược điểm của phương pháp truyền thống, có tính khả thi cao chính là phương pháp dạy học theo dự án. 2.1. Khái quát về phương pháp dạy học theo dự án 2.1.1. Khái niệm: Dạy học theo dự án (DHDA) là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của DHDA. 2.1.2 Đặc điểm của DHDA Trong các tài liệu về dạy học dự án có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các nhà sư phạm Mỹ đầu thế kỷ 20 khi xác lập cơ sở lý thuyết cho PPDH này đã nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của DHDA: định hướng HS, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của DHDA như sau: 2

a. Phân loại theo chuyên môn – Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học. – Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau. – Dự án ngoài chuyên môn: Là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học, ví dụ dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường. b. Phân loại theo sự tham gia của người học: dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm HS là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học c. Phân loại theo sự tham gia của GV: dự án dưới sự hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều GV. d. Phân loại theo quỹ thời gian: – Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học. – Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày (“Ngày dự án”), nhưng giới hạn là một tuần hoặc 40 giờ học. – Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (“Tuần dự án”). e. Phân loại theo nhiệm vụ Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án theo các dạng sau: – Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng. – Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình. – Dự án thực hành: có thể gọi là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác. – Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên. Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng. 2.1.4. Tiến trình thực hiện DHDA Dựa trên cấu trúc chung của một dự án trong lĩnh vực sản xuất, kinh tế nhiều tác giả phân chia cấu trúc của dạy học theo dự án qua 4 giai đoạn sau: Quyết định, lập kế hoạch, thực hiện, kết thúc dự án. Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người 4

xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn (giai đoạn kết thúc dự án). 2.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án * Ưu điểm Các đặc điểm của DHDA đã thể hiện những ưu điểm của phương pháp dạy học này. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án: – Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; – Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học; – Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; – Phát triển khả năng sáng tạo; – Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp; – Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; – Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; – Phát triển năng lực đánh giá. * Nhược điểm – DHTDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản – DHTDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống. – DHTDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp. Tóm lại DHDA là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt động và quan điểm dạy học tích hợp. DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học. 2.2. Ứng dụng cụ thể của phương pháp Dựa trên lí thuyết về phương pháp DHTDA, tôi đã ứng dụng trong nhiều bài dạy. Việc vận dụng phương pháp mới này được thể hiện bằng những việc làm cụ thể sau:

6

– Đề xuất được quy trình thiết kế dự án dạy học cho việc dạy học bộ môn Ngữ Văn. – Thiết kế được một số dự án dạy học từ các bài cụ thể trong chương trình. 2.2.1. Quy trình thiết kế dự án dạy học bộ môn Ngữ Văn theo phương pháp DHDA. Chúng tôi đưa ra quy trình khái quát gồm 6 bước như sau: Bước 1:

Xác định nội dung kiến thức có thể hình thành dự án

Bước 2:

Thiết lập dự án (xây dựng dự án sao cho phù hợp với

nội dung và phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng thực hiện của người học)

Bước 3:

Giao nhiệm vụ (Phân chia học sinh thành các nhóm,

giao nhiệm vụ cho từng nhóm, yêu cầu về thời gian, đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể)

Bước 4:

Thực hiện dự án (Học sinh trực tiếp thực hiện dự án,

GV là người hướng dẫn, đôn đốc và giúp đỡ khi cần thiết)

Bước 5:

Trình bày sản phẩm (Tổ chức buổi tổng kết để các

nhóm báo cáo kết quả, sản phẩm)

7

2.2.2 Quy trình tổ chức dạy học văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” tích hợp nghị luận xã hội theo phương pháp DHDA Bước 1:

Xác định nội dung kiến thức có thể hình thành dự án

– So sánh kết quả thực tế với cái nhìn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm để thấy được những giá trị sâu sắc của tác phẩm. – Viết bài thu hoạch theo yêu cầu của bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống. 3) Lập kế hoạch đánh giá: – Phiếu đánh giá về tinh thần, thái độ làm việc. – Phiếu đánh giá về các kĩ năng làm việc: kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng khai thác thông tin, xử lí số liệu… – Phiếu đánh giá chất lượng nội dung công việc: Kết quả thu nhận, so sánh để nhận ra giá trị của tác phẩm, viết bài nghị luận xã hội hoàn chỉnh… Bước 3: Giao nhiệm vụ -Phân chia học sinh thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm (Chia nhóm dựa trên 2 nhiệm vụ: điều tra ở địa phương- Phạm vi xóm, làng; điều tra ở tập thể lớp) – Yêu cầu về thời gian: 2 tuần. – Công bố tiêu chí đánh giá cụ thể Bước 4: Thực hiện dự án – Học sinh trực tiếp thực hiện dự án: + Nhóm thực hiện nhiệm vụ 1: Về các xóm làng nơi cư trú, trực tiếp phỏng vấn người dân để lấy thông tin điền vào phiếu điều tra. Có thể tìm hiểu thêm thông qua trưởng xóm, hội phụ nữ, đoàn thanh niên… + Nhóm thực hiện nhiệm vụ 2: Phát phiếu điều tra tại lớp để các bạn tự điền thông tin. Chú ý không cần khai tên để thông tin khách quan. GV là người hướng dẫn, đôn đốc và giúp đỡ khi cần thiết Bước 5: Trình bày sản phẩm (Tổ chức buổi tổng kết để các nhóm báo cáo kết quả, sản phẩm) – Mỗi nhóm cử đại diện báo cáo kết quả điều tra, cách xử lí, phân tích số liệu, rút ra ưu, nhược điểm, thuận lợi và khó khăn trong quá trình đi điều tra của mình. – Các nhóm nhận xét về kết quả và quá trình điều tra của nhóm còn lại, từ đó rút kinh nghiệm cho mình – Các nhóm phản biện những kết luận của nhóm khác. – Mỗi cá nhân trong nhóm nộp bài viết về tình trạng bạo hành gia đình theo yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội. 9

rất hứng thú với việc mở rộng kiến thức thực tế; thấy yêu môn Văn hơn vì nó thiết thực với cuộc sống hơn… Mỗi tiết học qua đi thật nhẹ nhàng, thoải mái nhưng vẫn hiệu quả với cả thầy và trò. – Về kiến thức: kết quả dự án thể hiện học sinh không chỉ nắm bắt được những nội dung kiến thức mà còn hiểu rộng hơn, sâu hơn nhiều vấn đề. Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề trong nội dung kiến thức. – Kĩ năng sống của các em được nâng cao rõ rệt: Kĩ năng làm việc nhóm; kĩ năng giao tiếp; phương pháp xử lí tình huống, số liệu… – Đặc biệt, với những kiến thức được cung cấp theo phương pháp dạy học mới, học sinh sẽ dễ dàng áp dụng những gì từ tác phẩm văn chương vào trong thực tiễn cuộc sống, làm thay đổi khá nhiều những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, thái độ của các em với mong muốn làm cuộc sống này trở nên tốt đẹp, nhân văn hơn. 4. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG – Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các trường THPT trên nhiều đối tượng học sinh khác nhau và ở các khu vực khác nhau. Đặc biệt, từ năm 2023, phân phối chương trình được xây dựng theo chuyên đề thì càng dễ vận dụng phương pháp dạy học này. CƠ QUAN CHỦ QUẢN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

ĐINH THỊ NAM

11

Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Môn Ngữ Văn

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN

I/ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỔI MỚI KỸ THUẬT ĐÁNH GIÁ, ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN.

Từ xưa tới nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Nếu nói người giáo viên là những “Kỹ sư tâm hồn” thì điều đó đúng nhất đối với các thầy cô giáo dạy văn vì Ngữ văn chính là bộ môn dễ gây xúc động vui, buồn tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người, giúp con người phát huy đầy đủ năng lực phẩm chất để xây dựng cuộc sống.Những năm gần đây việc dạy và học ngữ văn đã và đang trở thành một điểm “nóng” ngày càng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Dư luận (và cả thực tế) cho thấy rằng học sinh hiện nay không thích học văn. Trong trường THCS vẫn tồn tại tình trạng một số học sinh học theo kiểu đối phó, các em lười đọc, lười suy nghĩ về tác phẩm văn học, ngại viết, ngại luyện kỹ năng diễn đạt. TRong lớp 8B tôi đang dạy có 45 học sinh, khi điền vào phiếu trưng cầu ý kiến về thái độ của các em với môn văn như thế nào. Số trả lời “Thích học” là 15 em (33%) “Bình thường” là 22 em (48%), “Thờ ơ” là 08 em (19,0%), “Ghét” 0% (Số liệu này tôi nghĩ chưa sát lắm vì có thể học sinh còn “nể” cô). Tất nhiên việc học sinh ngại học ngữ văn do nhiều yếu tố chi phối (ví dụ sự tác động của xã hội là chọn ngành nghề sau này, song có lẽ phần lớn là do giáo viên chưa có sức lôi cuốn học sinh, phương pháp dạy còn cứng nhắc…). Vì vậy để học sinh thích học ngữ văn có lẽ giáo viên cần thực sự hiểu và thực hiện cuộc vận động “đổi mới phương pháp dạy văn, đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh”. Hiện nay, ngành giáo dục đang triển khai thực hiện đồng bộ đổi mới giữa “nội dung- phương pháp và việc kiểm tra đánh giá” nếu chỉ đổi mới về nội dung- phương pháp dạy mà không đổi mới kiểm tra đánh giá thì cũng vô nghĩa không thẩm định được thực chất kiến thực học sinh, học sinh không phát huy khả năng sáng tạo. Có một thời trước cải cách giáo dục, đề thi kiểm tra môn ngữ văn chủ yếu yêu cầu viết bài nghị luận xã hội, sau đó lại nghiêng hẳn về nghị luận văn học. Cách kiểm tra, đánh giá này dễ tạo ra một dạng “đường mòn” cho “văn mẫu” xuất hiện, học sinh tìm đọc thuộc lòng để sao chép làm mất đi tính sáng tạo. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chương trình cải cách giáo dục đã có nhiều khác biệt so với trước như kiểu kiểm tra trắc nghiệm khách quan và các bài kiểm tra kỹ năng thực hành vận dụng. Mỗi đề kiểm tra bao gồm những câu hỏi nhằm vào nhiều mảng kiến thức kỹ năng mà học sinh đã được học.Từ năm học 2008- 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục điều chỉnh tập huấn cho giáo viên nâng cao hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn.Quá trình đổi mới này đã luyện cho học sinh bớt đi tính thụ động, khuyến khích sự sáng tạo của học sinh bởi việc đổi mới kiểm tra đánh giá hiện nay phải theo các tiêu chí: phạm vi kiến thức phải toàn diện, số câu hỏi cần phải bao quát được phạm vi kiểm tra. Mức độ kiểm tra phải theo chuẩn kiến thức và không nằm ngoài chương trình. Hình thức kiểm tra kết hợp cả trắc nghiệm và tự luận (trừ kiểm tra học kỳ) trong đó trắc nghiệm chiếm ≤ 30%. Với lớp 6, 7 mỗi câu trắc nghiệm từ 0,25 đ- 0,5 đ; với lớp 8, 9 thì khoảng 0,2- 0,25 đ/câu. Đề kiểm tra phải có tác dụng phân hoá, có tính phản hồi, vừa đề cao tính chính xác khoa học vừa có tình khả thi, phần từ luận cần cả đề nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Với đề kiểm tra như vậy sẽ là một trong những cách thức đo được đúng nhất những suy nghĩ của người viết. Và đó cũng là cách tốt nhất để chống việc học tủ, dạy tủ.Đổi mới kiểm tra đánh giá cũng cần đổi mới cả lời phê, cách phê của giáo viên. Điểm số của một bài kiểm tra ngữ văn rất quan trọng nhưng cái quan trọng hơn là thầy cô phải phát hiện những ưu khuyết điểm của bài viết nhằm động viên khuyến khích hoặc nhắc nhở học sinh để lần sau làm bài tốt hơn.Về đổi mới phương pháp dạy văn, Bộ Giáo dục đã đưa ra một số phương pháp đặc thù như đọc sáng tạo, đọc- hiểu, vấn đáp gợi tìm với các dạng cấu trúc câu hỏi như phát hiện, giảng, phân tích liên tưởng và bình… để giúp học sinh tiếp xúc văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn; cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết… dần dần học sinh sẽ tự đọc, hiểu tác phẩm văn học một cách đúng đắn, trách sự thẩm định lệch lạc.Bởi vậy đổi mới phương pháp dạy văn, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn ngữ văn là vô cùng cần thiết và phải làm đồng bộ.

II/ THỰC TRẠNG VIỆC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN VIỆC ĐỔI MỚI, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THCS .1. Ưu điểm:a) Về công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu:– Ngay từ những năm đầu thực hiện thay sách, Ban giám hiệu Trường THCS đã có kế hoạch cụ thể, phân công người dạy theo chương trình mới; cử giáo viên đi học tiếp thu phương pháp dạy học mới theo các đợt tập huấn do Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục tổ chức. Trong suốt các năm học Ban Giám hiệu đều bố trí cử giáo viên đi dự đầy đủ các chuyên đề của Sở, của Phòng.– Trong các kế hoạch đầu năm, kế hoạch tháng, Ban giám hiệu đều đặt mục tiêu phải kiểm tra đánh giá học sinh một cách trung thực, khách quan toàn diện, tránh hiện tượng chạy theo thành tích.– Ban Giám hiệu cũng đã đầu tư, khuyến khích giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học, khuyến khích giáo viên sử dụng công nghệ trình chiếu trong giảng dạy. Lên kế hoạch cho phép các giáo viên bộ môn phôtô đề kiểm tra trắc nghiệm phát đến từng học sinh từ bài kiểm tra 15 phút trở lên.– Chỉ đạo các tổ chuyên môn lập kế hoạch tổ chức các buổi chuyên đề bàn về phương pháp giảng dạy, cách kiểm tra đánh giá học sinh.

2. Tồn tại.a) Đối với Ban giám hiệu: Do phải quan tâm chỉ đạo nhiều công tác khác như làm phổ cập, các cuộc thi do Đảng, đoàn phát động nên có lúc sự kiểm tra của Ban giám hiệu bị ngắt quãng.

b) Đối với giáo viên, học sinh: * Đối với giáo viên:Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung giáo viên vẫn còn tồn tại một số mặt sau:– Tinh thần “Đổi mới” rất tốt nhưng do tư duy cũ đã ăn sâu nên ở một vài giáo viên lối tư duy cũ ấy đã bám rễ nên rất khó thay đổi hoặc thay đổi chậm.VD: Thói quen áp đặt, giáo viên ép học sinh hiểu, cảm thụ tác phẩm văn chương, lý giải vấn đề theo cách hiểu, cảm thụ và lý giải của giáo viên. Trong bài kiểm tra nhất là phần tự luận, nếu học sinh cảm nhận, phân tích không theo ý cô thì bị phê phán, chê trách.– Giáo viên ngại ra đề trắc nghiệm, đề có độ mở vì đáp án cần phải tỉ mỉ, độ chính xác cao phải đưa ra nhiều phương án.– Đôi lúc giáo viên sao nhãng khi chấm bài, ngại chữa, ngại nhận xét, ngại phê trong mục “Lời phê”.– Ngại tìm tòi suy nghĩ: Một vài giáo viên soạn giảng y hệt sách “Thiết kế bài giảng ngữ văn”, không đọc kỹ, không chỉnh sửa… còn lúng túng khi dạy một văn bản dài với thời lượng ngắn (Ví dụ: Tác phẩm Lão Hạc (Ngữ văn 8- tập I), Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ văn 9- tập I), phân phối chương trình chỉ có hai tiết mà giáo viên thường phải kéo sang ít phút của tiết ba).– Chưa chú ý rèn kỹ năng phân tích đề, kỹ năng làm bài cho học sinh đại trà nên khi gặp kiểu câu hỏi khác lạ là học sinh không biết vận dụng để làm, mặc dù hiểu khá kỹ về tác phẩm (VD: Bài kiểm định chất lượng Văn 9 của Phòng giáo dục ngày 12/01/2009).

III/ KẾT QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN:

1. Tác động của việc đổi mới kiểm tra đánh giá đối với người dạy:– Nếu thực hiện tốt đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh thì giáo viên sẽ có sự đổi mới về phương pháp dạy. Hiện nay giáo viên dạy ngữ văn Trường THCS đã hiểu rõ: Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện của thầy. Nếu không phấn đấu, tự vận động thì giáo viên sẽ không đáp ứng được yêu cầu của giáo dục.– Nếu giáo viên không nắm vững kiến thức, không hiểu kiến thức một cách hệ thống từ lớp 6 đến lớp 9 thì không thể ra đề hoặc giảng bài theo hướng tích hợp. Vì vậy tất cả giáo viên dạy ngữ văn của Trường THCS đều đã được lần lượt phân dạy cả bốn khối, do đó tay nghề giáo viên đã được nâng lên.– Tuy nhiên kiểm tra theo kiểu trắc nghiệm cũng gây khó khăn cho giáo viên trong việc luyện các em viết chữ, trình bày.

IV/ NHỮNG KINH NGHIỆM TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH:* Đối với giáo viên:Để chất lượng dạy và học văn ngày một nâng cao, trong giờ lên lớn, người giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp để giúp học sinh phát huy đến mức cao nhất sự suy nghĩ độc lập, tìm tòi khám phá tác phẩm văn chương với sự hứng thú tích cực. Muốn thế người giáo viên cần:– Xuất phát từ “Mục đích, yêu cầu” của bài dạy để chọn cách dạy phù hợp. Dạy học sinh đọc hiểu văn bản là phân tích hình tượng và ý nghĩa ngôn từ của văn bản, thấy được sự thống nhất chặt chẽ giữa nghệ thuật và nội dung. Nội dung chỉ hay và sâu khi hình thức hoàn chỉnh có giá trị thẩm mỹ cao, ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ chắt lọc từ cuộc sống, có giá trị gợi ta, gợi cảm cao. Khi hướng dẫn học sinh phân tích, giáo viên không được áp đặt, không gò ép vào khuôn khổ chật hẹp cứng nhắc, giúp học sinh có thói quen độc lập suy nghĩ tránh sự vay mượn.– Rèn cho học sinh thói quen đọc kỹ tác phẩm, phải thuộc thơ, nhớ những chi tiết của truyện (thuộc trước tiết học thì càng tốt)+ Chú ý phát huy tính tích hợp trong giảng dạy vì nó vừa mở rộng phạm vi tiếp xúc đời sống của văn học, vừa góp phần rèn luyện tính năng động của người học trò. Tuy nhiên dạy tích hợp phải nhuần nhuyễn, uyển chuyển, tránh máy mọc.+ Dạy học theo tinh thần đổi mới là phải có khả năng tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại, tuy nhiên không nên lạm dụng quá nhiều trình chiếu trong dạy văn.+ Đề kiểm tra nếu là trắc nghiệm thì cũng chỉ dừng ở 20% số điểm là bài trắc nghiệm (khoảng 8 câu hỏi) còn lại là bài tự luận (có thể một câu tự luận ngắn, một câu tự luận dài hoặc bằng nhau).+ Giáo viên cần quan tâm đến các dạng câu hỏi, dạng đề, thường xuyên rèn kỹ năng phân tích đề, rèn kỹ năng làm bài cho học sinh.* Đối với học sinh:

V/ NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT:Đối với bài kiểm tra văn khối 9 hiện nay, thời gian dành cho bài kiểm tra là một tiết thì quá ít. Nên chăng cần tăng thêm thời gian để học sinh làm bài.

Đinh Văn Tước @ 07:43 06/03/2009 Số lượt xem: 8086