Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án Môn Ngữ Văn / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án

Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, có thể lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách học của các em. Thông thường học sinh sẽ được làm việc với các chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu sâu nội dung hơn. Các phương tiện kỹ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp học sinh tạo ra những sản phẩm có chất lượng.

Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó HS dưới sự điều khiển và giúp đỡ của GV tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được.

a) Phân loại theo quĩ thời gian thực hiện dự án:

Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 đến 6 giờ.

Dự án trung bình: thực hiện trong một số ngày (còn gọi là ngày dự án) nhưng giới hạn trong một tuần hoặc 40 giờ học.

Dự án lớn: được thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần, có thể kéo dài trong nhiều tuần.

b) Phân loại theo nhiệm vụ:

Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.

Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình.

Dự án kiến tạo: tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện các hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.

c) Phân loại theo mức độ phức hợp của nội dung học tập:

Dự án mang tính thực hành: là dự án có trong tâm là việc thực hiện một nhiệm vụ thực hành mang tính phức hợp trên cơ sở vận dụng kiến thức, kỹ năng cơ bản đã học nhằm tạo ra một sản phẩm vật chất

Dự án mang tính tích hợp: là dự án mang nội dung tích hợp nhiều nội dung hoạt động như tìm hiểu thực tiễn, nghiên cứu lí thuyết, giải quyết vấn đề, thực hiện các hoạt động thực hành, thực tiễn

Ngoài các cách phân loại trên, còn có thể phân loại theo chuyên môn (dự án môn học, dự án liên môn, dự án ngoài môn học); theo sự tham gia của người học (dự án cá nhân, dự án nhóm, dự án lớp…).

Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.

Mang tính phức hợp, liên môn: nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp.

Định hướng hành động: trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.

Tính tự lực của người học: trong dạy học theo dự án, người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của học sin và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.

Cộng tác làm việc: các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng công tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội.

Định hướng sản phẩm: trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.

Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành.

Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS.

HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân.

Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.

Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.

Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.

Dạy học dự án rất thích hợp để tổ chức dạy học các ứng dụng kĩ thuật của vật lí hay vận dụng các kiến thức vật lí để giải quyết các vấn đề thực tiễn.

Dạy học dự án không phù hợp với các bài học đòi hỏi sự trình bày chính xác, chặt chẽ và hệ thống (đại lượng vật lí, định luật, thuyết vật lí).

Bước Hoạt động của GV Hoạt động của HS

1. Chuẩn bị

Xây dựng ý tưởng,

Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập

2. Thực hiện dự án

Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế hoạch.

Tiến hành thu thập, xử lý thông tin thu được.

Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo.

Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần.

Thường xuyên phản hồi, thông báo thông tin cho GV và các nhóm khác.

3. Kết thúc dự án

Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án.

Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm.

Thiet-ke-du-an-hieu-qua-Intel.docx

Vat-ly-THPT-Tap-huan-Day-hoc-kiem-tra-theo-dinh-huong-phat-trien-nang-luc-hoc-sinh-2014.doc

Cac-phuong-phap-day-hoc-tich-cuc.doc

Md18-Phuong-phap-day-hoc-tich-cuc.pdf

Skkn Vận Dụng Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án Vào Việc Dạy Học Môn Ngữ Văn Ở Trường Thpt(Áp Dụng Cụ Thể Vào Dạy Học Tác Phẩm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc =====*****=====

1

* Nhược điểm: Có thể nói nhược điểm của phương pháp truyền thống là rất nhiều: – Người học càng ngày càng mất hứng thú học tập; hạn chế, thậm chí triệt tiêu sự sáng tạo, luôn thụ động ghi nhớ kiến thức máy móc. Thực tế cho thấy càng ngày học sinh càng không thích học môn Ngữ Văn. Nếu học chỉ là học thuộc để chống đối với các kì thi. – Kiến thức thu nhận từ các bài học không gắn với thực tế cuộc sống, không phát triển năng lực, kĩ năng sống…cho học sinh. Trong khi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói chung và việc dạy học môn Ngữ Văn trong nhà trường. – Phương pháp cũ cũng không đáp ứng được yêu cầu tích hợp, liên môn theo hướng đổi mới giáo dục hiện nay. 2. Giải pháp mới cải tiến Sau một thời gian vận dụng phương pháp dạy học cũ, tôi và nhiều đồng nghiệp càng nhận ra những mặt hạn chế đã nêu. Với mong muốn cải tiến phương pháp để hiệu quả giảng dạy được tốt hơn, tôi đã tìm hiểu và nhận thấy cần phải tích cực hơn nữa trong việc vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học môn Ngữ Văn. Theo sự tìm hiểu về các phương pháp dạy học, dựa vào đặc thù bộ môn, tôi nhận thấy phương pháp phù hợp nhất, có khả năng khắc phục được hầu hết các nhược điểm của phương pháp truyền thống, có tính khả thi cao chính là phương pháp dạy học theo dự án. 2.1. Khái quát về phương pháp dạy học theo dự án 2.1.1. Khái niệm: Dạy học theo dự án (DHDA) là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của DHDA. 2.1.2 Đặc điểm của DHDA Trong các tài liệu về dạy học dự án có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các nhà sư phạm Mỹ đầu thế kỷ 20 khi xác lập cơ sở lý thuyết cho PPDH này đã nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của DHDA: định hướng HS, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của DHDA như sau: 2

a. Phân loại theo chuyên môn – Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học. – Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau. – Dự án ngoài chuyên môn: Là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học, ví dụ dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường. b. Phân loại theo sự tham gia của người học: dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm HS là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học c. Phân loại theo sự tham gia của GV: dự án dưới sự hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều GV. d. Phân loại theo quỹ thời gian: – Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học. – Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày (“Ngày dự án”), nhưng giới hạn là một tuần hoặc 40 giờ học. – Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (“Tuần dự án”). e. Phân loại theo nhiệm vụ Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án theo các dạng sau: – Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng. – Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình. – Dự án thực hành: có thể gọi là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác. – Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên. Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng. 2.1.4. Tiến trình thực hiện DHDA Dựa trên cấu trúc chung của một dự án trong lĩnh vực sản xuất, kinh tế nhiều tác giả phân chia cấu trúc của dạy học theo dự án qua 4 giai đoạn sau: Quyết định, lập kế hoạch, thực hiện, kết thúc dự án. Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người 4

xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn (giai đoạn kết thúc dự án). 2.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án * Ưu điểm Các đặc điểm của DHDA đã thể hiện những ưu điểm của phương pháp dạy học này. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án: – Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; – Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học; – Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; – Phát triển khả năng sáng tạo; – Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp; – Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; – Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; – Phát triển năng lực đánh giá. * Nhược điểm – DHTDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản – DHTDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống. – DHTDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp. Tóm lại DHDA là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt động và quan điểm dạy học tích hợp. DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học. 2.2. Ứng dụng cụ thể của phương pháp Dựa trên lí thuyết về phương pháp DHTDA, tôi đã ứng dụng trong nhiều bài dạy. Việc vận dụng phương pháp mới này được thể hiện bằng những việc làm cụ thể sau:

6

– Đề xuất được quy trình thiết kế dự án dạy học cho việc dạy học bộ môn Ngữ Văn. – Thiết kế được một số dự án dạy học từ các bài cụ thể trong chương trình. 2.2.1. Quy trình thiết kế dự án dạy học bộ môn Ngữ Văn theo phương pháp DHDA. Chúng tôi đưa ra quy trình khái quát gồm 6 bước như sau: Bước 1:

Xác định nội dung kiến thức có thể hình thành dự án

Bước 2:

Thiết lập dự án (xây dựng dự án sao cho phù hợp với

nội dung và phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng thực hiện của người học)

Bước 3:

Giao nhiệm vụ (Phân chia học sinh thành các nhóm,

giao nhiệm vụ cho từng nhóm, yêu cầu về thời gian, đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể)

Bước 4:

Thực hiện dự án (Học sinh trực tiếp thực hiện dự án,

GV là người hướng dẫn, đôn đốc và giúp đỡ khi cần thiết)

Bước 5:

Trình bày sản phẩm (Tổ chức buổi tổng kết để các

nhóm báo cáo kết quả, sản phẩm)

7

2.2.2 Quy trình tổ chức dạy học văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” tích hợp nghị luận xã hội theo phương pháp DHDA Bước 1:

Xác định nội dung kiến thức có thể hình thành dự án

– So sánh kết quả thực tế với cái nhìn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm để thấy được những giá trị sâu sắc của tác phẩm. – Viết bài thu hoạch theo yêu cầu của bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống. 3) Lập kế hoạch đánh giá: – Phiếu đánh giá về tinh thần, thái độ làm việc. – Phiếu đánh giá về các kĩ năng làm việc: kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng khai thác thông tin, xử lí số liệu… – Phiếu đánh giá chất lượng nội dung công việc: Kết quả thu nhận, so sánh để nhận ra giá trị của tác phẩm, viết bài nghị luận xã hội hoàn chỉnh… Bước 3: Giao nhiệm vụ -Phân chia học sinh thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm (Chia nhóm dựa trên 2 nhiệm vụ: điều tra ở địa phương- Phạm vi xóm, làng; điều tra ở tập thể lớp) – Yêu cầu về thời gian: 2 tuần. – Công bố tiêu chí đánh giá cụ thể Bước 4: Thực hiện dự án – Học sinh trực tiếp thực hiện dự án: + Nhóm thực hiện nhiệm vụ 1: Về các xóm làng nơi cư trú, trực tiếp phỏng vấn người dân để lấy thông tin điền vào phiếu điều tra. Có thể tìm hiểu thêm thông qua trưởng xóm, hội phụ nữ, đoàn thanh niên… + Nhóm thực hiện nhiệm vụ 2: Phát phiếu điều tra tại lớp để các bạn tự điền thông tin. Chú ý không cần khai tên để thông tin khách quan. GV là người hướng dẫn, đôn đốc và giúp đỡ khi cần thiết Bước 5: Trình bày sản phẩm (Tổ chức buổi tổng kết để các nhóm báo cáo kết quả, sản phẩm) – Mỗi nhóm cử đại diện báo cáo kết quả điều tra, cách xử lí, phân tích số liệu, rút ra ưu, nhược điểm, thuận lợi và khó khăn trong quá trình đi điều tra của mình. – Các nhóm nhận xét về kết quả và quá trình điều tra của nhóm còn lại, từ đó rút kinh nghiệm cho mình – Các nhóm phản biện những kết luận của nhóm khác. – Mỗi cá nhân trong nhóm nộp bài viết về tình trạng bạo hành gia đình theo yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội. 9

rất hứng thú với việc mở rộng kiến thức thực tế; thấy yêu môn Văn hơn vì nó thiết thực với cuộc sống hơn… Mỗi tiết học qua đi thật nhẹ nhàng, thoải mái nhưng vẫn hiệu quả với cả thầy và trò. – Về kiến thức: kết quả dự án thể hiện học sinh không chỉ nắm bắt được những nội dung kiến thức mà còn hiểu rộng hơn, sâu hơn nhiều vấn đề. Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề trong nội dung kiến thức. – Kĩ năng sống của các em được nâng cao rõ rệt: Kĩ năng làm việc nhóm; kĩ năng giao tiếp; phương pháp xử lí tình huống, số liệu… – Đặc biệt, với những kiến thức được cung cấp theo phương pháp dạy học mới, học sinh sẽ dễ dàng áp dụng những gì từ tác phẩm văn chương vào trong thực tiễn cuộc sống, làm thay đổi khá nhiều những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, thái độ của các em với mong muốn làm cuộc sống này trở nên tốt đẹp, nhân văn hơn. 4. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG – Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các trường THPT trên nhiều đối tượng học sinh khác nhau và ở các khu vực khác nhau. Đặc biệt, từ năm 2023, phân phối chương trình được xây dựng theo chuyên đề thì càng dễ vận dụng phương pháp dạy học này. CƠ QUAN CHỦ QUẢN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

ĐINH THỊ NAM

11

Chuyên Đề Phương Pháp Dạy Học Theo Dự Án Và Bước Đầu Thực Nghiệm “Dạy Học Dự Án” Vào Bộ Môn Lịch Sử

- Các dự án thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự phân công và cộng tác làm việc giữa các thành viên. - Làm việc theo nhóm giúp cho sản phẩm chất lượng hơn, tốn ít thời gian hơn vì nó kết hợp và phát huy được sở trường của mỗi cá nhân. - Các dự án đòi hỏi kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên, giữa học viên và giáo viên cũng như với các lực lượng xã hội khác cùng tham gia trong dự án. Nhờ đó, hoạt động trong dạy học dự án có tính xã hội cao. 5. Quan tâm đến sản phẩm của hoạt động - Trong quá trình thực hiện dự án, người ta quan tâm nhiều đến các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm có thể là vật chất, hoặc phi vật chất, một bản thiết kế hoặc một kế hoạch. - Các sản phẩm không chỉ là những thu hoạch thuần túy về lí thuyết mà trong đa số trường hợp, các dự án còn tạo ra những sản phẩm vật chất mang tính xã hội. - Để có một sản phẩm tốt do người học tự làm, giáo viên phải khéo léo điều chỉnh dự án sao cho sản phẩm của dự án là kết quả của quá trình thực hiện một công việc thực tế chứ không chỉ là trình bày lại các thông tin thu thập được. - Giáo viên cùng với người học đánh giá sản phẩm dựa trên tính thực tế, tính hữu ích của sản phẩm và sự kết hợp làm việc giữa các thành viên trong nhóm. - Những sản phẩm đem lại nhiều ích lợi đối với xã hội thường được đánh giá cao. Chúng có thể được công bố, giới thiệu rộng rãi và đưa vào sử dụng trong thực tế. III. Cấu trúc của dạy học dự án: 1. Người học -Người học là trung tâm của dạy học dự án, người học không hoạt động độc lập mà làm việc theo nhóm, đóng vai là những người thuộc các lĩnh vực khác nhau, có nhiệm vụ hoàn thành vai trò của mình theo mục tiêu đã đề ra. -Học sinh( nhóm ) thực hiện dự án bằng việc thực hiện các vai được chỉ định. -Học sinh tự lực triển khai dự án( quyết định cách tiếp cận vấn đề, tự hoạch định và tổ chức các hoạt động nhóm để giải quyết vấn đề ). -Học sinh( nhóm ) thu thập, sử lí thông tin từ nhiều nguồn theo vai đảm nhận để tích lũy kiến thức và nhiều giá trị khác từ quá trình làm việc. -Học sinh tập giải quyết các vấn đề có thật trong đời sống bằng những kĩ năng của "người lớn" như cộng tác và diễn giải. 2. Giáo viên -Từ nội dung bài học hình thành ý tưởng dự án mang tính thực tiễn. -Tạo vai cho học sinh trong dự án, làm cho vai của học sinh gắn với nội dung cần học(thiết kế các bài tập trong dự án cho học sinh) - Tạo môi trường học tập, chỉ dẫn, gợi lên những nghi vấn và thúc đẩy sự hiểu biết sâu hơn của người học. - Hướng dẫn người học tập trung vào tìm hiểu, giải quyết vấn đề và thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của dự án. - Cho phép và khuyến khích người học tự kiến tạo nên kiến thức của họ. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, giáo viên là người hướng dẫn, người tham vấn, người huấn luyện, người bạn cùng học, chứ không phải là "người cầm tay chỉ việc" cho học sinh. 3. Nội dung dạy học Nội dung dạy học được người học tiếp thu trong quá trình thực hiện dự án. Nội dung dạy học cần theo sát chương trình học và có phạm vi kiến thức liên môn. Khi thiết kế dự án, cần phải chọn những nội dung dạy học có mối liên hệ với cuộc sống ở môi trường ngoài lớp học, hướng tới những vấn đề của thế giới thật. 4. Phương pháp dạy học - Trong dạy học dự án người tổ chức có thể phối hợp nhiều PPDH khác nhau: thuyết trình, đàm thoại, nghiên cứu, nêu vấn đề, làm việc theo nhóm - Học tập trong dự án là học tập trong hành động. Vì vậy, người học không tiếp thu thông tin một cách bị động mà là người tích cực giành lấy kiến thức. Như vậy, mỗi bài học đều thật sự hấp dẫn đối với người học vì đó là những vấn đề có thật trong đời sống. 5. Phương tiện dạy học Phương tiện dạy học trong dạy học dự án là sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, máy tính, internet, các phương tiện trình chiếu Người học cần được tạo điều kiện sử dụng công nghệ thông tin khi sản xuất một ấn phẩm, khi trình bày vấn đề... 6. Môi trường và thời gian thực hiện dự án Dự án có thể chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học và có độ dài khoảng 1-2 tiết, hoặc có thể vượt ra ngoài phạm vi lớp học và kéo dài trong suốt năm học. IV. Các hình thức dạy học dự án. 1. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động của dự án - Dự án về giáo dục - Dự án về môi trường - Dự án về văn hóa - Dự án về kinh tế ... 2. Phân loại theo nội dung chuyên môn - Dự án trong một môn học; - Dự án liên môn (nội dung bao gồm nhiều môn học khác nhau); 3. Phân loại theo quy mô Người ta phân ra các dự án: nhỏ, vừa, lớn dựa vào: - Thời gian, chi phí; - Số người tham gia: nhóm, tổ, lớp, trường, liên trường - Phạm vi tác động (ảnh hưởng) của dự án: trong trường, ngoài trường, khu vực K.Frey(học giả hàng đầu về dạy học dự án của Cộng hòa liên bang Đức) đề nghị cách phân chia như sau: - Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học; - Dự án trung bình: thực hiện trong một ngày đến một tuần hoặc 40 giờ học; - Dự án lớn: thực hiện với quỹ thời gian lớn, trên một tuần và có thể kéo dài nhiều tháng. 4. Phân loại theo tính chất công việc - Dự án "tham quan và tìm hiểu"; Ví dụ: Dự án tham quan và tìm hiểu một quy trình sản xuất, dịch vụ (rượu bia, xi măng, đồ gốm); Dự án tham quan và tìm hiểu việc sử dụng khí oxi ở bệnh viện - Dự án "thiết lập một cơ sở sản xuất, kinh doanh"; Ví dụ: Dự án xây dựng một cơ sở xử lí hạt giống (lúa, bắp ); Dự án mở một cửa hàng bán thực phẩm chế biến - Dự án "nghiên cứu, học tập"; Ví dụ: Dự án xác định độ pH của đất trồng; Dự án khảo sát môi trường chăn nuôi, trồng trọt Ví dụ: Dự án tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ môi trường; Dự án giới thiệu cho nông dân cách nuôi trồng thủy sản, sử dụng phân bón hóa học, thuốc phòng trừ sâu bệnh Dự án tiếp thị sản phẩm cho các cơ sở sản xuất (oxi sạch, thuốc trừ sâu, phân bón ). - Dự án "tổ chức thực hiện các hoạt động xã hội". Ví dụ: Dự án trồng và chăm sóc cây xanh; Dự án xây dựng trường học "xanh,sạch, đẹp" V. Qui trình dạy học theo dự án: 1. Dạy học theo dự án được thực hiện theo 5 bước như sau: Bước 1: Chọn đề tài, chia nhóm - Phát hiện những gì tương ứng đã và đang xảy ra trong cuộc sống. Chú ý vào những vấn đề lớn mà xã hội và thế giới đang quan tâm. - Giáo viên phân chia lớp học thành các nhóm, hướng dẫn người học đề xuất, xác định tên đề tài. Đó là một dự án chứa đựng một nhiệm vụ cần giải quyết, phù hợp với các em, trong đó có sự liên hệ nội dung học tập với hoàn cảnh thực tiễn đời sống xã hội. Giáo viên cũng có thể giới thiệu một số hướng đề tài để người học lựa chọn. Bước 2: Các nhóm hình thành đề cương và lập kế hoạch thực hiện. -Giáo viên hướng dẫn người học xác định mục tiêu của dự án. Hình dung nội dung chi tiết và các công việc cụ thể, cách thức thực hiện, các điều kiện cần thiết như: nguồn tư liệu, thiết bị cần thiết, kinh phí, người tham giaDự kiến thời gian, địa điểm triển khai công việc, phân công người thực hiện, dự kiến sản phẩm cần đạt. Tất cả các vấn đề trên được trình bày trong đề cương hoạt động và kế hoạch thực hiện. - Xác định mục tiêu học tập cụ thể bằng cách dựa vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của bài học/chương trình, những kĩ năng tư duy bậc cao cần đạt được. - Việc xây dựng đề cương cho một dự án là công việc hết sức quan trọng vì nó mang tính định hướng hành động cho cả quá trình thực hiện, thu thập kết quả và đánh giá dự án. *Xây dựng đề cương cho một dự án Một bản dự án có các phần chính như sau: TÊN DỰ ÁN I. Tổng quan:- Mục tiêu của dự án- Người thực hiện- Các chuyên gia, cố vấn, tổ chức phối hợp thực hiện - Phạm vi nghiên cứu dự án - Thời gian II. Nội dung dự án: 1. Lí do hình thành dự án 2. Nhiệm vụ của dự án 3. Điều kiện thực hiện dự án: Nguồn lực, các thiết bị và cơ sở vật chất, tài chính 4. Tổ chức thực hiện - Chia nhóm - Thực hiện các công việc được giao - Thu thập số liệu, báo cáo kết quả - Đánh giá sản phẩm - Kế hoạch thực hiện theo thời gian 5. Sản phẩm của dự án - Tiêu chí đánh giá sản phẩm III. Phụ lục: -Các tài liệu học tập và tham khảo - Câu hỏi định hướng người học khi thực hiện và rút ra những kết luận từ dự án. Bước 3: Các nhóm thực hiện nhiệm vụ: -Các nhóm phân công nhiệm vụ cho mỗi thành viên. Các thành viên trong nhóm thực hiện kế hoạch đã đề ra -Thu thập thông tin từ sách báo, tạp chí, internet, khảo sát, điều tra, phỏng vấn, thực địa -Xử lí thông tin: tổng hợp, phân tích dữ liệu. -Xây dựng sản phẩm: tập hợp các kết quả thành một sản phẩm cuối cùng. Bước 4: Thu thập kết quả, giới thiệu sản phẩm trước tập thể lớp. - Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng dạng ấn phẩm (bản tin, báo, áp phích, thu hoạch, báo cáo) và có thể được trình bày trên Power Point, hoặc thiết kế thành trang Web, bản đồ, tranh ảnh, mô hình, đóng vai diễn kịch, kể chuyện - Tất cả học viên cần được tạo điều kiện để trình bày kết quả cùng với kiến thức mới mà họ đã tích lũy thông qua dự án (theo nhóm hoặc cá nhân). - Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm người học, giới thiệu trước lớp, trong trường hay ngoài xã hội. Bước 5: Đánh giá kết quả dự án, rút kinh nghiệm. -Học sinh rút ra những bài học từ việc học theo dự án: đã học được gì? Hình thành được những thái độ tích cực nào? Có hài lòng về kết quả thu được không? Đã gặp những khó khăn gì và đã giải quyết như thế nào? Những cảm nhận của cá nhân sau khi thực hiện xong một dự án. -Giáo viên: đánh giá quá trình thực hiện và kết quả dự án dựa trên những sản phẩm thu được, tính khúc chiết và hợp lý trong cách thức trình bày của các em. Hướng dẫn người học rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. *Có thể tóm tắt qui trình theo sơ đồ sau: Xây dựng ý tưởng dự án Lập kế hoạch dự án, phiếu hoạt động nghiên cứu, thang điểm, đáp án. Tổ chức nhóm, phân vai Triển khai dự án cho học sinh Giao nhiệm vụ cho học sinh Phát tài liệu hỗ trợ cho học sinh Theo dõi, đôn đốc kịp thời Tổ chức thực hiện dự án Xử lí thông tin phản hồi Trình bày sản phẩm Nghiệm thu dự án Góp ý nhận xét Đánh giá, cho điểm Kết quả sản phẩm 2. Những bài học kinh nghiệm để dạy học dự án thành công: - Việc phân chia các bước trong dạy học dự án chỉ có tính tương đối. Trong thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. - Giáo viên phải phác họa trước các ý tưởng cơ bản của dự án. Nếu không bám sát vào mục tiêu dạy học, mục đích của dự án sẽ mơ hồ và kết quả học tập có thể bị hiểu sai. - Hãy để cho nội dung đào tạo định hướng việc lựa chọn và thiết kế dự án. Dựa vào mục đích, mục tiêu và chuẩn kiến thức, kĩ năng; giáo viên sẽ lựa chọn các bài học cần ưu tiên trong chương trình. Khi thiết kế dự án, phải chắc chắn rằng việc lập kế hoạch hành động sẽ giúp cho người học xác định được mục tiêu học tập dự kiến. - Giáo viên nên luôn nhớ rằng mình là người hướng dẫn và hỗ trợ, không làm thay mà là tạo điều kiện cho học viên làm việc. - Giáo viên cần đặt câu hỏi cho người học suy nghĩ và thử thách họ. Nên lựa chọn những câu hỏi định hướng một cách cẩn thận để người học tiếp thu được những kiến thức cần thiết trong chương trình. - Hãy nhớ kiểm tra những kỹ năng cần thiết, kiểm tra tư duy của học sinh. Việc kiểm tra và tự kiểm tra, điều chỉnh cần được thực hiện kịp thời trong tất cả giai đoạn của dự án. - Trong suốt dự án, nên tạo nhiều cơ hội để đánh giá và kiểm soát sự tiến bộ của học sinh. Sau mỗi dự án cần đánh giá và rút kinh nghiệm nghiêm túc cho lần sau có kết quả tốt hơn. VI. Đánh giá dự án 1.Các yêu cầu bắt buộc phải đạt được với một dự án - Dự án phải gắn với nội dung dạy học của chương trình. - Dự án phải gắn với thực tiễn đời sống. - Thiết kế được các hoạt động (việc làm) cụ thể cho người học. - Qua hoạt động của dự án người học tiếp thu được kiến thức của môn học. - Có tính khả thi (phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của người học). - Có các sản phẩm cụ thể. 2. Các tiêu chí đánh giá: đạt: 25-30; không đạt: dưới 25. STT Tiêu chí Điểm Ghi chú 1 2 3 4 5 1 Những kiến thức, kĩ năng thu được sau dự án 2 Lượng kiến thức gắn với môn học trong dự án 3 Tạo điều kiện cho mọi thành viên tham gia 4 Chỉ rõ những công việc người học cần làm 5 Tính hấp dẫn với người học của dự án 6 Phù hợp với điều kiện thực tế 7 Phù hợp với năng lực của người học 8 Áp dụng công nghệ thông tin 9 Sản phẩm có tính khoa học 10 Sản phẩm có tính thực tiễn, thiết thực 3.Một dự án tốt: 1. Nhiệm vụ của dự án phù hợp với khả năng thực hiện của người học. 2. Dự án tập trung vào những nội dung học tập quan trọng, cốt lõi của chương trình. 3. Các nhiệm vụ của dự án kích thích được cảm hứng, say mê của người học. 4. Người học được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để thực hiện công việc có chất lượng tốt. 5. Phát huy tối đa năng lực cá nhân của người học khi họ đảm nhận những vai trò khác nhau và hợp tác làm việc trong các nhóm. 6. Dự án phải gắn với đời sống thực tế của người học. Người học có điều kiện để tiếp xúc với những đối tượng thực tế, các nguồn lực cộng đồng, tham khảo các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu. 7. Kết quả của dự án được thể hiện kết tinh trong sản phẩm của người học. Ngay từ khi triển khai dự án, các kết quả dự kiến phải được làm rõ và luôn được rà soát nhiều lần. 8. Người học có điều kiện thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua báo cáo và sản phẩm. 9.Dự án có các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên. 10. Dự án có sự tham gia của công nghệ hiện đại. Người học được tiếp cận với nhiều công nghệ khác nhau để hỗ trợ việc phát triển kỹ năng tư duy và tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt. VII. Những ưu điểm, hạn chế và khó khăn khi thực hiện dạy học theo dự án 1. Ưu điểm: Các đặc điểm của DHDA đã thể hiện những ưu điểm của phương pháp dạy học này. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án: -Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; -Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học; -Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; -Phát triển khả năng sáng tạo; -Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp; -Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; -Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc(sự hợp tác làm việc nhóm) ; -Phát triển năng lực đánh giá. 2. Hạn chế - Dạy học dự án đòi hỏi nhiều thời gian. Đây là trở ngại lớn nhất, nếu không được bố trí thời gian hoặc giáo viên không có sự linh hoạt thì buộc những người thực hiện phải làm việc ngoài giờ. Điều này lí giải tại sao một phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm như dạy học dự án lại rất khó đi vào thực tiễn dạy học ở nước ta. - Không thể áp dụng dạy học dự án tràn lan mà chỉ có thể áp dụng với những nội dung nhất định trong những điều kiện cho phép. Dạy học dự án không thể thay thế phương pháp thuyết trình trong việc truyền thụ những tri thức lý thuyết hay việc thông báo thông tin. - Dạy học dự án đòi hỏi có sự chuẩn bị và lên kế hoạch thật chu đáo thì mới lôi cuốn được người học tham gia một cách tích cực. - Hoạt động thực hành, thực tiễn khi thực hiện dạy học dự án đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp. - Dạy học dự án khó áp dụng ở cả bậc đại học cũng như trung học, tiểu học. 3. Những khó khăn khi dạy học dự án: * Người học thường gặp khó khăn: - Xác định một dự án, thiết kế các hoạt động và lựa chọn phương pháp thích hợp. - Thiết lập mục tiêu rõ ràng cho các giai đoạn khác nhau của dự án. - Tiến hành điều tra, tìm những câu hỏi để thu thập thông tin một cách khoa học. - Quản lý thời gian, giữ đúng thời hạn cho từng công việc và khi kết thúc dự án. - Phối hợp và hợp tác trong nhóm. * Giáo viên thường gặp khó khăn: - Muốn hiểu đúng và đầy đủ về dạy học dự án. - Thiết kế một dự án vừa gắn với nội dung dạy học vừa gắn với thực tiễn đời sống. - Tổ chức thực hiện, theo dõi dự án, giám sát tiến độ, quản lý lớp học. - Đưa ra phản hồi và hỗ trợ khi cần thiết. - Sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ dự án. - Thiết kế các tiêu chí đánh giá cho một dự án cụ thể. * Một số lưu ý khi dạy học theo dự án. -DHTDA không đơn thuần là "làm thí nghiệm" trong phòng thí nghiệm mà dự án phải gắn với thực tiễn, thời sự hấp dẫn học sinh. -Nội dung dự án phải bám sát chương trình học và mang tính liên môn. -Học sinh phải đối mặt với thách thức của tình huống(mơ hồ, phức tạp, không tiên liệu trước được). -Đảm bảo phát triển các kĩ năng(làm việc theo nhóm, giao tiếp, tư duy bậc cao, tự tổ chức, UDCNTT) cho học sinh. -Dự án có thể chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học và có độ dài khoảng 1 đến 2 tuần, hoặc có thể vượt ra ngoài phạm vi lớp học và kéo dài trong suốt khóa học, năm học. VIII. Kết luận. DHDA ra đời đã lâu và được nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới thường xuyên sử dụng. Nhưng ở Việt Nam, giáo viên và học sinh chỉ mới được tiếp cận và sử dụng phương pháp dạy học này trong những năm gần đây. Trong cách dạy và học mới này, vai trò và nhiệm vụ của cả giáo viên và học sinh điều phải thay đổi. So với phương pháp dạy học truyền thống, sự thay đổi này quá lớn khiến giáo viên và học sinh gặp không ít thách thức và khó khăn. Tuy nhiên, đây là một phương pháp dạy học tích cực, phát huy tối đa tính chủ động và dân chủ của học sinh thông qua việc yêu cầu học sinh thực hiện các dự án mô phỏng với các dự án có thật trong xã hội để lĩnh hội kiến thức bài học. Như vậy phương pháp dạy học này có vai trò rất lớn trong việc thực hiện dạy học tích cực.Có thể khái quát tác dụng của dạy học dự án như sau: Dạy học dự án làm cho nội dung học tập trở nên có ý nghĩa hơn Dạy học dự án góp phần đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi phương thức đào tạo Dạy học dự án tạo ra môi trường thuận lợi cho người học rèn luyện và phát triển Dạy học dự án phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học Dạy học dự án giúp người học phát triển khả năng giao tiếp. B. THỰC NGHIỆM: Vận dụng dạy học theo dự án ở phần "Tác động của cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật lần thứ hai" đối với cuộc sống của con người. -Nhóm I: Tìm hiểu tác động của cách mạng khoa học - kĩ thuật đến cuộc sống của con người. -Nhóm II: Tìm hiểu Việt Nam đã ứng dụng những thành tựu cách mạng khoa học - kĩ thuật vào công cuộc xây dựng đất nước và phục vụ cuộc sống con người như thế nào? -Nhóm IV: Nêu các giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng khoa học - kĩ thuật. Trong các giải pháp đó địa phương, trường, bản thân em đã thực hiện được những giải pháp nào? Bước 2. Các nhóm xây dựng đ

Phương Pháp Vấn Đáp Trong Dạy Học Môn Ngữ Văn

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn

A. Đặt vấn đê I. Lí do chọn đê tài Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã đặt ra từ rất lâu và được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo. Nhưng việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học không phải là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình tiếp thụ và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng tình cảm. Giáo viên(GV) luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh(HS) là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của GV. Chính vì vậy mà phương pháp đó dẫn đến chỗ HS là người thụ động và qúa trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. HS học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, phương pháp dạy học truyền thống không còn thích hợp với mục tiêu giáo dục – đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình sách giáo khoa càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật giáo dục đã ghi : ” Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh ” . Có thể nói cốt lõi của việc đổi mới dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động. Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn mà vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục tiêu cần đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng phương pháp dạy học mới vẫn còn hạn chế . GV chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý HS bài đó như thế nào ? Mục Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

1

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phương pháp mới không phải người GV là người truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ quan mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể HS dưới sự hướng dẫn của GV chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ được tình cảm bản thân. Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn phương pháp thuyết trình; phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề ; phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án … Kết quả của mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Một trong những phương pháp dạy học tích cực đưa lại kết quả cao trong học tập, phát huy được tính chủ thể của HS là phương pháp vấn đáp. Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ thông. Tôi đã quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia sẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong phạm vi nhà trường THPT. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. – Dựa trên một số lí luận cơ bản về triết học, về tâm lí học, về việc đổi mới phương pháp dạy học văn … để đề ra một số biện pháp trong phương pháp dạy học vấn đáp . – Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của HS; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho HS. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi đề xuất một số nhiệm vụ của đề tài: + Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của dạy học vấn đáp (đàm thoại) . + Đề xuất một số biện pháp dạy học vấn đáp trong môn Ngữ Văn. + Thực hiện một số công việc trong phương pháp vấn đáp. Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

2

B. Nội dung CHƯƠNG I : NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN. 1. Cơ sở tâm lí học. Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh mình là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Đây là một trong ba mặt cơ bản của đời sống, của tâm lí con người (Nhận thức – Tình cảm – Hành động). Nhờ có nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh mình mà cả hiện thực của bản thân nữa, không chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên trong, cái sẽ tới và các quy luật phát triển của hiện thực. Mục tiêu của nhà trường phổ thông nói chung và mục tiêu của trường THPT nói riêng là hình thành nhân cách của HS, phát triển toàn diện và trưởng thành về mặt xã hội của HS. Trong nhà trường phổ thông, HS được giáo dục bằng nhiều phương pháp, nhiều ngành học… trong đó bộ môn Ngữ văn được coi là một môn học chủ công trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi của họ. HS là một nhân cách trong chừng mực nào đó mà các phẩm chất xã hội ở đó được phát triển để nó trở thành chủ thể có ý thức đối với mọi hoạt động công ích của mình. Như vậy có nghĩa là một trong những con đường để hình thành và phát triển nhân cách là con đường hoạt động của chính HS. Con đường tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến HS sẽ trở nên vô hiệu hoá nếu như HS không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

3

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn tâm lí, hình thành nhân cách. Chính vì vậy qua giờ học vấn vận dụng phương pháp vấn đáp, HS có dịp bù đắp những tri thức mà mình chưa được biết, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ, để tự mình tiếp nhận và hoàn thiện mình về tư tưởng, đạo đức và hành vi trong học tập và trong cuộc sống. 2. Cơ sở nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người nhưng sự phản ánh này không phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không phải con người nào cũng đều là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Trong nhà trường HS chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; còn khách thể chính là những tri thức kinh nghiệm của nền văn minh nhân loại. Theo cơ sở triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng cái quan trọng là làm ra cái đó như thế nào và bằng cách nào? Đối với môn Ngữ văn HS đến trường để học tập thực chất là để tiếp nhận, chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chương. Vì mục đích ấy, HS tự đọc lấy tác phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt được cái hồn của tác phẩm. GV chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo cho HS những hướng tiếp cận tác phẩm sao cho có hiệu quả nhất, HS từ đó mà tự chiếm lĩnh tác phẩm. Đồng thời cùng với sự chiếm lĩnh tác phẩm ấy, HS dưới những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt của GV mà trình bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Chính vì những vấn đề đó mà rất cần có một giờ học vấn đáp để qua giờ học ấy HS có thể khẳng định họ thật sự là những chủ thể sáng tạo trong quá trình nhận thức bằng chính hoạt động của mình. 3. Cơ sở văn học. Nếu hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; âm nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu, âm thanh…thì hình tượng văn học được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Do lấy ngôn từ làm chất liệu cho nên hình tượng văn học chỉ tác động vào trí tuệ, tâm hồn, tình cảm gợi nên sự liên tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc. Nhờ liên tưởng và tưởng tượng trên những nét tương đồng giữa thế giới âm thanh và hình ảnh, giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình trở thành hiện hình qua phương tiện ngôn ngữ. Thực chất của vấn đề phát huy chủ thể HS trong giờ Ngữ văn là khêu gợi, kích thích và nuôi dưỡng, phát triển ở HS nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

4

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn thức cái mới qua hình tượng, tính cách nhân vật. Và cũng qua đó việc học tác phẩm văn học thực sự trở thành một hoạt động cá thể hoá sâu sắc đi từ nhận thức khách quan hình tượng đến chỗ tự nhận thức; do đó có khát vọng sống và hành động theo nhân vật lí tưởng. Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa GV và HS, giữa HS và GV để qua giờ học ấy thu được kết quả cao hơn và cũng qua giờ học ấy HS có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng thời GV cũng có cơ hội để nắm được trình độ tiếp nhận của HS. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp , tôi nhân thấy : – Một số GV chủ yếu vẫn dạy theo phương pháp dạy học truyền thống: GV sử dụng các phương pháp diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến thức một chiều ; còn HS là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của GV. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm chí căng thẳng, HS tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả giờ học không cao. – Còn một số GV có vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giờ học song chưa hiệu quả, còn hình thức. Chẳng hạn vận dụng phương pháp vấn đáp : GV đặt ra những câu hỏi yêu cầu HS trả lời song chưa tạo ra được không khí tranh luận sôi nổi giữa HS với nhau hay giữa HS với GV. – Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là một số GV nhận thức chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường không đơn thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản, đó là quá trình đối thoại giữa HS, GV và tác giả đằng sau văn bản . Đó là hình thức giao tiếp, đối thoại vượt thời gian, không gian, không phải là truyền thụ một chiều. Bên cạnh đó một số GV vẫn còn nhiều ngộ nhận về lí thuyết và lúng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học vấn đáp . Chẳng hạn các phương pháp đổi mới là gì ? Khi đổi mới phương pháp dạy học thì vai trò của người thầy có bị hạ thấp không ? Câu hỏi như thế nào là đổi mới? Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?….. – Ngoài ra, GV chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây dựng được hế thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của HS, chưa phân loại đối tượng HS trong từng lớp … GV chưa ý thức rõ về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính khoa học, tình trạng GV hỏi một đằng HS trả lời một nẻo hoặc trả lời không đúng trọng tâm yêu cầu. Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

5

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn Chính vì vậy, vần đề vận dụng đổi mới phương pháp dạy và học văn càng được quan tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phương pháp vấn đáp. Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học văn không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp các phương pháp hiện đại. CHƯƠNG III: NỘI DUNG DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI). I. QUAN NIỆM VỀ DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI). 1. Thế nào là phương pháp vấn đáp? Phương pháp vấn đáp là phương pháp trong đó GV đặt ra các câu hỏi để HS trả lời , hoặc tranh luận với nhau và với cả GV, qua đó HS lĩnh hội được nội dung bài học. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác với thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng của người dạy mà được thực hiện bởi hệ thống câu trả lời của người học, dưới sự gợi mở bởi các câu hỏi của người dạy đề xuất. Các câu hỏi này được tổ chức thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tượng HS. 2. Mục đích và yêu cầu của phương pháp vấn đáp Mục đích của phương pháp vấn đáp là nâng cao chất lượng giờ học bằng cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa GV và HS, rèn cho HS lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể. Muốn thực hiện điều đó, đòi hỏi GV phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn, sát đối tượng, xác định được vai trò chức năng của từng câu hỏi, mục đích hỏi , các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống, đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc HS phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Ngoài ra người GV cần dự án các phương án trả lời của HS để có thể thay đổi hình thức, cách thức mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế tắc; tạo hứng thú học tập cho HS và tăng hấp dẫn của giờ học .

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

6

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn 3. Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp. a. Giáo viên trong giờ học vấn đáp. Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trước khi cải cách giáo dục người ta đã từng quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng, cảm thụ còn trò chỉ là những cỗ máy ghi chép. Theo cách dạy học truyền thống, người giáo viên trong giờ học là người quyết định một cách toàn diện chất lượng dạy học và được coi là chủ thể của hoạt động dạy. Thế nhưng, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt người học trước một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay đã thay đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải kết hợp chặt chẽ…phải gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội” giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mời có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi tranh luận của HS. GV phải có trình độ chuyên môn sâu, rộng, có trình độ sư phạm mới có thể tổ chức hướng dẫn các hoạt động của HS. Với giờ đọc – hiểu văn bản Ngữ văn, GV là người điều khiển, hướng dẫn để HS tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Người GV phải chuẩn bị kĩ nội dung bài học như xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ chức dạy học . Đặc biệt là quá trình tổ chức hướng dẫn dạy – học bài mới. GV phải xây đựng được một hệ thống câu hỏi vấn đáp phù hợp với nội dung bài học. Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS và phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt, thiếu hệ thống, đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt HS thâm nhập và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc HS phải suy nghĩ và có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Có thể nói xây dựng được hệ thống câu hỏi vấn đáp có chất lượng có tác dụng gợi dẫn HS thâm nhập khám phá tác phẩm là một nghệ thuật đòi hỏi sự công phu và tài năng thực sự của GV. Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, người GV phải xác định được mức độ, mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng như tính hệ thống, dẫn dắt của môĩ câu hỏi. Cũng phải lưu ý một điều là tùy vào tình huống thực tế, vào đối tượng HS mà người GV có thể thay câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi cho Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

7

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

8

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP – Trong giờ học văn, GV phải là người điều khiển, hướng dẫn để HS tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. HS là một chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm. HS có điều kiện phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay bản thân các em chưa khám phá, bộc lộ hoặc còn rụt rè, lúng túng… Từ đó, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi diễn đạt một vấn đề trước tập thể. – GV cần phải nắm vững bản chất của phương pháp vấn đáp, đặc biệt là phải phân biệt được các loại, mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống, khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của HS, phù hợp với nội dung bài học . Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy có ba phương pháp (mức độ) vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích chứng minh và vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo II.1. Vấn đáp tái hiện : Đây là phương pháp GV đặt ra câu hỏi yêu cầu HS chỉ cần nhớ lại và tái hiện nội dung bài học. Đây là dạng vấn đáp ở mức độ bình thường, không đòi hỏi HS phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào văn bản văn học. Ví dụ 1: GV cho HS tìm hiểu phần tiểu dẫn của đoạn trích Việt Bắc, có thể đặt câu hỏi: Nêu hoàn cảnh ra đời của bài ? HS dựa vào tiểu dẫn trả lời: Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7- 1954, Hiệp định Giơ-nevơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới . Tháng 10- 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi về miền xuôi, nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc. Ví dụ 2: Khi hướng dẫn HS tìm hiểu những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh trongvăn bản Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu) , GV đặt câu hỏi vấn đáp tái hiện : Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn bay bổng trong những cảm xúc thẫm mỹ, đang tận hưởng cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì tiếp theo ngay sau bức tranh ? Tâm trạng người nghệ sĩ khi đó như thế nào? . HS tái hiện : Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo … đứa con thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát…Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

9

N ăm học: 2012- 2013

10

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

11

N ăm học: 2012- 2013

12

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

13

Phương pháp vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn C. KẾT LUẬN Áp dụng phương pháp vấn đáp (đàm thoại) trong dạy học môn Văn ở trường phổ thông là một việc làm cần thiết để nhằm nâng cao chất lượng HS. Phương pháp dạy học nào thì cũng có mặt tích cực và hạn chế của nó. Nhưng nói chung theo phương pháp dạy học mới hiện nay lấy HS làm trung tâm thì việc dạy học theo phương pháp vấn đáp mang lại thành công nhiều hơn. Việc áp dụng phương pháp vấn đáp vào trong dạy học bộ môn Ngữ Văn có tác dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn của HS, rèn luyện kỹ năng, phát huy sáng tạo của HS, phát huy hướng tìm tòi, phát hiện trong quá trình học của HS. Nhưng với phương pháp này đôi khi cũng có hạn chế đối với các lớp HS yếu, dễ gây mất thời gian. Mỗi phương pháp đều có thế mạnh riêng. Người GV là người tổ chức hoạt động dạy và học, vì vậy phải biết tận dụng sức mạnh của mỗi phương pháp để từ đó đạt hiệu quả cao trong học tập và giảng dạy. Có người đã từng nói: Từ trong nước chảy ra sẽ là nước, từ trong máu chảy ra sẽ là máu. Người GV phải biết xuất phát từ cái tâm, sự nhiệt huyết của mình để làm tròn sứ mệnh thiêng liêng kết nối trái tim với trái tim. Trái tim sẽ mách bảo cách dạy sao cho mỗi ngày, mỗi tiết thật sự bổ ích và hấp dẫn. D. Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM. Thực hiện quá trình đổi mới phương pháp dạy học là công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức tâm huyết của mỗi GV chúng ta. Trong quá trình thực hiện, đổi mới đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều cấp độ. Chính vì vậy, tôi xin nêu một vài kiến nghị đề nghị tới các cấp như sau: – Sở giáo dục nên tiếp tục tổ chức các đợt học tập chuyên đề và tập trung nhiều hơn đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và tạo điều kiện để các cụm tổ chức trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và các bộ môn khác trong nhà trường nói chung. – Ban chuyên môn nhà trường tiếp tục tăng cường kiểm tra dự giờ thường xuyên để động viên, thúc đẩy GV đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục. – Tổ nhóm chuyên môn và mỗi người thầy chúng ta cần quan tâm đúng mức tới công việc vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học, không chủ quan Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

14

Lê Thị Hoa

Người thực hiện: Lê Thị Hoa

N ăm học: 2012- 2013

15