Phương Pháp Dạy Học Làm Văn / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Phương Pháp Dạy Học Làm Văn

Song, việc dạy Làm văn hiện nay tồn tại không ít những hạn chế. Từ việc tìm ra những tồn tại, hạn chế, để việc dạy làm văn đạt hiệu quả hơn và đạt được mục tiêu đã đề ra, xin đề xuất một số giải pháp.

Viết là kết quả của việc sử dụng các chiến lược nhằm kiểm soát quá trình tạo lập văn bản, dần dần hoàn thành một văn bản hoàn chỉnh. Đó là một tiến trình gồm nhiều giai đoạn: trước khi viết, viết nháp, chỉnh sửa, biên tập, xuất bản.

Tuy nhiên, hiện nay, hầu như giáo viên không cho học sinh viết đoạn, giáo viên chỉ đánh giá hoạt động của học sinh qua sản phẩm cuối cùng.

Vì vậy, giáo viên cần tạo ra một cộng đồng lớp học và một bầu không khí trong đó học sinh cố gắng làm rõ ý tưởng của mình; làm cho học sinh cảm thấy cần làm việc này. Khi học sinh nộp bài viết, giáo viên nên trao đổi bài giữa các học sinh trong lớp với nhau, thậm chí ngoài lớp để các em đọc bài của nhau, tìm lỗi sai, nguyên nhân và hướng khắc phục. Từ đó, giúp học sinh nhận ra ưu, nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn và nhận được những phản hồi trong tiến trình viết. Việc nhận xét bài lẫn nhau giúp học sinh học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện năng lực tư duy của mình. Tuy nhiên, hoạt động này đòi hỏi giáo viên phải có những tiêu chí đánh giá rõ ràng để những hoạt động này diễn ra đúng hướng và đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, giáo viên có thể sử dụng bài tập chỉnh sửa: chỉnh sửa lỗi chính tả; chỉnh sửa lỗi tập trung vào ngữ cảnh, ngữ nghĩa của văn bản; chữa lỗi về bố cục, chỉnh sửa lỗi phong cách ngôn ngữ để giúp học sinh tạo lập văn bản tốt hơn.

Việc đánh giá bài viết của học sinh cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Đây là hoạt động có vai trò quan trọng trong việc phát triển các khả năng viết của học sinh. Nhưng hiện nay, học sinh viết, nộp, đôi khi nhận được phản hồi chỉnh sửa, đánh giá qua loa của giáo viên, sau đó lại tiếp tục viết với những đề tài mới.

Hầu hết lời phê và cách đánh giá của giáo viên đều hết sức chung chung, chẳng hạn như : “Có hiểu bài”, “Trình bày cẩu thả”, “Cần cố gắng hơn nữa”,”Có nhiều cố gắng”, “Quá sơ sài”, “Chưa có chiều sâu”, “Thiếu kỹ năng làm bài”, “Tài liệu!”, “Có tiến bộ”, “Diễn đạt lủng củng”, “Chưa sáng tạo”, “Diễn đạt chưa trôi chảy”, “Thiếu ý”, “Có cố gắng”, “Có tiến bộ”, “Chưa đủ ý”,…. Nội dung lời phê, cách phê của giáo viên tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của các em. Nội dung lời phê phải khái quát được những ưu khuyết của bài làm thể hiện trên các phương diện: nhận thức đề, bố cục và nội dung bài làm, hình thức bài làm. Từ đó, giúp các em thấy được ưu, nhược ở mỗi bài làm. Lời phê phải gẫy gọn, sáng rõ và thể hiện sự nâng niu trân trọng những kết quả của các em, dù là nhỏ nhất để động viên khích lệ các em.

Vì vậy, giáo viên không nên dùng những lời nhận xét chung chung, chỉ mang tính xếp loại. Khi cho điểm, cần chú ý đến tương quan giữa nội dung lời phê và điểm số. Giáo viên chấm bài làm văn thực chất là đánh giá, là “đo” năng lực nhận thức và vận dụng kiến thức, kỹ năng các phân môn Làm văn, đọc Văn, tiếng Việt của học sinh để giải quyết vấn đề do đề bài đặt ra. Việc đánh giá này được thực hiện bằng “bộ công cụ” là đáp án và biểu điểm cho từng tiêu chí cụ thể trong đáp án mà giáo viên xây dựng trên cơ sở yêu cầu của đề bài. Tương ứng với mỗi lời phê là khoảng điểm nào? Muốn vậy giáo viên phải có đáp án chấm bài để làm cơ sở cho việc giải đáp thắc mắc cho học sinh và nhận xét bài làm. Ngoài ra, do tính đặc thù của bài làm văn là mang dấu ấn cá nhân, thể hiện ở những cảm nhận, phân tích, lý giải, đánh giá vấn đề, nhất là với những học sinh có năng khiếu, nên giáo viên cần quan tâm đến độ mở khi xây dựng đáp án, biểu điểm chấm bài làm văn. Điều đó không chỉ đánh giá đúng năng lực mà còn kích thích sự tìm tòi, bày tỏ quan điểm cá nhân của học sinh, tạo hứng thú cho các em khi đối diện với một đề bài mới, lạ.

Như đã trình bày ở trên, viết là một tiến trình, cho nên, khi đánh giá, giáo viên cũng cần đánh giá, ghi nhận tiến trình tạo lập văn bản của học sinh. Giáo viên khi thu sản phẩm, có thể thu bản nháp và dàn ý. Những điểm cộng nho nhỏ sẽ là nguồn khích lệ, động lực và tạo thói quen tốt, phương pháp học tập tích cực cho học sinh.

Đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng các phương pháp tích cực vào việc dạy học luôn được động viên, khuyến khích áp dụng, nhất là đối với môn Văn, môn học rất “ngán” đối với học sinh. Thế nhưng, trong việc dạy học Làm văn, phương pháp giáo viên sử dụng chủ yếu vẫn là diễn giải. Thầy hoạt động nhiều, ít chú trọng tới việc thực hành. Giáo viên chưa chú trọng phát triển năng lực ngôn ngữ – một trong những năng lực cơ bản và quan trọng nhất trong làm văn. Dạy văn chủ yếu đối phó với thi cử. Mục đích của việc viết văn làkiểm tra những kiến thức đã học. Chủ đề viết lại không gắn liền với thực tế, cho nên, học sinh dựa vào bài văn mẫu, học thuộc lòng chúng để vào viết lại. Gần đây dư luận xôn xao về bài thi học sinh giỏi của em Nguyễn Phi Thanh, lớp 11A18 Trường THPT Việt Đức, Hà Nội: ” Đề bài thi học sinh giỏi năm nay là “Giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nhưng thực sự em không hề thích tác phẩm này, như vậy em có thể viết hay được không? Em có thể chắc chắn rằng trong số 10 học sinh như em thì có 9 người cũng không thích tác phẩm này. Đơn giản bởi vì bọn em không sống trong thời chiến tranh, bọn em không thể rung động trước một bài tế khi mà thực sự bọn em đang sống trong thời bình. Bọn em không quay lưng với lịch sử nhưng có nhiều cách để bọn em hiểu về lịch sử dân tộc…”. Đó là hệ lụy của việc cho đề không gắn với thực tế và quá chú trọng đến việc kiểm tra kiến thức.

Vận dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực vào việc dạy học để tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Một số phương pháp đặc thù khi dạy tạo lập văn bản là sử dụng nhiều bài tập đa dạng về thể loại; trao đổi vai trò trong tiến trình viết; chỉnh sửa; quan sát; phân tích mẫu. Mỗi phương pháp có một những ưu, khuyết điểm riêng, giáo viên phải biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt để đạt hiệu quả cao nhất.

Đa phần giáo viên bám vào Sách giáo khoa, sách thiết kế và dạy theo truyền thống, theo những câu hỏi hướng dẫn của sách giáo khoa để tìm kiến thức mới. Việc bám sát mục tiêu dạy học, chương trình SGK là cần thiết nhưng không phải là duy nhất đúng, cần linh hoạt trong từng bài giảng để đạt đích cuối cùng là dạy viết được một bài văn.

B. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ MỘT TIẾT HỌC LÀM VĂN

PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý BÀI VĂN NGHỊ LUẬN

– Nắm được cách phân tích đề và xác định yêu cầu của đề bài

– Biết cách lập dàn ý bài văn nghị luận.

– Có ý thức và thói quen phân tích đề, lập dàn ý trước khi làm bài.

– Mục đích của việc sử dụng hai phương pháp trên là:

Giúp HS tập trung vào nhiệm vụ học, thay vì phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ tạo lập văn bản và thu nhận những hiểu biết mới về tiến trình viết. HS có cơ hội thu nhận những hiểu biết mới về việc học và làm giàu kiến thức nền.

– GV chia lớp thành 8 nhóm: 4 nhóm thực hiện mẫu (A 1,2,3,4) và 4 nhóm quan sát (B 1,2,3,4 )

– GV yêu cầu 4 nhóm A về đọc trước phần lý thuyết.

– GV cung cấp cho nhóm A thêm một vài thông tin về bài học.

Mục tiêu mà GV xác định là HS phải biết cách phân tích đề, lập dàn ý. Nếu chỉ căn cứ vào những kiến thức và ngữ liệu, những yêu cầu trong SGK thì HS sẽ rất khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức cũng như hình thành những kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý.

Xét về mặt cấu trúc hình thức, đề văn nghị luận có 3 loại chính: đề ba thành phần, đề 2 thành phần và đề 1 thành phần.

Bình về tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu- phê bình Hoài Thanh đã viết:

“Nhật kí trong tù chính là tiếng nói vút lên từ “chỗ tối tăm mù mịt ấy” mà lại là tiếng nói chan chứa tình nhân đạo, nên tự nhiên cũng là tiếng nói bốc trần, tiếng nói bóc tội những bóng tối dày đặc đang đè nặng lên kiếp sống của người ta.”

Qua một số bài thơ tiêu biểu trong Nhật kí trong tù, anh (chị) hãy chứng minh ý kiến trên.

Đề 2 thành phần là loại đề gồm có một thành phần nêu lên vấn đề, thành phần còn lại nêu lên các yêu cầu của đề.

Đề 1 thành phần là loại đề ra đơn giản bằng một ngữ, một câu tỉnh lược hay câu hoàn chỉnh.

Hãy trình bày suy nghĩ của bản thân về cái chết của lão Hạc trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao.

Để xác định chính xác các yêu cầu của một đề văn, việc tiếp cận và phân tích đề phải hết sức thận trọng, không nên vội vàng, hấp tấp. Mặc dù đây là một việc mang tính chất định hướng nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nếu định hướng sai lệch sẽ dẫn đến những lệch lạc khác trong quá trình tạo lập văn bản.

– Trước một đề văn cụ thể, dù ngắn hay dài, trước hết phải đọc kĩ nhiều lần và lưu ý những từ ngữ quan trọng, then chốt. Đó là những từ ngữ biểu đạt những khái niệm cơ bản trong đề, biểu đạt nội dung, bản chất của vấn đề. Có thể lưu ý bằng cách gạch dưới hay khoanh tròn những từ ngữ này.

Có người nói: nhân vật trong tác phẩm văn học nhiều khi thật hơn cả con người thật. Hãy giải thích ý kiến đó.

Ban đầu, bằng trực cảm, có thể cảm thấy có nhiều từ ngữ đáng lưu ý. Nhưng qua suy nghĩ, cân nhắc, nên loại bớt ra, chỉ nên tập trung chú ý đến những yếu tố thật sự quan trọng. Bởi vì nếu không xác định chính xác những yếu tố trọng tâm của đề thì dễ rối trí, lạc hướng.

– Bước tiếp theo là thử giải thích, xác định nội dung ý nghĩa của các khái niệm, các từ ngữ quan trọng và xác định mối quan hệ giữa các khái niệm, từ ngữ, giữa các thành phần, giữa các cú, câu trong đề, đặc biệt là đối với bộ phận nêu vấn đề.

Việc giải thích, xác định ý nghĩa của khái niệm, từ ngữ ở công đoạn này chỉ mang tính chất dò dẫm, dự kiến để tiếp cận chính xác nội dung vấn đề được đặt ra, chứ chưa phải giải thích cặn kẽ, hoàn chỉnh như khi viết một đoạn văn giải thích. Nhưng, không xem thường và bỏ qua. Bởi vì, không xác định được nội dung, ý nghĩa của những từ ngữ quan trọng thì sẽ không nắm bắt đúng nội dung của vấn đề.

Có người nói: nhân vật trong tác phẩm văn học nhiều khi thật hơn cả con người thật. Hãy giải thích ý kiến đó.

thì cần giải thích các khái niệm “nhân vật”, “thật”, “con người thật”. “Nhân vật” phải hiểu theo thuật ngữ chuyên môn, nó biểu đạt khái niệm “nhân vật”, có nghĩa là con người được nhà văn tập trung thể hiện thành hình tượng trong tác phẩm văn chương thuộc thể loại tự sự. Hơn nữa, trong ngôn cảnh, không nên hiểu “nhân vật” theo nghĩa chung chung, mà với nghĩa “nhân vật điển hình” – loại nhân vật được tập trung thể hiện đạt đến mức độ điển hình. “Thật” không nên hiểu theo nghĩa đúng như cái vốn có trong hiện thực, mà phải hiểu là sinh động, sống động, chân thực. “Con người thật” là con người như vốn có ở ngoài đời.

Song song với việc giải thích nội dung, khái niệm, nghĩa của từ ngữ, người làm bài cần lưu ý phân tích, xác định rõ đâu là ý chính, đâu là ý phụ, đâu là mặt trọng tâm, mặt thứ yếu … nhất là đối với những đề có phần nêu vấn đề dài.

Cuối cùng, chúng ta tổng hợp lại, xác định các yêu cầu của đề về nội dung, hình thức, phạm vi sử dụng. Nên xác định cụ thể, rõ ràng từng yêu cầu và ghi ra giấy nháp. Cuối cùng, đối chiếu với đề văn để điều chỉnh hay bổ sung nếu thấy kết quả phân tích có chệch choạc, thiếu sót.

Dàn ý của một bài văn nghị luận gồm những phần như sau:

Muốn có được một dàn ý như trên, người viết phải trải qua một số công đoạn:

– Xác định yêu cầu, phân tích đề.

– Lựa chọn, sắp xếp các luận điểm đã xác định được theo một trật tự nào đó.

– Lựa chọn, sắp xếp các luận cứ trong từng luận điểm.

Khi sắp xếp các luận điểm , luận cứ trong dàn bài, không nên dùng các dấu gạch ngang, gạch thập và dấu chấm trước các đề mục, tiểu mục. Bởi vì các dấu này không phản ánh rõ cấp độ nội dung, dễ gây nhầm lẫn. Cách tốt nhất là nêu các số mục và tự mục. Trong một dàn bài cụ thể, số mục và tự mục đặt trước các đề mục, tiểu mục phải nhất quán và phản ánh rõ cấp độ.

– GV lập Câu hỏi gợi ý, hướng dẫn quan sát nhóm mẫu

– Nhóm có đọc kĩ đề hay không?

– Có chú ý những từ ngữ then chốt trong đề hay không?

– Nhóm đã làm gì để làm nổi bật những từ ngữ then chốt mà nhóm đã xác định?

– Nhóm có giải thích ý nghĩa, khái niệm những từ ngữ then chốt hay không?

– Có xác định rõ đâu là ý chính, đâu là ý phụ, đâu là mặt trọng tâm, mặt thứ yếu trong đề hay không?

– Sau khi nhóm xác định yêu cầu, phân tích đề. thì nhóm thực hiện bước gì tiếp theo?

– Nhóm có tìm ý hay không? Những ý mà nhóm tìm được sắp xếp có hợp logic hay không? Nhóm đã sắp xếp theo trình tự nào?

– Nhóm xác định luận điểm trước hay luận cứ trước? Những luận điểm, luận cứ nhóm xác định có phù hợp với yêu cầu đề bài hay không?

– Sau khi lựa chọn, sắp xếp các luận điểm, luận cứ nhóm có đọc lại và điều chỉnh dàn ý hay không?

– GV yêu cầu các nhóm A phân tích đề và lập dàn ý đề bài.

Tục ngữ có câu: “Lời thật mất lòng.”

“Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Nhiều người tâm đắc với hai câu trên và rút ra phương châm nói năng trong giao tiếp: vì “lời thật mất lòng” nên “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về phương châm nói năng trên.

– Các nhóm B quan sát các bước thực hiện, cách phân tích đề, cách lập dàn ý của các nhóm A, đồng thời đánh giá các hoạt động đó theo phiếu Câu hỏi gợi ý, hướng dẫn quan sát nhóm thực hiện mẫu.

– GV nhận xét, gợi mở và tóm lại vấn đề.

Trong tác phẩm “Tôi đã học tập như thế nào?”, nhà văn M.Gorki viết: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con người.”

Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng kinh nghiệm của bản thân, hãy phân tích một số tác phẩm văn học để làm sáng tỏ ý kiến trên.

– Gọi 1, 2 nhóm lên thuyết trình về cách làm, cách lập dàn ý.

– Các nhóm khác đánh giá, bổ sung dàn ý.

Phương Pháp Dạy Học Tập Làm Văn Ở Thcs

3.Yêu cầu cần đạta)Giáo dục Giúp học sinh hình thành:đức,trí,thể, mĩ(nhân cách) bộc lộ vốn tri thức,vốn sống tư tưởng,tình cảm của mình.Uốn nắn sai lệch cho học sinh ,điều chỉnh cho học sinh một cách chính xác hơn.b)Giáo dưỡng Tập làm văn hệ thống củng cố kiến thức tiếng Việt và văn học.Tập làm văn góp phần bồi dưỡng tâm hồn,trí tuệ để học sinh biết rung động trước cái đẹp,hướng các em tới nhu cầu phát triển thẩm mĩ ……c)Kĩ năng Trong tập làm văn cần được rèn luyện là:kĩ năng phân tích đề,lập dàn ý,dùng từ,đặt câu,dựng đoạn……– Các kĩ năng tạo lập,nói và viết các kiểu văn bản cho đúng với các phong cách chức năng,phong cách khẩu ngữ và phong cách văn hóa.

d)Tư duy Yêu cầu phát triển năng lực tư duy cho học sinh qua năng lực sử dụng ngôn ngữ,giúp học sinh biết tích lũy vốn tri thức,biết đặt ra vấn đề và giải quyết vấn đề,biết huy động vốn tri thức,biết trình bày kết quả tư duy của mình một cách rõ ràng,chặt chẽ có sức thuyết phục.II. chương trình và sách giáo khoa tập làm văn ở THCS.1, chương trình tập làm văn ở THCS.Chương trình tập làm văn ở THCS được thực hiện khi tiến hành CCGD ở cấp học này(1986) và được chỉnh lí năm 1995. cụ thể là:+ Lớp 6 – Trần thuật – Miêu tả – Tập phát biểu cảm nghĩ – Viết thư+ Lớp 7: -Tường thuật – Kể chuyện – Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật văn học – Đơn từ+ Lớp 8: – Chứng minh – Giải thích – Phân tích nhân vật – Biên bản

– Tiêu chuẩn chọn mẫu văn là khi đưa vào mẫu văn nào thi tương ứng vời tiêu chuẩn ấy. b.tổ chức dạy.– Tổ chức cho học sinh quan sát mẫu.Phân tích mẫu bằng xây dựng câu hỏi: Nêu câu hỏi và trả lời, giáo viên nhận xét và đánh giá.Rút ra khái niệm ứng với ghi nhớ trong sách giáo khoa của học sinh. 2. Phương pháp diễn dịch. a. khái niệm: phương pháp diễn dịch trong dạng tlv là đưa học sinh đén thẳng khái niệm trước khi tiếp xúc với mẫu. b. tổ chức dạy.– Tiếp xúc với khái niệm bằng hình thức cho học sinh đọc khái niệm, giáo viên đọc khái niệm hoặc chiếu khái niệm.– Phân tích mẫu để khắc sâu lí thuyết đã học ở trên.C. Phương pháp dạy thực hành.Thực hành trong tập làm văn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc dạy tập làm văn ở THCS.Những yêu cầu và nội dung thực hành trong tập làm văn thường được bố trí xen kẽ với việc học lí thuyết.Cũng có khi yêu cầu thực hành được tách ra thành phần luyện tập, làm bài tập.Mặt khác, những tiết tập miệng,những bài kiểm tra viết thì chủ yếu vẫn là yêu cầu và nội dung thực hành.Có thể thấy chương trình tập làm văn, Sách giáo khoa tạp làm văn THCS đều quan tâm đến vấn đề thực hành :Thực hành trong lí thuyết, thực hành trong rèn luyện kĩ năng và thao tác làm văn. Thực hành sáng tạo bài văn (làm văn).Dù yêu cầu và nội dung thực hành ở mức độ nào,ở kiểu bài nào,ở bước nào trong quy trình học 1 loại văn cũng nên quy về một cách nhìn khái quát, những điều chung nhất, những lưu ý quan trọng khi dạy thực hành làm văn ở THCS là:1.Thực hành làm văn phải dựa trên cơ sở thông hiểu lí thuyết làm văn.-Lí thuyết làm văn là những nội dung, những vấn đề lí thuyết có tính chất định hướng.Thực hành làm văn để củng cố, khắc sâu,khẳng định, tái hiện lí thuyết.-Đối với học sinh,sự thông hiểu lí thuyết chính là việc nắm được các khái niệm về loại văn,về kĩ năng (dàn ý, dựng đoạn ,liên kết đoạn…) 2. Thực hành làm văn phải dựa trên cơ sở hệ thống bài tập làm văn.-Đối với mỗi loại văn trong chương trình, SGK đã xây dựng một hệ thống bài tập gồm: Bài tập tìm hiểu về một loại văn. Bài tập rèn luyện các kĩ năng làm văn. Bài tập tổng hợp.-Việc thực hành làm văn trên cơ sở hệ thống bài tập làm văn trong SGK là học sinh đã có được môi trường giao tiếp.

Luận Văn: Phương Pháp Dạy Học Trong Dạy Học Hóa Học Lớp 10

, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Download luận văn thạc sĩ ngành phương pháp dạy học với đề tài: Sử dụng phương pháp dạy học theo hợp đồng trong dạy học hóa học phần phi kim lớp 10 nâng cao, cho các bạn làm luận văn tham khảo

5. 2.1. Tổng quan phần phi kim hóa học lớp 10 nâng cao…………………………………43 2.1.1. Mục tiêu của phần phi kim lớp 10 nâng cao…………………………………………….43 2.1.2. Nội dung và cấu trúc phần phi kim lớp 10 nâng cao…………………………………45 2.1.3. Hệ thống kiến thức phần phi kim lớp 10 nâng cao……………………………………46 2.2. Sử dụng PPDH theo hợp đồng trong phần phi kim lớp 10 nâng cao…………48 2.2.1. Lựa chọn các nội dung có thể sử dụng PPDH theo hợp đồng phần phi kim hoá học 10 nâng cao………………………………………………………………………………………48 2.2.2. Yêu cầu tổ chức dạy học theo hợp đồng………………………………………………….48 2.2.3. Một số hợp đồng và giáo án các tiết luyện tập …………………………………………50 2.2.4. Một số hợp đồng và giáo án các bài truyền thụ kiến thức mới……………………83 2.3. Các đề kiểm tra………………………………………………………………………………….98 2.3.1. Đề kiểm tra chương 5: Nhóm Halogen……………………………………………………98 2.3.2. Đề kiểm tra chương 6: Nhóm Oxi ………………………………………………………..100 Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM……………………………………………….102 3.1. Mục đích thực nghiệm ……………………………………………………………………..102 3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm……………………………………………………………………..102 3.3. Đối tượng thực nghiệm …………………………………………………………………….103 3.4. Cách thức tổ chức thực nghiệm………………………………………………………….103 3.5. Một số hình ảnh thực nghiệm…………………………………………………………….105 3.6. Kết quả thực nghiệm định lượng………………………………………………………..107 3.6.1. Phương pháp xử lí kết quả thực nghiệm………………………………………………..107 3.6.2. Kết quả các bài kiểm tra ở các trường TNSP …………………………………………109 3.6.3. Xử lí thống kê theo từng bài kiểm tra……………………………………………………117 3.7. Kết quả thực nghiệm định tính…………………………………………………………..125 3.7.1. Kết quả ý kiến từ HS thông qua các bản hợp đồng …………………………………125 3.7.2. Kết quả từ phiếu thăm dò ý kiến của học sinh………………………………………..126 3.7.3. Ý kiến giáo viên tiến hành thực nghiệm………………………………………………..127 3.8. Các bài học kinh nghiệm từ thực nghiệm ……………………………………………129 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………….132 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………….136 PHỤ LỤC

6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bkt : Bài kiểm tra BT : Bài tập CN : Công nghiệp DHTHĐ : Dạy học theo hợp đồng ĐC : Đối chứng Dd : Dung dịch GV : Giáo viên HS : Học sinh HĐ : Hợp đồng KT : Kiểm tra PTN : Phòng thí nghiệm PPDH : Phương pháp dạy học PPDHTHD : Phương pháp dạy học theo hợp đồng PTHH : Phương trình hóa học Soh : Số oxi hóa SĐTD : Sơ đồ tư duy SGK : Sách giáo khoa TN : Thực nghiệm TNSP : Thực nghiệm sư phạm

7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Số giáo viên tham gia điều tra………………………………………………………39 Bảng 1.2. Mức độ sử dụng các PPDH ở trường THPT …………………………………..40 Bảng 1.3. Kết quả thăm dò ý kiến GV về các phương pháp dạy học………………..40 Bảng 2.1. Phân phối nội dung chương trình hóa 10 nâng cao phần phi kim……..45 Bảng 3.1. Các bài tiến hành dạy thực nghiệm ……………………………………………..102 Bảng 3.2. Danh sách các lớp TN và ĐC……………………………………………………..103 Bảng 3.3. Bảng điểm TB kiểm tra HKI và giá trị kiểm định t của các lớp TN …104 Bảng 3.4. Kết quả các bkt trường Phan Bội Châu………………………………………..109 Bảng 3.5. Kết quả xử lí thống kê các bkt trường Phan Bội Châu……………………109 Bảng 3.6. Phân phối tần số, tuần suất và tuần suất lũy tích tổng hợp 3 bkt trường Phan Bội Châu………………………………………………………………………….110 Bảng 3.7. Kết quả xử lí thống kê tổng hợp 3 bkt trường Phan Bội Châu…………110 Bảng 3.8. Phân loại kết quả tổng hợp 3 bkt trường Phan Bội Châu………………..111 Bảng 3.9. Kết quả các bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo ……………………………112 Bảng 3.10. Kết quả xử lí thống kê các bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo ……….112 Bảng 3.11. Phân phối tần số, tuần suất và tuần suất lũy tích tổng hợp 3 bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo ……………………………………………………………..112 Bảng 3.12. Kết quả xử lí thống kê tổng hợp 3 bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo ……………………………………………………………………………………………….113 Bảng 3.13. Phân loại kết quả tổng hợp 3 bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo ……113 Bảng 3.14. Kết quả các bkt trường Lý Thường Kiệt ………………………………………114 Bảng 3.15. Kết quả xử lí thống kê các bkt trường Lý Thường Kiệt………………….115 Bảng 3.16. Phân phối tần số, tuần suất và tuần suất lũy tích tổng hợp 3 bkt trường Lý Thường Kiệt………………………………………………………………………..115 Bảng 3.17. Kết quả xử lí thống kê tổng hợp 3 bkt trường Lý Thường Kiệt……….115 Bảng 3.18. Phân loại kết quả tổng hợp 3 bkt trường Lý Thường Kiệt ………………116 Bảng 3.19. Phân phối tần số, tuần suất và tuần suất lũy tích bkt 15 phút…………..117 Bảng 3.20. Tổng hợp các tham số đặc trưng của bkt 15 phút…………………………..118

8. Bảng 3.21. Phân loại kết quả bkt 15 phút ……………………………………………………..118 Bảng 3.22. Phân phối tần số, tuần suất và tuần suất lũy tích bkt chương 5………..119 Bảng 3.23. Tổng hợp các tham số đặc trưng của bkt chương 5………………………..120 Bảng 3.24. Phân loại kết quả bkt chương 5 …………………………………………………..120 Bảng 3.25. Phân phối tần số, tuần suất và tuần suất lũy tích bkt chương 6………..121 Bảng 3.26. Tổng hợp các tham số đặc trưng của bkt chương 6………………………..121 Bảng 3.27. Phân loại kết quả bkt chương 6 …………………………………………………..122 Bảng 3.28. Tổng hợp các tham số đặc trưng…………………………………………………..123 Bảng 3.29. Phân loại kết quả học sinh………………………………………………………….124 Bảng 3.30. Kết quả điều tra ý kiến HS từ các HĐ của “3 hợp đồng đầu”………….125 Bảng 3.31. Kết quả điều tra ý kiến HS từ các HĐ của “4 hợp đồng sau” ………….125 Bảng 3.32. Kết quả thăm dò ý kiến của HS về nhiệm vụ đã thực hiện ……………..126 Bảng 3.33. Kết quả thăm dò ý kiến của HS về DHTHĐ…………………………………126

9. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Mô hình PPDH phần phi kim lớp 10……………………………………………..45 Hình 2.2. Hệ thống kiến thức chương 5: Nhóm Halogen………………………………..46 Hình 2.3. Hệ thống kiến thức chương 6: Nhóm Oxi………………………………………47 Hình 2.4. SĐTD hướng dẫn HS soạn “bài 33: Luyện tập clo & hợp chất của clo” …………………………………………………………………………………………………51 Hình 2.5. SĐTD hướng dẫn HS soạn “bài 35: Luyện tập chương 5” ……………….62 Hình 2.6. SĐTD hướng dẫn HS soạn “bài 46: Luyện tập chương 6″ ……………….73 Hình 2.7. SĐTD hướng dẫn HS soạn”bài 30: Clo” theo SĐTD ………………………84 Hình 2.8. SĐTD hướng dẫn HS soạn “bài 41: Oxi” ………………………………………88 Hình 2.9. SĐTD hướng dẫn HS soạn “bài 45 phần Lưu huỳnh dioxit”…………….92 Hình 2.10. SĐTD hướng dẫn HS soạn “bài 45 phần Axit sunfuric”………………….96 Hình 3.1. HS đang kí kết hợp đồng……………………………………………………………105 Hình 3.2. GV đang hướng dẫn HS kí kết hợp đồng ……………………………………..105 Hình 3.3. HS thuyết trình bài học theo SĐTD …………………………………………….105 Hình 3.4. HS hoạt động nhóm trong tiết luyện tập……………………………………….106 Hình 3.5. HS nhận phiếu trợ giúp từ GV trong tiết dạy luyện tập ………………….106 Hình 3.6. GV nhận xét các bài làm của các nhóm (hình thức thanh lí HĐ………106 Hình 3.7. HS thích thú với trò chơi ô chữ …………………………………………………..107 Hình 3.8. Đồ thị đường lũy tích tổng hợp 3 bkt trường Phan Bội Châu………….111 Hình 3.9. Biểu đồ phân loại kết quả học tập tổng hợp 3 bkt trường Phan Bội Châu ……………………………………………………………………………………………….111 Hình 3.10. Đồ thị đường lũy tích tổng hợp 3 bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo113 Hình 3.11. Biểu đồ phân loại kết quả học tập tổng hợp 3 bkt trường chuyên Trần Hưng Đạo ………………………………………………………………………………..114 Hình 3.12. Đồ thị đường lũy tích tổng hợp 3 bkt trường Lý Thường Kiệt ………..116 Hình 3.13. Biểu đồ phân loại kết quả học tập tổng hợp 3 bkt trường Lý Thường Kiệt …………………………………………………………………………………………117 Hình 3.14. Đồ thị đường lũy tích bkt 15 phút ……………………………………………….118 Hình 3.15. Đồ thị phân loại kết quả học tập bkt 15phút………………………………….119 Hình 3.16. Đồ thị đường lũy tích bkt chương 5: Nhóm Halogen……………………..120 Hình 3.17. Biểu đồ phân loại kết quả bkt chương 5……………………………………….121 Hình 3.18. Đồ thị đường lũy tích bkt chương 6: Nhóm Oxi ……………………………122 Hình 3.19. Biểu đồ phân loại kết quả bkt chương 6……………………………………….123

10. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chiến lược phát triển về giáo dục đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đã được ghi rõ trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành”. Đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất lượng dạy và học là vấn đề trọng tâm, then chốt hiện nay của ngành giáo dục. Với phương châm “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, người thầy là người tổ chức điều khiển nhằm giúp cho học sinh tiếp thu tri thức một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Kiến thức học sinh lĩnh hội được phải do chính học sinh tự vận động, tư duy, sáng tạo trong quá trình học tập chứ không phải do thuộc lòng từ kiến thức mà người thầy truyền đạt. Sự thành công của việc dạy học phụ thuộc rất nhiều vào PPDH được giáo viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tuỳ thuộc vào PPDH cụ thể trong dạy học thì kết quả sẽ khác nhau về mức độ lĩnh hội các tri thức sự phát triển của trí tuệ cùng các kĩ năng tư duy, phương pháp nhận thức, giáo dục đạo đức và sự chuyển biến thái độ hành vi. Như vậy các PPDH phải phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học. Tuy nhiên mỗi học sinh đều có những phong cách học tập khác nhau. Làm thế nào để giúp học sinh học sâu, hiệu quả học tập bền vững, tăng cường hợp tác giữa học sinh với học sinh, học sinh được tham gia ở mức cao nhất và có cảm giác thoải mái, cho phép phân hoá nhịp độ và trình độ của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh được giao và thực hiện trách nhiệm? PPDHTHĐ là phương pháp được nghiên cứu dựa trên quan điểm “Dạy học phân hoá” sẽ trả lời được những yêu cầu trên.

11. 2 Trong PPDHTHĐ, học sinh làm việc theo một gói các nhiệm vụ trong khoảng thời gian nhất định. Học sinh được quyền chủ động và độc lập quyết định chọn nhiệm vụ (tự chọn), quyết định thời gian cho mỗi nhiệm vụ. PPDHTHĐ sẽ tạo ra không khí cởi mở, cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập. Hơn nữa, nó giúp cho học sinh phát huy được tính sáng tạo, khám phá và tìm ra nội dung kiến thức mới. Đặc biệt, với phương pháp này cũng sẽ rèn luyện cho mỗi học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học và có trách nhiệm hoàn thành với nhiệm vụ được giao. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn hóa học ở nhà trường phổ thông, với mong muốn sử dụng có hiệu quả các PPDH theo hướng đổi mới. Chúng tôi muốn phức hợp PPDHTHĐ cùng một số PPDH tích cực khác vào quá trình dạy học nhằm phát huy tính tích cực của HS, với mục đích nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Với những lí do này và trong khoảng thời gian có hạn chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Sử dụng PPDH theo hợp đồng trong dạy học hóa học phần phi kim lớp 10 nâng cao. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu và vận dụng PPDHTHĐ vào quá trình dạy học hóa học theo quan điểm dạy học phân hóa, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn hóa học lớp 10 phần phi kim. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu – Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài: Các quan điểm dạy học phân hóa, dạy học theo hướng dạy học tích cực và PPDHTHĐ. Điều tra thực trạng dạy học hóa học theo PPDDHTHĐ và các PPDH tích cực khác ở các trường THPT trong tỉnh Bình Thuận. – Nghiên cứu nguyên tắc lựa chọn PPDHTHĐ kết hợp với các PPDH tích cực khác trong dạy học hoá học ở phổ thông. – Đề xuất quy trình dạy học theo hợp đồng, trên cơ sở đó lựa chọn các kiểu bài học, các nội dung có thể sử dụng PPDHTHĐ trong dạy học phần phi kim lớp 10 chương trình nâng cao.

14. 5 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan về phương pháp dạy học theo hợp đồng 1.1.1. Trên thế giới [34, 35] Từ những năm 1970, ở Mỹ các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra mô hình dạy học “phong cách học tập” (Learning styles). Mô hình dạy học này đặc biệt chú ý đến khả năng học tập khác nhau của mỗi cá nhân, giúp cá nhân nhận ra và hiểu các phong cách học của riêng của mình. Từ đó cá nhân có thể sử dụng các phương pháp học tập phù hợp hơn cho chính mình. Điều này cải thiện tốc độ và chất lượng học tập của từng cá nhân. Đến năm 1978 GS. Rita Dun and Kenneth Dun cùng các đồng nghiệp đã triển khai ở trường Đại học và đã cho ra đời cuốn sách: “Dạy sinh viên thông qua phong cách học tập cá nhân của họ” và đã được nhiều trường đại học ở Mỹ triển khai có hiệu quả. Trong khi đó năm 1974 cũng theo quan điểm đó GS Carol. Ann Tomlinson ở trường đại học Virginia – Mỹ đã đưa ra một quan điểm “Lớp học phân hoá” (The differentiated classroom). Lớp học phân hoá là phương pháp dạy học đặc biệt cho mỗi cá nhân để có thể học tập một cách sâu sắc, người học khác nhau sẽ có phương pháp học tập khác nhau. Tiếp cận mô hình này, Malcolms Knowles đã viết cuốn sách: “Using learning contract” 1986. Theo ông, học tập hợp đồng là “kế hoạch học tập”, “cam kết học tập”, “thỏa thuận học tập” hay “tự phát triển kết hoạch”. Webster (1991) học tập hợp đồng như là một thỏa thuận giữa một sinh viên và cơ sở giáo dục hoặc giảng viên tiếp thu kiến thức có hệ thống. Học tập hợp đồng đã nhanh chóng được nhiều nước ở châu Âu (trong đó có Bỉ) triển khai mạnh mẽ cho đến bây giờ và có hiệu quả tốt. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là vấn đề của ngành giáo dục mà còn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Trong quá trình thực hiện đổi mới, chúng ta đã nhận được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Chính phủ Vương quốc Bỉ với 2 Dự án hỗ trợ cho các tỉnh miền núi phía Bắc thực hiện đổi mới PPDH theo định hướng áp dụng phương pháp

19. 10 1.2.2. Một số mô hình đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam 1.2.2.1. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm [24, tr. 8] Quan điểm “lấy HS làm trung tâm” ra đời là sản phẩm trí tuệ của nhiều nhà sư phạm, tiêu biểu là nhà sư phạm người Mỹ J.Dewey, với mong muốn phá vỡ lối học trung cổ còn ngự trị trong xã hội. Tư tưởng của quan điểm này là muốn bổ sung nguồn kiến thức cho HS ngoài SGK và lời giảng của GV, trong đó đề cao hoạt động đa dạng của HS kể cả những hoạt động gắn với đời sống. Bởi vì, dạy học không chỉ là công việc truyền thụ một khối kiến thức mà còn là sự phát triển một số kỹ năng cho người học. Đó là những điều hấp dẫn, hứng thú, đáng chú ý ở tư tưởng J.Dewey. – Nhà sư phạm Mỹ Bruner cho rằng lấy hứng thú từ chính HS làm xung lực cho dạy học là phi lý. Hứng thú – theo ông chỉ có được từ tài liệu học tập, bằng cách hình thành việc học tập như một hành vi khám phá. – Nhà sư phạm Roger Galles cũng cho rằng: làm sao để có thể đòi hỏi HS một sự cố gắng sáng tạo cá nhân, để GV đưa HS đến sự khám phá độc lập những tình huống khác nhau, khơi dậy ở trẻ tinh thần nghiên cứu. – Nền giáo dục phương tây đã chuyển mạnh sang dạy học cá biệt hóa với nhiều công trình của Bruchet, của Femand Mory. – Hai nhà tâm lý học người Mỹ nổi tiếng là Skinner và Krayder đã cho ra đời “sự vận dụng lý thuyết hành vi trong dạy học”. Chương trình này được xây dựng từ những mẫu, những phần bài tập làm theo những câu trả lời và Skinner khẳng định rằng tính đơn giản và tính đúng đắn của các câu trả lời là sự cổ vũ cần thiết cho việc học tập có kết quả. – Xét trong lịch sử dạy học của nước ta, nhân dân ta bên cạnh truyền thống “tôn sư trọng đạo” thì bao giờ cũng gắn liền với truyền thống “quan tâm đến học sinh”. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần IX tháng 4 năm 2001 đã ghi: Phát huy tư duy khoa học và sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu của HS và sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính qui và không chính qui, thực hiện “giáo

20. 11 dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Thực hiện phương châm ” học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”. Đặc trưng cơ bản của “dạy học lấy HS làm trung tâm” là coi người học vừa là mục đích vừa là chủ thể của quá trình học tập, để người học tham gia tích cực vào hoạt động học, huy động kinh nghiệm và nguồn lực của họ, tôn trọng nhu cầu và mong muốn của họ, để họ tự lực hiện thực những tiềm năng của bản thân nhằm phát triển năng lực sáng tạo, giải quyết những vấn đề của đời sống thực tế. Trong dạy học lấy HS làm trung tâm thì vai trò tích cực chủ động, sáng tạo của người học được phát huy nhưng vai trò người dạy không hề bị hạ thấp mà trái lại còn yêu cầu cao hơn nhiều. GV phải có trình độ chuyên môn sâu, trình độ sư phạm lành nghề, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể đóng vai trò là người gợi mở, hướng dẫn trong các hoạt động độc lập của HS, đánh giá tiềm năng của mỗi em, chuẩn bị tốt cho các em tham gia phát triển cộng đồng, đó chính là cốt lõi của tinh thần nhân văn trong kiểu dạy học hướng vào người học. 1.2.2.2. Dạy học hoạt động hóa người học (hay dạy học bằng hoạt động) Bản chất của việc đổi mới PPDH theo hướng hoạt động hóa người học đó là: – Tổ chức cho người học được học tập trong hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo. – Việc rèn luyện phong cách “học tập sáng tạo” là cốt lõi của việc đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và PPDH nói riêng. “Lý thuyết về vùng phát triển gần” của Vưgôtxki cho rằng, chỗ tốt nhất của sự phát triển của trẻ em là vùng phát triển gần. Vùng đó là khoảng cách giữa trình độ hiện tại của HS và trình độ phát triển cao hơn cần vươn tới. Nói một cách hình ảnh là chỗ trống giữa nơi mà con người phải giải quyết vấn đề đang đứng và nơi mà họ phải đạt đến và có thể thực hiện được với sự cố gắng nỗ lực của bản thân dưới sự giúp đỡ của người lớn hay của những người ngang hàng nhưng có khả năng hơn một chút. Không có con đường logic để vượt qua chỗ trống đó, nhưng hoàn toàn có khả năng thu hẹp chỗ trống đó đến mức thích hợp để mỗi người có thể thực hiện một bước nhảy vượt qua được. Tuy nhiên, cũng phải dũng cảm tự lực thực hiện một

21. 12 số lần (có thể thất bại) sau đó mới có kinh nghiệm thực hiện được mau lẹ, vững chắc hơn, thực hiện những bước nhảy xa hơn. Đó là thực chất của việc rèn luyện phong cách học tập sáng tạo”. Cách tốt nhất để hình thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo của HS là đặt họ vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, thông qua hoạt động tự lực, tự giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo và hình thành quan điểm đạo đức. Đồng thời chúng ta phải giải quyết tốt hai nhiệm vụ đào tạo về mặt trí tuệ: – Thứ nhất: Trang bị cho HS những kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại, kỹ năng sử dụng chúng thành thạo. Thời gian học ở trường có hạn, không đủ để học hết những kiến thức cần thiết. Do vậy GV phải chú ý dạy cho HS cách học thông qua toàn bộ quá trình dạy học để các em biết cách tự học khi đang học ở trường và sau này tự học suốt đời. – Thứ hai: Phải rèn luyện một cách có hệ thống cho HS từ khi còn nhỏ để mỗi cá nhân phải tìm được con đường riêng, sáng tạo ra được một phương pháp mới phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình. Ngày nay, học tập và sáng tạo không phải là hai hoạt động tách biệt mà là hai mặt của một quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau. Học không phải chỉ là tiếp thu kinh nghiệm đã có sẵn của nhân loại mà chính là sáng tạo lại cho bản thân mình. Bởi vậy, dấu hiệu cơ bản của cách học tập mới là hoạt động sáng tạo và phát triển. 1.2.2.3. Quan điểm về lý thuyết dạy học phân hóa trong lớp học [17, tr. 86] a) Dạy học phân hoá là gì? Trong lịch sử giáo dục, học sinh là một danh từ chung chỉ những người tiếp thu sự giáo dục của giáo viên, không phân biệt người này với người khác: Lớp học là một tập thể học sinh đồng nhất, chỉ gồm học sinh cùng một trình độ, cùng một độ tuổi,…cùng nhằm một mục tiêu chung. Ngày nay, phương pháp dạy học tập thể hoá đó đã bị lung lay. Hiện nay, người ta lại quan tâm đến cá nhân người học và việc học trên bình diện tổ chức (từ giai đoạn tiểu học đến đại học,…) cũng như trên bình diện giáo dục (lấy học sinh làm trung tâm, dạy học cá nhân hoá, dạy học phân hoá,…).

22. 13 Để tăng hiệu quả của việc dạy học, chúng ta có thể “chia” người học thành nhiều “bộ phận” khác nhau để có cách dạy học phù hợp với từng “bộ phận” – đây chính là dạy học phân hoá. Theo từ điển Tiếng Việt, phân hoá là chia ra thành nhiều bộ phận khác hẳn nhau. Có nhiều tiêu chí để “chia” người học, chẳng hạn như chia theo lứa tuổi, chia theo giới tính, chia theo dân tộc, chia theo địa bàn cư trú,… Ở đây, chúng tôi chỉ gới hạn trong việc chia theo năng lực và nhu cầu của người học. Theo chúng tôi Nguyễn Bá Kim: “Dạy học phân hóa xuất phát từ sự biện chứng của thống nhất và phân hóa, từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu dạy học đối với tất cả mọi học sinh, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân”. Quá trình dạy học trong nhà trường hướng tới các đối tượng học sinh rất đa dạng, với những khác biệt về năng lực, sở thích, nguyện vọng, điều kiện học tập,… Do đó, dạy học theo một chương trình giống nhau với cách thức tổ chức dạy học như nhau cho tất cả mọi đối tượng học sinh là không phù hợp với yêu cầu phát triển của từng người học. Trong dạy học, cần phải xuất phát từ tình hình thực tế học sinh, dựa vào đặc điểm phát triển tâm lý, dựa vào vốn hiểu biết của các em, dựa vào mặt mạnh, mặt yếu của các em mà tìm cách dạy thích hợp. Bởi vậy, dạy học phân hóa phải tính đến trình độ phát triển khác nhau, đến đặc điểm tâm lý khác nhau của mỗi học sinh, làm cho mọi học sinh có thể phát triển phù hợp với năng lực và nhu cầu của mình. Dạy học phân hóa cách thức dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, nhu cầu, nhận thức, các điều kiện học tập nhằm tạo ra những kết quả học tập và sự phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng trong giáo dục, tức là đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học. b) Tại sao phải dạy học phân hoá Dạy học phân hoá là cần thiết bởi những lí do chủ yếu sau: – Dạy học phân hoá góp phần đáp ứng yêu cầu đào tạo và phân công lao động xã hội để mỗi thành viên đóng góp hiệu quả nhất trong công việc trên cơ sở đã được chuẩn bị tốt theo định hướng từ nhà trường. Đây thực chất là đáp ứng yêu cầu phân

23. 14 luồng lao động của xã hội mà nhà trường phải thực hiện. – Dạy học phân hoá phù hợp với quy luật phát triển nhận thức và hình thành các đặc điểm tâm lí của học sinh. Ngay từ những lớp cuối của trung học cơ sở, học sinh đã bộc lộ rõ thiên hướng, sở trường và hứng thú đối với những lĩnh vực kiến thức, kỹ năng nhất định. Trong cuốn “Dạy học phân hoá đối với học tập đa dạng” năm 2003, C.A.Tomlinson đã chỉ ra rằng HS chỉ học khi nhiệm vụ học tập đã đặt ra thật sự có chút khó khăn cần phải vượt qua. Nếu nhiệm vụ quá khó khăn đối với một HS nào đó, bộ não của họ sẽ chuyển sang giai đoạn ức chế để bảo vệ khỏi bị hại. Nếu nhiệm vụ học tập quá dễ dàng, sẽ làm người học buồn chán, khi đó bộ não sẽ hoạt động như giai đoạn đầu của giấc ngủ. Sự cam kết, tích cực học tập của HS chỉ được tăng lên khi các hoạt động học tập hấp dẫn, thú vị. – Dạy học phân hoá ở trung học phổ thông là cần thiết và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Hiện nay hầu như không còn nước nào dạy học theo một chương trình và kế hoạch duy nhất cho mọi học sinh trung học phổ thông. Như vậy việc tổ chức cho HS trong lớp (có khả năng, phong cách, hứng thú và mức độ tiến bộ riêng) học tập theo cách phù hợp để đạt được mục tiêu giáo dục đã đặt ra có ý nghĩa nhân văn cao; đảm bảo quyền được tiến bộ và phát triển của con người. Dạy học phân hoá chính là một chiến lược giúp mọi HS có thể học tích cực dựa trên năng lực của mình. Nói cách khác, việc tổ chức cho HS học phân hoá là con đường nâng cao tính hiệu quả của quá trình dạy học. 1.2.2.4. Mô hình dạy học hóa học tích cực Mô hình dạy học tích cực có sự tương tác hai chiều giữa GV ↔ HS và HS ↔ HS, trong đó người GV đóng vai trò thiết kế hoạt động, là người cố vấn, giúp đỡ HS khi cần thiết. Ngược lại, HS trở thành chủ thể của hoạt động nhận thức, tích cực hoạt động để tìm ra kiến thức mới. Việc đánh giá HS dựa trên sự hứng thú học tập, hiểu và vận dụng được các kiến thức đã học.

24. 15 1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực và kĩ thuật sơ đồ tư duy 1.3.1. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực [3, tr.12] Phương pháp dạy học tích cực là các phương pháp dạy học hướng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học dưới sự tổ chức, điều khiển và định hướng của người dạy nhằm đạt được kết quả tối ưu của quá trình hoạt động nhận thức. Bản chất của PPDH tích cực cũng là xuất phát từ quan điểm dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Dạy học tích cực đồng nghĩa với việc học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. 1.3.2. Những điểm đặc trưng của PPDH tích cực – Đặt trọng tâm vào hoạt động của người học. – Coi trọng hoạt động tổ chức, điều khiển của giáo viên. – Các mối quan hệ tương tác thầy – trò, trò – trò phong phú và đa dạng. – Tính vấn đề cao của nội dung dạy học. – Mang lại kết quả học tập cao. 1.3.3. Một số phương pháp dạy học tích cực 1.3.3.1. Phương pháp dạy học nêu vấn đề [8, tr. 329], [3], [24] Dạy học nêu vấn đề (hay dạy học đặt và giải quyết vấn đề) không phải là phương pháp riêng biệt mà là một tập hợp nhiều phương pháp kết hợp chặt chẽ với nhau, trong đó phương pháp xây dựng tình huống có vấn đề và dạy học sinh giải quyết vấn đề giữ vai trò trung tâm, gắn bó các phương pháp dạy học khác trong tập hợp. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề có khả năng thâm nhập vào hầu hết các phương pháp dạy học khác và làm cho tính chất của chúng trở nên tích cực hơn. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề sẽ góp phần nâng cao tính tích cực tư duy của học sinh, gắn liền hai mặt kiến thức và tưu duy, đồng thời hình thành cho học sinh nhân cách có khả năng sáng tạo thực sự, góp phần rèn luyện trí thông minh cho học sinh. Mỗi một phương pháp dạy học đều phải xem xét khả năng sử dụng tình huống có vấn đề ở giai đoạn tương ứng của việc lĩnh hội kiến thức.

25. 16  Tổng quan về dạy học nêu vấn đề a) Khái niệm: Dạy học nêu vấn đề nằm trong hệ PPDH tích cực với quan điểm học sinh là trung tâm quá trình dạy học. Dạy học nêu vấn đề là PPDH phức hợp, mà ở đó giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề thông qua đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Dạy học nêu vấn đề là tổ hợp những PPDH phức hợp, tức là một tập hợp gồm nhiều PPDH liên kết với nhau, trong đó phương pháp xây dựng tình huống có vấn đề giữ vai trò trọng tâm, chủ đạo, gắn bó với PPDH khác thành một phương pháp toàn vẹn. Bản chất của dạy học nêu vấn đề là giáo viên đặt ra trước học sinh những vấn đề của khoa học và tạo điều kiện cho họ nhận thấy con đường giải quyết vấn đề đó; việc điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh được thực hiện theo cách tạo ra một hệ thống các tình huống có vấn đề, những điều kiện đảm bảo việc giải quyết những tình huống đó và những chỉ dẫn cụ thể cho học sinh trong quá trình giải quyết vấn đề. b) Đặc trưng của dạy học nêu vấn đề Dạy học nêu vấn đề có 3 đặc trưng cơ bản: – Giáo viên đặt ra trước học sinh một loạt những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải tìm, nhưng chúng được cấu trúc lại một cách sư phạm gọi là bài toán nêu vấn đề ơrixtic. – Học sinh tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán như mâu thuẫn của nội tâm mình và được đặt vào tình huống có vấn đề, tức là trạng thái có nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải quyết bằng được bài toán đó. Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức được học sinh chấp nhận như một vấn đề học tập mà học sinh cần và có thể giải quyết được, qua đó mà họ nắm được kiến thức mới. – Trong và bằng cách tổ chức giải bài toán ơrixtic mà học sinh lĩnh hội một cách tự giác và tích cực cả kiến thức, cả cách giải và do đó có được niềm vui sướng của

26. 17 sự nhận thức sáng tạo. c) Các mức độ của dạy học nêu vấn đề Tùy theo trình độ của học sinh, có thể thực hiện dạy học nêu vấn đề theo các mức độ sau: – Giáo viên thực hiện toàn bộ quy trình (phương pháp thuyết trình ơrixtic). – Cả thầy và trò cùng thực hiện quy trình (phương pháp đàm thoại ơrixtic). – Học sinh tự lực thực hiện quy trình (phương pháp nghiên cứu vấn đề hay nghiên cứu ơrixtic). Các PPDH như diễn giảng, đàm thoại, thí nghiệm chúng tôi kiểu nêu vấn đề đều có tác dụng tăng cường năng lực hoạt động độc lập, sáng tạo, mang lại sự hứng thú cho học sinh trong việc tiếp thu kiến thức mới.  Bài toán nêu vấn đề Bài toán nêu vấn đề có 3 đặc trưng cơ bản: – Xuất phát từ cái quen thuộc, cái đã biết, nó phải vừa sức với người học. – Phải chứa đựng chướng ngại nhận thức, không thể dùng sự tái hiện hay sự chấp hành đơn thuần tìm ra lời giải. – Mâu thuẫn nhận thức trong bài toán phải được cấu trúc đặc biệt kích thích học sinh tìm tòi phát hiện.  Cách xây dựng tình huống có vấn đề Có 4 kiểu cơ bản xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học hóa học: – Tình huống nghịch lý: Vấn đề mới thoạt nhìn dường như vô lí, trái khoáy, không phù hợp với những nguyên lý đã được công nhận chung. Ví dụ: oxi có độ âm điện lớn hơn lưu huỳnh nhưng lưu huỳnh lại dễ phản ứng với thủy ngân hơn oxi. – Tình huống bế tắc: Vấn đề thoạt đầu ta không thể giải thích nổi bằng lý thuyết đã biết. Ví dụ: khi học về “Thuyết điện ly”, giáo viên làm thí nghiệm cho học sinh quan sát và rút ra nhận xét: dung dịch natriclorua dẫn điện, dung dịch glucozơ không dẫn điện. Với những hiểu biết trước đây của học sinh thì không thể giải thích được sự khác nhau về tính dẫn điện của hai dung dịch nói trên.

27. 18 – Tình huống lựa chọn: Mâu thuẫn xuất hiện khi ta đứng trước một sự lựa chọn rất khó khăn, vừa éo le, vừa oái ăm giữa hai hay nhiều phương án giải quyết. Ví dụ: Chỉ dùng một thuốc thử hãy phân biệt các hóa chất sau: NH4Cl, (NH4)2SO4, NaNO3, MgCl2, FeCl2, FeCl3, Al(NO3)3 . – Tình huống tại sao (nhân quả): Tìm kiếm nguyên nhân của một kết quả, nguồn gốc của một hiện tượng, động cơ của một hành động. Ví dụ: Vì sao phản ứng của brom với phenol lại ưu tiên thế vào vị trí octo và para? Quy trình dạy học sinh giải quyết một vấn đề học tập gồm tám bước sau đây: 1. Đặt vấn đề, làm cho học sinh hiểu rõ vấn đề. 2. Phát biểu vấn đề để cụ thể hóa các ý cần giải quyết. 3. Xác định phương hướng giải quyết, nêu giả thuyết. 4. Lập kế hoạch giải theo giả thuyết. 5. Thực hiện kế hoạch. 6. Đánh giá việc thực hiện kế hoạch giải. Nếu xác nhận giả thuyết đúng thì chuyển sang bước 7. Nếu giả thuyết sai thì quay trở lại bước 3, chọn giả thiết khác. 7. Kết luận về lời giải. Giáo viên chỉnh lý bổ sung và chỉ ra kiến thức cần lĩnh hội. 8. Kiểm tra và ứng dụng kiến thức vừa thu được. 1.3.3.2. Phương pháp dạy học theo nhóm [3, tr.40] Hoạt động nhóm là một hình thức dạy học đang được ngành giáo dục quan tâm vì tác dụng đặt biệt của nó trong việc hình thành nhân cách con người mới năng động sáng tạo, có khả năng giao tiếp và hợp tác. Hoạt động nhóm có thể được tiến hành dưới những hình thức khác nhau. Người giáo viên nếu biết cách chia nhóm, tổ chức và điều khiển hoạt động thì sẽ phát huy được các mặt mạnh, khắc phục mặt yếu của hoạt động nhóm, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học. a) Khái niệm: Hoạt động nhóm là một hình thức DH trong đó HS không làm việc cá nhân đơn lẻ mà là làm việc tập thể dưới sự hướng dẫn của GV. Trong hoạt động nhóm có nhiều mối quan hệ giao tiếp: Giữa các HS với nhau, giữa GV với từng HS. Hoạt động nhóm đang được ngành giáo dục quan tâm vì tác dụng đặc biệt

29. 20 Hạn chế: – Tốn thời gian chuẩn bị và thực hiện. – Lớp học cần phải rộng, có đủ bàn ghế. – Đòi hỏi giáo viên cần phải có kĩ thuật điều khiển thì hoạt động mới có hiệu quả. – Khó khi mới làm lần đầu và chưa có kinh nghiệm. Giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh đã quen với phương pháp này thì mới có hiệu quả. 1.3.3.3. Phương pháp dạy học trực quan [24, tr. 18], [8] Trong việc dạy học môn hóa học ở trường trung học, để nghiên cứu những hiện tượng hóa học và để rèn luyện kĩ năng thao tác và giải quyết các bài tập thực hành, chúng ta phải dùng đến các phương tiện trực quan. Sử dụng phương tiện trực quan trong việc dạy học hóa học là một PPDH rất quan trọng, góp phần quyết định cho chất lượng lĩnh hội môn hóa học. Phương pháp này gọi theo nghĩa đầy đủ là PPDH sử dụng phương tiện trực quan hay thường gọi tắt là phương pháp trực quan. Phương tiện trực quan bao gồm mọi dụng cụ, đồ dùng, thiết bị kĩ thuật từ đơn giản đến phức tạp dùng trong qúa trình dạy học, với tư cách là đại diện cho hiện thực khách quan (sự vật và hiện tượng), nguồn phát ra thông tin về sự vật và hiện tượng đó, làm cơ sở và tạo thuận lợi cho sự lĩnh hội kiến thức, kĩ năng kĩ xảo về hiện thực đó cho HS. Người ta thường chia các phương tiện trực quan trong dạy học hóa học thành ba nhóm: – Nhóm thí nghiệm trong nhà trường. – Nhóm đồ dùng trực quan như mẫu vật, hình vẽ, mô hình. – Nhóm phương tiện kĩ thuật như: thiết bị nghe nhìn, phần mềm dạy học, các kĩ thuật tin học ứng dụng trong dạy học hóa học. Trên thực tế thì thí nghiệm hóa học là dạng phương tiện trực quan giữ vai trò chính yếu trong quá trình dạy học hóa học. * Các hướng sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng dạy học tích cực: – Sử dụng thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu: Trong DH hóa học, phương pháp nghiên cứu được đánh giá là PPDH tích cực vì qua đó dạy HS cách tư

30. 21 duy độc lập, tự lực sáng tạo và có kĩ năng nghiên cứu tìm tòi. Phương pháp này giúp HS nắm kiến thức vững chắc, sâu sắc, phong phú. Khi sử dụng phương pháp này HS trực tiếp tác động vào đối tượng nghiên cứu, đề xuất giả thuyết khoa học, những dự đoán, những phương án giải quyết vấn đề và lập kế hoạch giải quyết với từng giả thuyết. Cách tiến hành: GV hướng dẫn cho HS thực hiện các hoạt động. + HS hiểu và nắm vững vấn đề cần nghiên cứu. + Nêu các giả thuyết, dự đoán khoa học trên cơ sở kiến thức đã có. + Chuẩn bị hóa chất, dụng cụ, thiết bị, quan sát trạng thái các chất trước khi làm thí nghiệm. + Tiến hành làm thí nghiệm, quan sát, mô tả đầy đủ các hiện tượng của thí nghiệm. + Xác nhận giả thuyết, dự đoán đúng qua kết quả thí nghiệm. + Giải thích hiện tượng, viết PTHH và rút ra kết luận. – Sử dụng thí nghiệm đối chứng hay song song: Để hình thành khái niệm hóa học giúp HS có kết luận đầy đủ, chính xác về một quy luật, tính chất của chất GV cần hướng dẫn HS sử dụng thí nghiệm hóa học ở dạng đối chứng để làm nổi bật, khắc sâu nội dung kiến thức mà HS cần chú ý. Cách tiến hành: GV cần hướng dẫn HS. + Lựa chọn thí nghiệm đối chứng. + Cách tiến hành thí nghiệm đối chứng. + Dự đoán hiện tượng. + Tiến hành làm thí nghiệm. + Quan sát hiện tượng và rút ra kết luận về kiến thức thu được. – Sử dụng thí nghiệm nêu vấn đề: Trong dạy học nêu vấn đề khâu quan trọng là bài toán nhận thức, tạo ra tình huống có vấn đề. Trong dạy học hóa học, ta có thể dùng thí nghiệm hóa học để tạo ra mâu thuẫn nhận thức gây ra nhu cầu tìm kiếm kiến thức mới trong học sinh. Cách tiến hành: Khi dùng thí nghiệm để tạo tình huống có vấn đề.

31. 22 + GV cần nêu ra vấn đề nghiên cứu bằng thí nghiệm. + Tổ chức cho HS dự đoán kết quả thí nghiệm, hiện tượng sẽ xảy ra trên cơ sở kiến thức đã có của HS. + Hướng dẫn HS tiến hành thí nghiệm. Hiện tượng thí nghiệm không đúng với điều dự đoán của đa số HS. Khi đó sẽ tạo ra mâu thuẫn nhận thức, kích thích HS tìm tòi giải quyết vấn đề. Kết quả là HS nắm vững kiến thức tìm ra con đường giải quyết vấn đề và có niềm vui của sự nhận thức. – Sử dụng thí nghiệm tổ chức cho HS nghiên cứu tính chất các chất: Tổ chức cho HS dùng thí nghiệm nghiên cứu tính chất chính là quá trình đưa HS tham gia hoạt động nghiên cứu một cách tích cực. GV cần hướng dẫn HS tiến hành các hoạt động sau: + Nhận thức rõ vấn đề học tập và nhiệm vụ đặt ra. + Phân tích, dự đoán lí thuyết về tính chất của chất cần nghiên cứu. + Đề xuất các thí nghiệm để xác nhận các tính chất dự đoán. + Lựa chọn dụng cụ, hóa chất, đề xuất cách tiến hành thí nghiệm. + Tiến hành thí nghiệm, quan sát, mô tả hiện tượng, xác nhận sự đúng, sai của những dự đoán. + Kết luận về tính chất các chất cần nghiên cứu. * Sử dụng phương tiện kĩ thuật: – Máy chiếu bản trong (Overhead). – Máy chiếu đa năng (Projector). – Các phần mềm máy tính để thiết kế giáo án điện tử trong đó hay dùng nhất là Power ponit, ngoài ra còn dùng ChemOffice, ISIS draw, Macromedia Flash, Dream Weaver… 1.3.4. Kĩ thuật sơ đồ tư duy [9, tr, 40] a) Khái niệm: Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó: “Sắp xếp” ý nghĩ.

32. 23 Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh, để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng được liên kết với nhau khiến sơ đồ tư duy có thể bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng mà các ý tưởng thông thường không thể làm được. Tính hấp dẫn của hình ảnh, âm thanh,…gây ra những kích thích rất mạnh lên hệ thống rìa (hệ thống cổ áo) của não giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền và tạo ra những điều kiện thuận lợi để vỏ não phân tích, xử lí, rút ra kết luận hoặc xây dựng mô hình về đối tượng cần nghiên cứu. b) Tác dụng đối với học sinh Để thấy được tác dụng của sơ đồ tư duy, ta cần biết cơ sở khoa học nó: * Cơ sở sinh lí thần kinh: Những thành tựu nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy, bộ não không tư duy theo dạng tuyến tính mà bằng cách tạo ra những kết nối, những nhánh thần kinh. Việc ghi chép tuần tự theo lối truyền thống với bút và giấy có dòng kẻ đã khiến cho con người cảm thấy nhàm chán. Từ trước đến nay, đã có một số quan điểm cho rằng, con người không sử dụng hết 100% công suất của bộ não, thậm chí có ý kiến cho rằng: trong cuộc đời, mỗi người chỉ sử dụng 10% các tế bào não, 90% tế bào còn lại ở trạng thái ngủ yên vĩnh viễn. Những nghiên cứu bằng ảnh cộng hưởng từ chức năng cho thấy, toàn bộ não hoạt động một cách đồng bộ trong các hoạt động tinh thần của con người và quá trình tư duy là sự kết hợp phức tạp giữa ngôn ngữ, hình ảnh, khung cảnh, màu sắc, âm thanh và giai điệu. Tức là, quá trình tư duy đã sử dụng toàn bộ các phần khác nhau trên bộ não. Ví dụ, khi học sinh tiến hành thí nghiệm, não trái đóng vai trò thu thập số liệu, còn não phải đóng vai trò xây dựng sơ đồ thí nghiệm, bố trí các dụng cụ đo, thu thập hình ảnh về đối tượng cần nghiên cứu. Ngoài ra, tính hấp dẫn của hình ảnh, âm thanh, kết quả bất ngờ của thí nghiệm,…gây ra những kích thích rất mạnh lên hệ thống rìa (hệ thống cổ áo) của não giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền và tạo ra những điều kiện thuận lợi để vỏ não phân tích, xử lí, rút ra kết luận hoặc xây dựng mô hình về đối tượng cần nghiên cứu.

34. 25 Sơ đồ tư duy mở ra cơ hội cho học sinh kết nối thông tin, phối hợp nhiều kĩ năng, giá trị và thái độ nhằm xây dựng kiến thức và phát triển khả năng và thái độ học tập suốt đời. Trong sơ đồ tư duy, học sinh được tự do phát triển các ý tưởng, xây dựng mô hình và thiết kế, lắp đặt mô hình vật chất hoặc tinh thần để giải quyết những vấn đề thực tiễn. Từ đó, cùng với việc dành được kiến thức, các kĩ năng tư duy (đặc biệt kĩ năng tư duy bậc cao) của học sinh cũng được phát triển. Với việc lập sơ đồ tư duy, học sinh không chỉ là người tiếp nhận thông tin mà còn cần phải suy nghĩ về các thông tin đó, giải thích nó và kết nối nó với cách hiểu biết của chúng. Và điều quan trọng hơn là học sinh học được một quá trình tổ chức thông tin, tổ chức các ý tưởng. c) Phương pháp lập sơ đồ tư duy – Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. – Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính và thường tô đậm nét. – Từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các hình ảnh hay từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Trên các nhánh, ta có thể thêm các hình ảnh hay các kí hiệu cần thiết. – Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng. Như vậy, một từ hoặc một khái niệm chốt là từ gắn kết với nhiều từ khác và đóng vai trò là điểm hội tụ để tạo nên những mối liên hệ với các phần khác. Kết cấu này là tạm thời và hữu cơ, cho phép có thể thêm và điều chỉnh chi tiết. Bản chất mở của quá trình này khuyến khích việc tạo nên mối liên hệ giữa các ý tưởng. Một sơ đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với các loại bút màu khác nhau, tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để tạo ra sơ đồ

36. 27 việc, tổ chức và truyền thông tin một cách có hiệu quả. 1.4. Dạy học hợp đồng 1.4.1. Khái niệm dạy học theo hợp đồng [9, tr. 68] Tên tiếng Anh “Contract Work” thực chất là làm việc hợp đồng hay còn gọi là học theo hợp đồng, nhấn mạnh vai trò chủ thể của học sinh trong dạy học. Dạy và học theo hợp đồng là một cách tổ chức môi trường học tập trong đó mỗi học sinh được giao hoàn thành một hợp đồng trọn gói các nhiệm vụ/ bài tập khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Học sinh được quyền chủ động và độc lập quyết định chọn nhiệm vụ (tự chọn), quyết định về thời gian cho mỗi nhiệm vụ/ bài tập và thứ tự thực hiện các nhiệm vụ/ bài tập đó trong khoảng thời gian chung. Trong dạy và học theo hợp đồng: Giáo viên là người nghiên cứu thiết kế các nhiệm vụ/ bài tập trong hợp đồng, tổ chức hướng dẫn học sinh nghiên cứu hợp đồng để chọn nhiệm vụ cho phù hợp với năng lực của học sinh. Học sinh là người nghiên cứu hợp đồng, kí kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, nhằm đạt được mục tiêu dạy học nội dung cụ thể. Hợp đồng là một biên bản thống nhất và khả thi giữa hai bên giáo viên và cá nhân học sinh, theo đó có cam kết của học sinh sẽ hoàn thành nhiệm vụ đã chọn sau khoảng thời gian đã định trước. Mỗi học sinh có thể lập kế hoạch thực hiện nội dung học tập cho bản thân mình: Học sinh có thể quyết định nội dung nào cần nghiên cứu trước và có thể dành bao nhiêu thời gian cho nội dung đó. Học sinh có thể quyết định tạo ra một môi trường làm việc cá nhân phù hợp để đạt kết quả theo hợp đồng đã kí. Học sinh phải tự giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập với sự hỗ trợ của giáo viên hoặc của học sinh khác (nếu cần). Dạy học theo hợp đồng là một hình thức thay thế việc giảng bài cho toàn thể lớp học của giáo viên, đồng thời cho phép giáo viên có thể quản lý và khảo sát được các hoạt động của mỗi học sinh. Với hình thức tổ chức này, giáo viên có thể sử dụng sự khác biệt giữa các học sinh để tạo ra cơ hội học tập cho tất cả học sinh

37. 28 trong lớp theo trình độ, theo nhịp độ và theo năng lực. Giáo viên có thể chắc chắn rằng mỗi học sinh đã kí hợp đồng tức là đã nhận một trách nhiệm rõ ràng và sẽ hoàn thành các nhiệm vụ vào thời gian xác định theo văn bản. 1.4.2. Quy trình thực hiện dạy học theo hợp đồng 1.4.2.1. Chọn nội dung và quy định về thời gian a) Chọn nội dung: Trước hết, giáo viên cần xác định nội dung nào của môn học có thể được dạy học thông qua hình thức này, điều này sẽ ảnh hưởng đến số lượng các hợp đồng phân công cho học sinh. Để đảm bảo đúng đặc điểm của phương pháp dạy học theo hợp đồng, các học sinh phải tự quyết định được thứ tự các nhiệm vụ cần thực hiện để hoàn thành bài tập được giao. Do vậy nhiệm vụ trong hợp đồng có thể chọn là một bài ôn tập hoặc luyện tập là phù hợp nhất. Hoặc cũng có thể với bài học mới mà trong đó có thể thực hiện các nhiệm vụ không theo thứ tự bắt buộc. Các nhiệm vụ được giao cũng cần bắt đầu từ hợp đồng đơn giản đến hợp đồng với nhiệm vụ ngày càng phức tạp hơn. Giáo viên cần xác định nội dung của hợp đồng và phương pháp sử dụng. Với việc xác định nội dung các nhiệm vụ và xây dựng một hệ thống tổ chức có thể khảo sát được (thẻ, ngăn kéo, thư mục,…) giáo viên có thể để các học sinh xác định hầu hết phần còn lại của hợp đồng trong giới hạn định hướng (ví dụ: Các nội dung môn học cần được nghiên cứu trong tuần và số lượng bài tập cần hoàn thành theo từng môn học). b) Quy định thời gian: Giáo viên phải quyết định thời gian học tập theo hợp đồng. Việc xác định thời hạn của hợp đồng theo số tiết học trên lớp là tốt nhất để giúp các học sinh quản lý thời gian tốt hơn. Thời gian dành cho hợp đồng tối thiểu nên là 2 tiết (khoảng 90 phút) thay vì nội dung này trước đây chỉ thực hiện trong 45 phút. Đó là do học sinh cần có thêm thời gian nghiên cứu và kí hợp đồng, có thời gian GV và học sinh nghiệm thu hợp đồng. Ngoài ra có thể bố trí cho học sinh thực hiện hợp đồng ngoài giờ học chính khóa hoặc ở nhà tùy theo nhiệm vụ cụ thể.

38. 29 1.4.2.2. Thiết kế kế hoạch bài học Sau khi đã xác định nội dung và thời gian, giáo viên cần thiết kế kế hoạch bài học để làm cơ sở tổ chức dạy học theo hợp đồng. a) Xác định mục tiêu của bài/ nội dung: Việc xác định mục tiêu của bài cũng như những bài bình thường cần căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng đã quy định trong chương trình gồm kiến thức, kĩ năng, thái độ của bài học. Tuy nhiên cũng có thể nên xác định thêm một số kĩ năng, thái độ chung cần đạt khi thực hiện phương pháp học theo hợp đồng, thí dụ như kĩ năng làm việc độc lập, kĩ năng tương tác (học sinh với học sinh và học sinh với giáo viên), kĩ năng đánh giá đồng đẳng và kĩ năng tự đánh giá. Những kĩ năng này rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực chung của người lao động do đổi mới phương pháp mang lại. b) Xác định phương pháp dạy học chủ yếu: Phương pháp cơ bản là dạy và học theo hợp đồng nhưng thường cần phải sử dụng phối hợp với các phương pháp/ kĩ thuật khác, thí dụ như sử dụng phương tiện dạy học của bộ môn, sử dụng phương tiện dạy học hiện đại, giải quyết vấn đề, học tập hợp tác theo nhóm,…để tăng cường sự tham gia, học sâu và học thoải mái. c) Chuẩn bị của GV và học sinh: Cần chuẩn bị các tài liệu, phiếu bài tập, sách tham khảo, dụng cụ, thiết bị cần thiết để cho hoạt động của giáo viên và học sinh đạt hiệu quả. Đặc biệt là giáo viên phải chuẩn bị được một bản hợp đồng đủ chi tiết để học sinh có thể tìm hiểu dễ dàng, kí hợp đồng và thực hiện các nhiệm vụ một cách độc lập hoặc có sự hỗ trợ của giáo viên và học sinh khác. d) Thiết kế văn bản hợp đồng: Học theo hợp đồng chỉ khả thi khi các học sinh có thể đọc, hiểu và thực thi các nhiệm vụ một cách tương đối độc lập. Các tài liệu cho học sinh cần được chuẩn bị đầy đủ. Trước hết, học theo hợp đồng cần chủ yếu dựa trên những nội dung sẵn có ở sách giáo khoa, sách bài tập hoặc tài liệu có sẵn. Hợp đồng sẽ chỉ đơn giản là chỉ ra số trang và số các nhiệm vụ/ bài tập nhất định. Ngoài ra nội dung hợp đồng còn bao gồm cả những nhiệm vụ được viết trên những tấm thẻ hoặc những phiếu học tập riêng. Giáo viên có thể bổ sung những nhiệm vụ mới hoặc sửa đổi những bài tập đã có cho phù hợp với yêu cầu của học

40. 31 g) Thiết kế bài tập/ nhiệm vụ học tập có tính chất giải trí: Tạo cơ hội để luyện tập sự cạnh tranh trong một môi trường giải trí nhưng cũng gắn với kiến thức kĩ năng đã học. Các ví dụ như: Trò chơi ngôn ngữ hay số học, luyện tập chương trình trên máy tính, trò chơi vòng tròn, trò chơi đoán ô chữ, ai nhanh ai đúng, lắp mảnh ghép,… Những kĩ năng và kiến thức xã hội, giáo dục môi trường,… cũng là một phần không thể thiếu trong các bài tập, giúp học sinh rèn kĩ năng vận dụng kiến thức, kĩ năng của bài học vào thực tiễn. h)Thiết kế bài tập/ nhiệm vụ mở và nhiệm vụ đóng: – Nhiệm vụ đóng: Nêu rõ ràng những gì HS phải làm trong một giới hạn xác định. Dạng bài tập này cung cấp cho những HS sợ thất bại và bảo đảm an toàn cần thiết. Thí dụ đó có thể là dạng bài trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn. – Dạng bài tập mở: Thường chứa đựng một vài thử thách và khó khăn hơn. Những bài tập mở khuyến khích học sinh bỏ cách suy nghĩ cũ và tìm kiếm những cách làm mới. Đặc biệt đối với những học sinh có khả năng sáng tạo và khả năng xử lí vấn đề nhanh nhạy, dạng bài tập này sẽ giúp học sinh đạt được mức độ tham gia cao và phát triển tư duy bậc cao. i) Thiết kế nhiệm vụ / bài tập cá nhân kết hợp nhiệm vụ / bài tập hợp tác theo nhóm: Trong hợp đồng ngoài quy định HS thực hiện theo cá nhân cũng cần có nhiệm vụ có yêu cầu làm việc hợp tác, theo cặp, nhóm nhỏ. Một sự kết hợp khéo léo giữa các nhiệm vụ cá nhân với bạn cùng lớp hay các nhiệm vụ theo nhóm được xem là khá hiệu quả tổ chức làm việc theo nhóm. Tuy nhiên làm việc theo nhóm chỉ tận dụng được phần rất nhỏ của sự khác biệt giữa các thành viên, một số học sinh sẽ chỉ ỷ lại vào người khác trong khi một số em khác lại nhanh chóng thể hiện năng lực lãnh đạo của mình. k) Thiết kế các nhiệm vụ/ bài tập độc lập và nhiệm vụ/ bài tập được hướng dẫn với mức độ hỗ trợ khác nhau: Không phải nhiệm vụ nào cũng phải thực hiện một cách độc lập đối với tất cả học sinh. Học sinh giỏi có thể thực hiện nhiệm vụ mà không cần sự hỗ trợ nào.

41. 32 Nhưng học sinh trung bình, yếu thì tất nhiên sẽ cần được hỗ trợ với mức độ khác nhau thì mới hoàn thành nhiệm vụ. Việc hỗ trợ chỉ có hiệu quả khi xuất phát từ nhu cầu của chính học sinh. Tuy nhiên cần chú ý phiếu hỗ trợ không phải là đáp án mà là những chỉ dẫn cụ thể theo từng mức độ do giáo viên dự đoán và thiết kế cho phù hợp. Những nhiệm vụ được hướng dẫn (thường trong những nhóm nhỏ hoặc riêng lẻ) cũng có thể được kết hợp. Nhiệm vụ dành cho học sinh không cần hỗ trợ và nhiệm vụ có các mức độ hỗ trợ khác nhau để tạo điều kiện cho mọi học sinh có thể hoàn thành nhiệm vụ phù hợp với năng lực của mình. Thực tế dạy học đã chỉ ra rằng sự hỗ trợ chỉ hiệu quả khi thực sự học sinh phải có nhu cầu và sự hỗ trợ vừa phải sẽ tạo ra được sự cố gắng động viên học sinh. 1.4.2.3. Thiết kế các hoạt động dạy học: Trong kế hoạch bài học cần thiết kế các hoạt động của giáo viên và học sinh trong khi thực hiện, như kí hợp đồng, thực hiện hợp đồng, thanh lí hợp đồng. Các hoạt động của giáo viên và học sinh có thể như sau: Họat động 1. Kí hợp đồng Hoạt động giáo viên Hoạt động học sinh – Nêu mục tiêu bài học hoặc vấn đề của bài học. – Lắng nghe. – Trao cho học sinh hợp đồng chung đã có chữ kí của GV. – HS nghiên cứu nội dung của hợp đồng. – GV trả lời. – HS đặt câu hỏi về vấn đề còn chưa rõ. – GV yêu cầu HS suy nghĩ chọn các nhiệm vụ tự chọn, có hỗ trợ hoặc không có hỗ trợ… – Học sinh kí hợp đồng

42. 33 Họat động 2. Thực hiện hợp đồng Nếu là hợp đồng chỉ yêu cầu học sinh thực hiện trên lớp có thể gồm hoạt động sau: Hoạt động giáo viên Hoạt động học sinh – Giáo viên hướng dẫn thực hiện hợp đồng. – Học sinh thực hiện hợp đồng theo nhịp độ cá nhân. – Giáo viên theo dõi và hỗ trợ. – Học sinh có thể xin nhận hỗ trợ từ giáo viên hoặc học sinh khác. – Giáo viên có thể đưa ra trợ giúp nên hay không? – Học sinh có thể xin làm việc theo cặp, nhóm (nếu cần thiết). Họat động 3. Nghiệm thu hợp đồng Nếu là hợp đồng chỉ yêu cầu học sinh thực hiện trên lớp có thể gồm hoạt động sau: Hoạt động giáo viên Hoạt động học sinh – Giáo viên yêu cầu học sinh dừng làm việc và tự đánh giá. – Học sinh dừng làm việc cá nhân và tự đánh giá. – Giáo viên yêu cầu trao đổi bài chéo nhau giữa 2 nhóm để học sinh không biết ai là người đánh giá bài của mình và ghi vào hợp đồng bằng nét bút khác. – HS đánh giá bài của bạn khi giáo viên công bố đáp án của các nhiệm vụ: Có thể chấm điểm hoặc chỉ đánh giá đúng/ sai. – Học sinh ghi rõ họ tên vào bài làm của bạn. – Giáo viên nhận xét, đánh giá chung. – Học sinh lắng nghe, chỉnh sửa. Hoạt động 4. Củng cố, đánh giá Trong khi thanh lí (nghiệm thu) hợp đồng có thể thiết kế các hoạt động để học sinh có thể đánh giá lẫn nhau và học sinh tự đánh giá kết quả các nhiệm vụ bắt buộc và nhiệm vụ tự chọn. Giáo viên có thể đưa ra kết luận đánh giá hoàn thiện. Tuy nhiên trong một số trường hợp, cần thiết phải củng cố khắc sâu kiến thức hoặc kĩ năng cụ thể. Giáo viên có thể cho thêm 1-2 bài tập để học sinh thực hiện trong thời gian ngắn.

43. 34 1.4.2.4. Tổ chức dạy học theo hợp đồng Giáo viên cần giới thiệu phương pháp học theo hợp đồng, ban đầu cần tập trung vào hình thức làm việc độc lập. Hình thức tổ chức còn tương đối mới mẻ nhưng giáo viên và học sinh có thể dần làm quen với điều đó. Học sinh có thể làm việc độc lập và tận dụng thời gian. Điều này làm tăng đáng kể mức độ tham gia của học sinh. Tuy nhiên, chỉ hình thức tổ chức thì chưa thể đảm bảo chắc chắn có sự tham gia. Mọi thứ đều phụ thuộc vào cách thức áp dụng phương pháp vào thực tế dạy học. Để duy trì mức độ thích hợp của sự tham gia, thay đổi hướng tới một sự khác biệt trong phương pháp học theo hợp đồng là điều không thể thiếu. Chỉ khi nào khả năng của cá nhân từng học sinh được đề cập, các em mới có thể phát triển và tiếp tục tham gia. a) Bố trí không gian lớp học Trong phương pháp học theo hợp đồng, không cần thiết phải sắp xếp lại lớp học. Các giáo viên hoàn toàn có thể tổ chức hình thức này trong lớp học nhỏ với không gian hạn chế, ít điều kiện di chuyển. Tuy nhiên, phương pháp học theo hợp đồng sẽ trở nên thoải mái và chuyên sâu hơn nếu tổ chức sắp xếp trong lớp học được điều chỉnh. Bàn học có thể được kê lại để thu hút học sinh làm việc tập trung hơn trong nhóm, các góc và vị trí tạo ra thách thức đối với học sinh có thể được kết hợp trong phương pháp học theo hợp đồng. b) Tổ chức kí hợp đồng nhiệm vụ học tập Giáo viên nêu mục đích bài học, phương pháp học tập chủ yếu và trao hợp đồng cho các học sinh. Các học sinh nghiên cứu nội dung của hợp đồng một cách kĩ lưỡng để hiểu các nhiệm vụ trong hợp đồng. GV và học sinh trao đổi những điều còn chưa rõ trong hợp đồng. Học sinh quyết định chọn nhiệm vụ tự chọn trên cơ sở năng lực của mình. Học sinh kí vào bản hợp đồng và đánh dấu các nhiệm vụ tự chọn.

Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Môn Ngữ Văn

Thứ tư – 05/10/2011 23:45

CÁCH NHÌN MỚI VỀ TIẾP CẬN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỐI VỚI MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT

1. Trên mục Trao đổi của báo Văn nghệ gần đây, xuất hiện một loạt ý kiến bàn về việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn – một vấn đề tuy đã được nói đến nhiều, song chưa bao giờ hết tính thời sự, nhất là hiện nay, khi những thông tin về việc dạy học, thi cử môn Văn ở nước ngoài không còn xa lạ, và khi bộ sách giáo khoa Ngữ văn mới được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Trong bài báo đăng trên Văn nghệ số 10, 7 – 3 – 2009, GS Trần Đình Sử nêu thẳng vấn đề: muốn đổi mới căn bản phương pháp dạy học văn, không có con đường nào khác là phải trở về với văn bản văn học. Tư tưởng ấy được hình thành từ nhận thức của ông về thực trạng dạy học văn trong nhà trường bấy lâu nay: ấy là kiểu dạy học lấy thế bản thay cho văn bản. Thế bản mà Trần Đình Sử nói đến ở đây gồm bài soạn của thầy và các tài liệu tham khảo đủ loại, đủ kiểu, chất lượng rất khác nhau, đầy rẫy trên thị trường sách hiện nay. Theo Trần Đình Sử, chính sự lệ thuộc quá mức của học sinh vào các thế bản đã đẩy các em vào tình trạng thụ động, luôn luôn chờ đợi những kết quả mà người khác cảm nghĩ hộ, mất khả năng tự mình thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương để nói lên những cảm nhận, những rung động của chính bộ óc, con tim của mình bằng chính lời lẽ của mình. Mọi sự bất ổn của tình trạng dạy học văn bấy lâu nay có nguồn gốc từ đó.

Cách đặt vấn đề, cách mô tả thực trạng và đề xuất giải pháp của GS Trần Đình Sử khiến những ai quan tâm đến lĩnh vực này phải suy nghĩ. Loạt bài được công bố trên báo Văn nghệ tiếp sau đó, dù thuộc loại ý kiến phản đối hay tán đồng, hoặc nhân đó mà bàn sâu thêm về phương pháp dạy học văn, đều cho thấy vấn đề mà Trần Đình Sử đặt ra đã không rơi vào im lặng.

2. Theo tôi, với tư tưởng cốt lõi được nêu trong bài báo, GS Trần Đình Sử đã chỉ rất trúng căn bệnh kinh niên trong dạy học văn ở nhà trường chúng ta.

2.1. Không thể phủ nhận rằng, khoảng một thập niên trở lại đây, việc đổi mới cách dạy học văn đã được tiến hành rộng khắp trong cả nước. Vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước. Sự chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học được đề cao. Các phương tiện dạy học phong phú hơn. Tuy nhiên, tất cả những gì diễn ra ở môn Văn như thế, chẳng qua cũng chỉ là sự khúc xạ những tiến bộ chung về quan niệm dạy học hiện đại. Cái gọi là “tư tưởng dạy học văn theo hướng coi trọng hoạt động của học sinh, giáo viên là người định hướng tổ chức, không phải là người truyền đạo, áp đặt” mà Nguyễn Minh Phương nêu lên (Văn nghệ số 13, 28 – 3 – 2009) như một bằng chứng về thành tựu đổi mới dạy học văn, thực chất vẫn nằm trong cái khuôn chung của giáo dục học. Hoàn toàn có thể dùng mệnh đề ấy cho việc đánh giá hiện trạng dạy học ở bất kì môn nào.

Rõ ràng, trong thực tế, chưa có được sự đổi mới căn bản, triệt để dựa trên đặc thù môn Ngữ văn phản ánh trong mối quan hệ bộ ba hữu cơ: thầy giáo (người hướng dẫn, tổ chức) – học sinh (chủ thể tiếp nhận) – văn bản (đối tượng của sự tiếp nhận). Nêu vấn đề này, tôi hoàn toàn ý thức được đây là điểm nhạy cảm, dễ thu hút những ý kiến ngược chiều. Chẳng hạn, ai đó có thể chất vấn: chẳng lẽ việc dạy học văn như đã tiến hành ở ta bấy lâu mà vẫn chưa đúng đặc thù bộ môn hay sao ? Thế nào mới được xem là đổi mới triệt để? Trả lời cho những nghi vấn kia không hề đơn giản, không dễ gói gọn trong một vài câu. Theo tôi, mấu chốt của vấn đề chính là ở chỗ: dứt khoát không để thế bản thay cho văn bản như tình trạng dạy học văn lâu nay đã được GS Trần Đình Sử báo động. Phải nhận thức như thế, mới mong tìm ra con đường hữu hiệu, từ đó, mọi hoạt động đổi mới phương pháp mới có thể đúng hướng, thông suốt.

2.2. Thế nhưng, ngay cả những giờ dạy được đánh giá cao về đổi mới phương pháp như vậy, học sinh vẫn chưa thực sự chủ động hoàn toàn trước văn bản. Dường như dưới sự dẫn dắt khôn khéo của thầy, các em đang cố gắng tiệm cận với một chân lí, một chuẩn mực tri thức văn cụ thể, chính xác nào đó, trong khi lẽ ra, đối diện với văn bản, nhất là văn bản nghệ thuật, là các em được đối diện với một khung trời rộng mở, mọi cá tính, sở thích, mọi hình dung, tưởng tượng của cá nhân đều có chỗ để phát huy. Đọc bài được gọi là “bài văn lạ” của một học sinh vốn là người Việt Nam, nhưng được học và thi ở nước ngoài, tôi nhận thấy có một khoảng cách vô cùng lớn giữa lối dạy của chúng ta và lối dạy của họ. Sự phóng khoáng trong tư tưởng, tư duy, sự tự do trong phát ngôn của các em chắc chắn là những điều khiến chúng ta cảm thấy hoàn toàn lạ lẫm. Giáo viên chúng ta hẳn vô cùng lúng túng khi gặp những bài văn kiểu đó. Cho nên, gọi là phát huy tính tích cực chủ động của học sinh như cách làm của ta lâu nay, thực ra vẫn mang tính chất nửa vời. Những trường hợp được xem là thành công, vẫn vướng vất cái gì như là sự gò bó, áp đặt. Cả thầy và trò dù “diễn” một cách rất tự nhiên, cũng khó mà thoát li hẳn cái “kịch bản” tồn tại ngầm, có tác dụng mớm sẵn những “lời thoại”, tạo nên sự ăn ý giữa các “vai diễn”. Nghĩa là cả thầy và trò đều chưa thể thoát khỏi sự kiềm tỏa, chi phối của thế bản. Thậm chí, còn cảm thấy rất tiện khi có nó.

Nói vậy, hẳn có người sẽ chất vấn: chẳng lẽ giáo viên văn hiện nay lại thụ động đến thế? Chẳng lẽ, với những văn bản trong chương trình, giáo viên vẫn không tự mình cảm thụ, chiếm lĩnh được mà phải trông cậy vào các nguồn tài liệu, cũng tức là sự cảm thụ người khác? Câu trả lời xin nhường cho những thầy cô đang trực tiếp dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông. Chỉ xin nói thêm rằng: trong bối cảnh hiện nay, giáo viên nào thực thi đầy đủ các bước nêu trên, nhất là tìm được nhiều bài viết về các tác phẩm trong SGK để tham khảo, soạn bài, hẳn sẽ được xem là người say mê chuyên môn, chịu khó làm việc. Nghĩa là việc sử dụng nhuần nhuyễn thế bản vẫn chưa bao giờ bị coi là nhược điểm. Biết thế để hình dung rõ hơn thực trạng, và cũng để hiểu thêm rằng, một sự đổi mới tận gốc là chuyện không dễ.

2.4. Nhìn vào phía học sinh, ta thấy, thái độ đối với môn văn của các em có sự phân lập rất rõ. Số đông học sinh hiện nay có thiên hướng thi vào đại học các khối tự nhiên (do dễ kiếm việc làm sau khi ra trường). Với bộ phận này, môn Văn dĩ nhiên bị gạt ra rìa. Số còn lại, rất ít, dự thi vào hai khối C, D thì học văn với một động cơ rất thực dụng: để thi đại học, cao đẳng. Bây giờ, có ai đó nói đến học văn là để thưởng thức văn chương, để bồi đắp mĩ cảm, để hoàn thiện nhân cách… thì chắc chắn sẽ nhận được từ học sinh một nụ cười đầy hàm ý. Với những em học văn để đối phó cho xong một môn (cần có điểm để tổng kết, cần thi tốt nghiệp), thì tài liệu tham khảo là cẩm nang trong mọi tình huống. Với những học sinh xác định môn Văn là một cửa ải phải vượt qua để vào đại học, thì bài giảng của thầy, những tài liệu phân tích bình giảng tác phẩm, những sách văn mẫu, tài liệu luyện thi…sẽ là những vật bất li thân, là bùa hộ mệnh. Bao nhiêu năm nay, đề thi thường hướng tới trọng tâm kiểm tra kiến thức (cách hiểu, cách thẩm bình, đánh giá một đoạn văn, đoạn thơ, một vấn đề về tác gia, tác phẩm…). Vậy, con đường ngắn nhất để đáp ứng đòi hỏi của đáp án là nắm kiến thức văn qua bài dạy của thầy, qua tài liệu tham khảo. Mày mò đọc, tự phân tích văn bản làm gì cho mất thời gian, cho hao tâm tổn trí khi mà hiệu quả thiết thực (điểm thi) chắc chắn không sánh được với việc ghi chép đầy đủ bài học luyện thi, nắm vững các ý trong những tài liệu được viết kĩ, có chất lượng. Thử tìm đọc một đáp án đề thi môn Văn bất kì trong dăm bảy năm trở lại đây, sẽ thấy cách học của học sinh như tình trạng nêu trên là một sự lựa chọn khôn ngoan.

Như vậy, trong quá trình dạy học văn, sự lép vế của văn bản trước thế bản là một thực tế tất yếu. Luật đời có cầu thì có cung. Một nhu cầu đã được hình thành và duy trì trong chừng ấy thời gian thì nguồn cung ứng đương nhiêu sẽ hết sức phong phú. Ai cấm được người viết bài phân tích, bình giảng tác phẩm trong nhà trường? Ai cấm được người viết sách tham khảo? Ai cấm được học sinh mua, đọc sách phục vụ cho việc học để thi?

2.5. Trước tình trạng ấy, ý kiến của GS Trần Đình Sử có thể xem như tiếng chuông báo động. Tôi nghĩ, quan điểm cho rằng: học sinh phải là người đọc chủ động, tích cực, không bị nhiễu, không bị chi phối bởi một cách hiểu có sẵn nào, là một quan điểm đúng, cần được khẳng định. Xem đó là con đường đổi mới triệt để dạy học Ngữ văn cũng hoàn toàn thỏa đáng. Xin đừng nghĩ, trở về với văn bản là rơi vào khép kín, là tước bỏ mọi quan hệ giữa ngôn từ với đời sống. Chữ nghĩa nào cũng có “sinh mệnh”, có bề dày văn hóa, có hơi thở đời sống phả vào. Chỉ e người tiếp nhận (cả người dạy và người học) không nghe được cái phập phồng của ngôn từ trong văn bản mà thôi.

3. Trở về với văn bản, đề cao sự cảm thụ hồn nhiên của học sinh là con đường đúng, nhưng không dễ thực thi trong điều kiện hiện nay. Rất nhiều lực cản từ nhiều phía, cả chủ quan lẫn khách quan cần vượt qua. Chẳng hạn, phải xác định lại mục tiêu của bộ môn, xác định rõ vai trò của người học và người dạy, xây dựng lại chương trình, phân bố thời lượng cho các văn bản…Trong hàng loạt vấn đề nan giải đó, tôi xin phân tích mấy yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới công việc đổi mới phương pháp theo định hướng nêu trên

3.1. Trước hết, phải có được một môi trường xã hội, môi trường giáo dục tôn trọng chủ kiến của cá nhân. Chúng ta thường nói đến việc tạo ra không khí đối thoại trong giờ học, nhưng thực tế, đó mới chỉ là đàm thoại (hỏi đáp) chứ chưa phải là đối thoại đích thực, tức là sự thể hiện tiếng nói, sự cọ xát giữa các ý thức. Xét về đặc điểm tâm lí, trí tuệ, tình cảm lứa tuổi, học sinh THPT (sắp lấy bằng tú tài) dĩ nhiên đã có trình độ nhận thức xã hội, nhận thức thẩm mĩ đạt đến mức có thể đưa ra những cảm nhận độc lập trước một hiện tượng, một tác phẩm. Xem một bộ phim, nghe một ca khúc, ngắm một bức tượng…, các em có thể có nhận xét của riêng mình, vậy cớ gì trước một văn bản, lại không có phản ứng riêng mà phải dựa dẫm vào ý người khác? Tôi tin, nếu có được không khí thật cởi mở, nếu được khích lệ, học sinh sẽ hoàn toàn thoải mái trong việc phát biểu chủ kiến. Thiết nghĩ, ở đây cần phải tính đến sự nhạy cảm về tư tưởng, chính trị xã hội của nội dung môn học, nội dung một số văn bản có trong chương trình. Trước những văn bản như Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng), trích đoạn vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu…học sinh sẽ có thể bị xem là “phạm húy” khi đưa ra những cách nhìn, cách đánh giá về một số vấn đề, một số nhân vật nếu chúng ta vẫn giữ cách nhìn cũ. Chẳng phải từng xuất hiện không ít bài viết cứ lăm lăm đưa cái thước “yêu nước, nhân đạo” để đo giá trị của những tác phẩm viết trong giai đoạn đổi mới, đồng thời nhân đó cũng “đo” luôn tư tưởng của tác giả SGK đó sao?

3.2. Với những yêu cầu cao trong công việc đổi mới phương pháp, người giáo viên phải nâng cao trình độ và bản lĩnh. Truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng đã khó, hướng dẫn cách cảm thụ, lối tư duy cho học sinh còn khó bội phần. Sự cập nhật tri thức phải luôn đi đôi với nâng cao trình độ sư phạm. Một khi đã quán triệt tinh thần coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với sự đa dạng, phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em. Tinh thần “nhất nguyên” sẽ được thay thế bằng tình trạng phân lập trình độ cảm thụ, sự xung đột giữa các luồng ý kiến. Thực tế đó sẽ là những thách thức không nhỏ đối với bản lĩnh của người thầy.

3.3. Thay đổi cách đánh giá đối với giờ dạy của giáo viên cũng là một khâu then chốt. Đây là khâu thuộc trách nhiệm của những người giữ cương vị quản lí từ cấp thấp nhất là tổ chuyên môn cho đến cấp cao nhất là chuyên viên môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chừng nào người quản lí chuyên môn chưa thấu triệt nhu cầu và cách thức đổi mới phương pháp dạy học môn Văn, chừng nào những tiêu chí đánh giá giờ dạy văn chưa có gì thay đổi, thì chừng đó, một áp lực vô hình vẫn cứ tồn tại, và giáo viên vẫn cứ loay hoay trong sự đổi mới nửa vời để khỏi chuốc sự rắc rối vào thân.

3.4. Cuối cùng, phải thay đổi căn bản cách ra đề thi, cách kiểm tra, đánh giá đối với môn Văn. Như trên đã nói, học để thi là tình trạng phổ biến hiện nay. Đề ra kiểu gì, học sinh sẽ tìm cách học kiểu ấy. Khuyến khích học sinh phát biểu cảm nhận riêng của mình đối với văn bản thì phải tính đến sự đa dạng, phong phú của các ý kiến. Khó có thể khuôn sự phong phú của thực tế vào một hệ thống ý cứng nhắc, khép kín và một kiểu thang điểm yêu cầu chi li đến một phần tư điểm như hiện nay.

VÀI VẤN ĐỀ VỀ SOẠN GIẢNG THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MÔN NGỮ VĂN

Đổi mới PPDH là yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên giảng dạy THPT ở tất cả các môn học, trong đó có Ngữ văn.

Đổi mới PPDH được cụ thể hóa như thế nào trong vấn đề soạn giảng Ngữ văn ?

– Là vận dụng nhiều PPDH vào giảng dạy Ngữ văn.

– Là kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong vận dụng các PPGD trong soạn giảng và lên lớp.

– Là vận dụng công nghệ thông tin một cách hợp lí và có tác dụng vào giảng dạy.

– Là vận dụng các phương tiện hiện đại vào giảng dạy…

1. Ý tưởng:

– GV phải có ý tưởng đổi mới PPDH, vận dụng ý tưởng đó vào thực tế giảng dạy một cách hợp lí và có hiệu quả.

2. Thiết kế giáo án:

– Soạn giáo án theo thống nhất chung của tổ chuyên môn, sở GD – ĐT.

+ Soạn Nội dung cần đạt.

+ Xác định các PPDH phù hợp để hướng dẫn HS tự học, tự tìm ra nội dung cần đạt đó.

+ Xác định các vấn đề cần vận dụng CNTT, phương tiện hiện đại cần thiết vận dụng và vận dụng có hiệu quả vào bài dạy.

+ Xác định các nội dung cần tích hợp, liên hệ mở rộng trong nội dung bài dạy.

+ Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề.

+ Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm, bài tập mở cho phù hợp với đối tượng HS.

3. Lên lớp:

– Tùy thực tế dạy học mà tiến hành theo giáo án có linh hoạt.

– Lưu ý các tình huống có vấn đề của từng lớp dạy.

– Lưu ý các thông tin phản hồi từ HS.

– Rút kinh nghiệm giảng dạy kịp thời…

– Lưu ý kĩ năng đặt câu hỏi khi lên lớp:

Ø Lời văn dễ hiểu.

Ø Hỏi câu có hơn một câu trả lời đúng.

Ø Tăng cường loại câu hỏi: vì sao? Như thế nào?

Ø Khuyến khích HS chia sẻ câu trả lời với bạn theo hình thức cặp đôi.

Ø Gọi HS ngẫu nhiên.

Ø Chủ động lắng nghe.

Ø Tránh ngắt lời và sửa lỗi ngay tức thì.

Ø Hướng dẫn lại câu trả lời sai thật tế nhị….

Đổi mới PPDH là yêu cầu bắt buộc, do đó, giáo viên phải thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và rút kinh nghiệm từ thất bại.

Đổi mới cách dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường

Theo thống kê kết quả tuyển sinh đại học, cao đẳng những năm gần đây bài thi môn Văn đạt điểm 8, 9, 10 là rất ít, bài thi có điểm dưới trung bình chiếm đa số, có rất nhiều bài thi đạt điểm 0. Trong đó, nhiều bài văn của học sinh khiến người chấm dở khóc dở cười vì những sai sót quá cơ bản như sai chính tả, sai kiến thức, suy diễn theo cảm tính, viết mà không hiểu những gì mình đã viết… Điều đó đã phần nào phản ánh thực trạng dạy – học Văn trong trường đang ở mức đáng báo động đòi hỏi các nhà quản lý giáo dục cần đưa ra những giải pháp thích hợp để đổi mới quy trình dạy và học môn Văn hiện nay.

Khảo sát bài thi của thí sinh cho thấy sai chính tả là lỗi phổ biến nhất. Những lỗi chính tả thường gặp là: tên riêng của nhà văn, nhà thơ không viết hoa, rất nhiều bài văn từ đầu đến cuối không có một dấu chấm câu nào, nhiều từ đơn giản cũng không viết đúng. Cùng với lỗi viết sai chính tả là lỗi dùng từ và đặt câu. Thí sinh rất hay nhầm lẫn những từ gần giống nhau, không có ý thức qua dòng, không biết tổ chức các đoạn văn và viết câu thì câu què, câu cụt, câu sai cấu trúc, sai lô gích. Nhiều câu văn của học sinh mà người chấm không thể hiểu nổi học sinh đó muốn viết gì. Điều đó cho thấy học sinh hết sức lơ mơ về kiến thức ngữ văn. Có một thực tế là hiện nay rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn học hay. Do vậy khi làm bài, học sinh thường suy luận chủ quan, thô tục hoá văn chương. Ngoài những lỗi trên thì tình trạng học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả, tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác…

Sở dĩ chất lượng học văn của học sinh kém như vậy là do các nguyên nhân chủ yếu sau: Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho người học con đường tích cực chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết, thậm chí giáo viên còn đọc chậm cho học sinh chép lại những gì có sẵn ở giáo án. Giờ học tác phẩm văn chương vì thế vẫn chưa thu hút được sự chú ý của người học. Một bộ phận không nhỏ học sinh vẫn tỏ ra bàng quan, thờ ơ với văn chương.

Hơn nữa, không ít giáo viên đứng lớp chưa được trang bị kỹ càng, đồng bộ về quan điểm và lý luận phương pháp dạy học Văn mới. Vấn đề quan điểm và lý luận phương pháp dạy học Văn mới chỉ đến với người dạy qua một số tài liệu có tầm vĩ mô, thiên về cung cấp lý thuyết hơn là hướng dẫn thực hành. Một số các giáo trình tài liệu về phương pháp dạy học Văn còn mang bệnh lý thuyết và sách vở hoặc chịu tác động từ các phương pháp dạy học của nước n