Để các em học sinh có được kết quả học tập tốt, có được những kiến thức cơ bản, cốt lõi, có được tư duy sáng tạo, có đạo đức và nhân cách tốt đòi hỏi người giáo viên phải có khả năng và phương pháp dạy học hiệu quả. chúng tôi xin giới thiệu đến các thầy, cô giáo bài viết phương pháp và kỹ thuật dạy học. chúng tôi cũng rất mong nhận được sự phản hồi và đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo, các nhà nhiên cứu về vấn đề phương pháp và kỹ thật dạy học nhằm mục đích có được nhưng phương pháp ưu việt, giúp cho giáo viên tham khảo để có được những phương pháp giảng dạy hiệu quả, phù hợp nhất.
CHUYÊN ĐỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Các phương pháp đã và đang thường sử dụng. ( các phương pháp dạy học được GV linh hoạt trong các môn học giúp học sinh học tập một cách thoải mái, tự tin và hiệu quả, phát huy được năng lực học tập của các em, giúp các em được học và học được.)
1/ Phương pháp vấn đáp, đàm thoại sử dụng nhiều trong các môn tập đọc, kể chuyện, Lịch sử, Địa lí…
2/ phương pháp thực hành( làm mẫu- huấn luyện): Phương pháp này là phương pháp được sử dụng nhiều trong các môn học thể dục, Thủ công, Kĩ thuật.
4/ Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp đặc trưng trong các môn TN-XH; Khoa, Sử; Địa. Các em quan sát các sự vật, hiện tượng thực tế, tranh ảnh, băng hình…
5/ Phương pháp trực quan: ( dùng kênh hình, mô hình, vật thât) là phương pháp đặc trưng trong các môn Lịch sử. Toán ….
6/ Phương pháp động não: Dùng nhiều trong các môn học.
7/ Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm: Là phương pháp tích cực hóa các hoạt động của người học, giáo viên tổ chức các hoạt động thông qua hoạt động học. Mọi học sinh cùng được tham gia hoạt động, các em bộc lộ được mính và có cơ hội phát triển.
8/ Phương pháp dạy học qua trải nghiệm: Đây là phương pháp dạy học có tính thực tế cao, giúp cho các em thông qua việc làm cụ thể để tìm tòi khám phá kiến thức. Gv đưa ra tình huống; hoặc trò chơi; hoặc hỏi về những kinh nghiệm sống…., sau đó Gv cùng HS phân tích, chia sẻ, so sánh, xử lí hoặc hồi tưởng… Gv đặt câu hỏi dẫn dắt đên nội dung bài học. Phương pháp dạy học này GV nêu câu hỏi dẫn dắt, học sinh rút ra kết luận.
9/ Phương pháp dạy học theo hợp đồng: Đây là phương pháp dạy học mà HS làm việc theo một gói các nhiệm vụ trong thời gian nhất định.
10/ Trò chơi.
CÁC KĨ THUẬT DẠY HỌC 1/Kĩ thuật các mảnh ghép:
Là kĩ thuật tổ chức hoạt động hợp tác:
Ví dụ: Khi dạy bài câu đơn – câu ghép.
Thế nào là câu đơn, cho ví dụ và phân tích thành phần câu?
Thế nào là câu phức, cho ví dụ và phân tích thành phần câu?
Thế nào là câu ghép, cho ví dụ và phân tích thành phần câu?
Câu đơn và câu ghép khác nhau như thế nào? Cho ví dụ minh họa.
2/ Kĩ thuật khăn trải bàn:
Từng HS ghi ý kiến của mình sau đó trao đổi , tổng hợp và thống nhất chung một ý kiến và ghi vào ô giữa.
Nhóm 1,2 : Làm thí nghiệm chứng minh không khí có 2 thành phần chính là khí ô xi duy trì sự cháy và khí ni-tơ không duy trì duy trì sự cháy.
Nhóm 3, 4: Làm thí nghiệm chứng minh không khí có hơi nước.
Nhóm 5;6 : Làm thí nghiệm chứng minh không khí có chứa bụi, vi khuẩn…
Qua các thí nghiệm của các nhóm chứng tỏ không khí chứa ôxi, ni tơ, hơi nước, bụi, vi khuẩn…
4/ Kĩ thuật xoay ổ bi:
– Xếp 2 vòng tròn (trong và ngoài): Số lẻ đứng vòng trong, số chẵn đứng vòng ngoài.
– Vòng trong đứng yên vị trí, vòng ngoài xoay lần lượt từng số (đối diện từng cặp trong ngoài).
– 1 nhóm lên trình bày, các nhóm đều treo bảng dò theo, nếu tùy ý thì đánh dâu (P)
– Sẽ lấy được ý chung nhất (là những ý các nhóm trùng nhau)
6/ Mạng ý nghĩa:
– Dùng dạy Tập đọc.
– Dùng dạy Tập làm văn.
Nhìn vào ma trận, ta có thể thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của các nhóm PPDH với việc thực hiện mục tiêu, đặc biệt là sự hạn chế của PP thuyết trình đối với việc thực hiện các mục tiêu quan trọng của phát triển nhân cách. Một kết quả nghiên cứu khác cũng cho thấy sự hạn chế của các PP dùng lời nói và đồng thời khuyến khích tổ chức các hoạt động tự lập của học sinh phối hợp các PP nhằm huy động đồng thời nhiều giác quan của học sinh tham gia vào quá trình tri giác các đối tượng lĩnh hội.
2. Lựa chọn các PPDH tương thích với nội dung học tập Giữa nội dung và PPDH có mối quan hệ tác động lẫn nhau, trong nhiều trường hợp quy định lẫn nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học, PPDH cần tương thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định.
3. Lựa chọn PPDH cần chú ý đến hứng thú, thói quen của học sinh, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên a. Cần chuẩn đoán nhu cầu, hứng thú của học sinh khi lựa chọn các PPDH. Đối với việc trình bày thông tin cần ưu tiên lựa chọn các PP sử dụng phương tiện nghe nhìn, sử dụng truyền thông đa phương tiện càng tốt. Đối với các hoạt động chế biến thông tin cần tổ chức các hoạt động tự phát hiện, phối hợp với làm việc theo nhóm, phát huy càng tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh càng tốt. b. Chú ý thay đổi PPDH và hình thức tổ chức dạy học tránh nhàm chán, gây hứng thú cho học sinh. Cần thay đổi PPDH sau 15, 20 phút. c. Ưu tiên lựa chọn các PPDH mà học sinh, giáo viên đã thành thạo. Với các PPDH có ưu điểm tương đương, cần ưu tiên lựa chọn PPDH mà GV và HS đã thành thạo, bởi thực hiện dễ dàng hơn. Không vì tiêu chí này mà quay trở lại vớ PP truyền thụ một chiều. Hiện nay, rất cần thiết phải cho GV và HS trở nên quen thuộc với các kĩ thuật dạy học mới có hiệu quả cao trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục. Để nâng cao tay nghề cần: Nghiên cứu các vấn đề đổi mới PPDH qua sách, vở, giáo trình, tạp chí chuyên môn, các lớp tập huấn… Rút kinh nghiệm các giờ dạy của bản than kết hợp với tiến hành dự giờ, trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp…
4. Lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện dạy học a. Ở đây đề cập đến PPDH diễn ra trong mối quan hệ với các điều kiện vật chất, đặc biệt là thiết bị dạy học (TBDH). Đương nhiên là cần phải lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện của nhà trường, của phòng thí nghiệm, của tình trạng đang có. b. Trong khuôn khổ điều kiện cho phép, cần chọn thứ tự ưu tiên khả năng tốt nhất. c. Các TBDH hiện đại không luôn đồng nghĩa với các TBDH đắt tiền. Tính hiện đại của TBDH thể hiện ở việc sử dụng các thiết bị sao cho đạt yêu cầu cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu dạy học, thể hiện rõ tư tưởng sư phạm hiện đại.
LỰA CHỌN CÁCH DẠY THÍCH HỢP
Thiết kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá chúng tôi Đặng Thành Hưng Tạp chí giáo dục số 102 (chuyên đề), quý IV/2004, trang 10. Thiết kế phương pháp dạy học (PPDH) là chức năng và công việc chuyên môn của giáo viên (GV). Nhưng GV phải dựa vào lí luận phương pháp và những quy tắc kĩ thuật nhất định để thiết kế mới đạt hiệu quả cao, mặc dù đương nhiên phải vận dụng kinh nghiệm nghề nghiệp cá nhân nữa. Vấn đề thiết kế hay lựa chọn PPDH cho đến nay chưa được làm rõ, nên GV gặp nhiều khó khăn trong việc đổi mới PPDH dạy học của mình. Chúng tôi không tán thành quan niệm cho rằng để đổi mới PPDH, GV phải biết lựa chọn PPDH phù hợp, theo những yêu cầu nào đó. Điều này không chính xác, hơn nữa còn gây lạc hướng và hiểu sai nhiệm vụ. Nếu đã có sẵn những PPDH mới để lựa chọn, thì GV không cần phải đổi mới, mà chỉ việc áp dụng mẫu có sẵn mà mình thích hoặc thấy phù hợp, còn đổi mới PPDH là việc của ai đó. Mặt khác, những PPDH mới này tư dưng ở đâu mà ra, nếu không phải do chính giáo viên tạo ra ? Chúng tôi xin bàn về thiết kế PPDH, do GV thực hiện, sau đó dựa vào chính thiết kế mới của mình mà tạo ra PPDH và tiến hành trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục của mình, chứ không phải PPDH của người khác.
II.1. Thiết kế bài học và phân tích thiết kế đó Kĩ thuật thiết kế bài học là việc phức tạp. Qua thiết kế này, GV đã xác định và thiết kế mục tiêu, nội dung học tập, các hoạt động của người học, các nguồn lực và phương tiện, môi trường học tập. Đây là chỗ dựa chủ yếu để thiết kế PPDH nhưng chưa đủ để thiết kế thành công.
II.2. Lựa chọn kiểu PPDH và thiết kế phương án kết hợp các kiểu đã chọn Dựa vào thiết kế bài học và nhận thức lí luận của mình về các kiểu PPDH (tức là phương pháp luận cụ thể), GV lựa chọn các kiểu PPDH và thiết kế trình tự, cách thức kết hợp chúng với nhau trong phạm vi bài học đó và có thể trong cả chuỗi bài học kế tiếp nhau. Điều này có nghĩa là: kiểu PPDH phải được tổ chức thống nhất với từng loại họat động của người học, theo các phương án thiết kế chính thức và dự phòng. Ví dụ: đối với loại hoạt động phát hiện-tìm tòi của người học, có thể chọn kiểu PPDH kiến tạo-tìm tòi kết hợp với kiểu khuyến khích-tham gia trong 1 hoạt động. Nếu dự cảm thấy có thể chưa thành công thì GV nên dự phòng phương án khác, chẳng hạn kiểu PPDH làm mẫu-tái tạo kết hợp với kiểu kiến tạo-tìm tòi,… Trong những loại hoạt động khác cũng thực hiện những bước tương tự.
Kết luận
Tóm lại, để đổi mới PPDH theo quan điểm thiết kế cần nhấn mạnh những phương hướng sau đây: GV là chủ thể trực tiếp đổi mới PPDH, không ai làm thay được, và điều đó diễn ra tại bài học, môn học, lớp học, trường học, trong quá trình dạy học. Đổi mới PPDH trải qua quá trình lựa chọn đúng và sáng tạo kiểu PPDH đã được mô tả lí luận trong khoa học giáo dục, xác định đúng và tối ưu những mô hình tâm lí (KN) của kiểu PPDH đã chọn – tức là đúng khả năng sư phạm của mình và đặc điểm của lớp học, người học. Cải thiện KN đã có nhưng chưa hiệu quả, học và bổ sung cho mình những KN còn thiếu nhưng cần phải có để thực hiện kiểu PPDH mà mình chưa quen sử dụng hoặc chưa có đủ nhận thức lí luận. Thay đổi thói quen không phù hợp trong suy nghĩ và hành động dạy học, nhờ thường xuyên chú ý áp dụng nhận thức lí luận về đổi mới dạy học và những phương pháp luận dạy học hiện đại. Phát triển những mô hình KN mới của PPDH theo những kiểu PPDH mà mình đã trải nghiệm thành công nhiều lần. Đó chính là sáng tạo PPDH mới ở hình thái KN và kĩ thuật, đồng thời là sự phát triển giá trị, kinh nghiệm nghề nghiệp, nâng cao tay nghề. GV thực hiện việc này qua suy nghĩ tìm tòi và trao đổi với đồng nghiệp hàng ngày, học hỏi lẫn nhau. Phát triển những phương tiện, học liệu và công cụ phù hợp nhất với mình và phong cách của lớp, với nội dung và tính chất môn học và tổ chức chúng có hiệu quả nhằm thực hiện những kiểu và mô hình PPDH mà mình đã chọn, đã phát triển và đã có kinh nghiệm sử dụng thành công. Trước khi tiến hành dạy học và thực hiện PPDH, cần phải thiết kế nó cùng với thiết kế bài học, trong đó cố gắng đưa những đóng góp và sáng tạo của riêng mình cũng như sáng kiến của đồng nghiệp vào thiết kế.