Điều Trị Tự Kỷ Bằng Phương Pháp Cấy Chỉ

Cấy chỉ là một phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc, đặc biệt và độc đáo của châm cứu Việt Nam, bao gồm chôn chỉ, vùi chỉ, xuyên chỉ, thắt buộc chỉ.

Đây là một phương pháp châm cứu mới, hiện đại áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật trên cơ sở kế thừa những lý luận và kinh nghiệm của châm cứu.

Từ nhiều năm qua, phương pháp cấy chỉ đã được thực hiện tại một số bệnh viện Y học cổ truyền, đặc biệt là tại Bệnh viện Châm cứu Trung ương. Hơn 30 năm qua, Bệnh viện Châm cứu Trung ương đã thực hiện cấy chỉ cho nhiều thể loại bệnh khác nhau thu được kết quả đáng khích lệ, phương pháp cấy chỉ đã dần khẳng định giá trị đích thực. Đó chính là phương pháp điều trị đặc biệt của châm cứu, phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc. Mới đây, tại Viện Y dược học dân tộc TP. HCM đã được nhận chuyển giao kỹ thuật cấy chỉ từ Bệnh viện Châm cứu Trung ương.

Ông Huỳnh Nguyễn Lộc, Phó Viện trưởng điều hành Viện Y Dược học dân tộc chúng tôi cho biết, Viện là đơn vị đầu tiên ở khu vực phía Nam được chính thức chuyển giao kỹ thuật. Việc này góp phần tiếp cận và thực hiện chuyển giao đối với các kỹ thuật từ bệnh viện tuyến trên nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh phục vụ bệnh nhân, đồng thời trang bị kiến thức và kỹ năng thực hành về kỹ thuật cấy chỉ trong điều trị một số bệnh lý mãn tính cho các cán bộ, viên chức tại viện.

Trong thời gian qua, rất nhiều bệnh mãn tính đã được điều trị khỏi bằng phương pháp cấy chỉ. Các dạng bệnh điều trị bằng kỹ thuật cấy chỉ gồm: chứng liệt, viêm mũi dị ứng, hen phế quản, bại não trẻ em và chứng tự kỷ. TS. Phạm Hồng Vân, Bệnh viện Châm cứu Trung ương, cho biết: “Với chứng tự kỷ, châm cứu rất hiệu quả trong việc tăng độ tập trung chú ý của trẻ, tăng độ hiểu lời của trẻ. Cấy chỉ có tác dụng trong 15 – 20 ngày, trong điều trị chứng tự kỷ còn phối hợp với nhiều phương pháp khác như ngôn ngữ trị liệu, phục hồi chức năng”.

Phương pháp này hiện nay được ứng dụng phổ biến để điều trị các chứng liệt do tai biến gây ra. Rất nhiều bệnh nhân đang điều trị vật lý trị liệu các chứng liệt do tai biến được đội ngũ y bác sĩ tại viện bắt đầu dùng phương pháp cấy chỉ điều trị. Có mặt trong ngày điều trị đầu tiên từ rất sớm, người nhà bệnh nhân Phan Gia Huy (74 tuổi, ngụ tại quận 5) tỏ ra vui mừng, phương pháp điều trị này sẽ bổ trợ rất nhiều cho ông. Vì khi bị liệt do di chứng của tai biến, ông Huy hay cáu gắt, nóng tính, tay chân bị liệt nên di chuyển khó khăn. Dù không nói được nhưng khi nghe bác sĩ và người nhà giải thích hiệu quả của phương pháp này. Ông Huy đã gật đầu nhanh đồng ý điều trị. Ông Ngọc (ngụ tại Thủ Đức) – một bệnh nhân đang điều trị tại viện gần 3 tháng nay xúc động nói: “Không phải ai cũng may mắn được dùng phương pháp này, vì lúc trước nghe đâu phải ra tới Hà Nội điều trị. Nghe bác sĩ bảo mình được chữa bằng cấy chỉ miễn phí thì thấy tinh thần phấn chấn hẳn. Người nhà tôi nghe cũng mừng lắm. Nghĩ đến cái chân mình nhanh phục hồi thôi là tôi vui rồi ”.

Được biết, trong thời gian từ ngày 8/6/2023 đến 14/6/2023, bệnh nhân thuộc các bệnh đã kể trên có thể đăng ký theo số điện thoại: 08.38445103 – 0964392632 để được điều trị miễn phí tại viện ( địa chỉ: 273-275 Nguyễn Văn Trỗi, phường 10, quận Phú Nhuận, TP.HCM).

Bằng phương pháp đưa chỉ catgut vào huyệt châm cứu của hệ kinh lạc để duy trì sự kích thích lâu dài, qua đó tạo tác dụng điều trị như châm cứu. Chỉ catgut cấy vào huyệt vị có tác dụng làm tăng protein, hydratcarbon và tăng chuyển hóa dinh dưỡng của cơ, nhờ có kích thích liên tục ở huyệt vị mà cải thiện tuần hoàn máu cho vùng cấy chỉ hoặc vùng bị liệt của bệnh nhân, tăng trương lực các sợi cơ. Cấy chỉ hiện nay không chỉ có giá trị ở Việt Nam mà còn nổi bật trên trường quốc tế, đặc biệt các nước châu Âu, xứng đáng mang tên “cấy chỉ Việt”.

(Theo Người Tiêu Dùng)

Chưa Có Bằng Chứng Khoa Học Cho Phương Pháp Cấy Chỉ Chữa Tự Kỷ

Trang chủ ” Tự kỷ ” Chưa có bằng chứng khoa học cho phương pháp cấy chỉ chữa tự kỷ

Cấy chỉ (catgut embedding therapy), một trong những hình thức tác động vào huyệt đạo như thuỷ châm, từ châm, laser châm… bằng cách chôn vùi catgut (một loại chỉ dùng trong phẫu thuật, có khả năng tự tiêu sau một thời gian nhất định) vào huyệt đạo nào đó nhằm kích thích huyệt đạo, tạo cân bằng âm dương, điều chỉnh chức năng tạng phủ… nhờ đó mà hết bệnh.

Liệu có chứng cớ khoa học nào về phương pháp điều trị này không? Chúng tôi giới thiệu ý kiến của BS Phạm Ngọc Thanh, nguyên trưởng đơn vị tâm lý và hiện là cố vấn khoa tâm lý, bệnh viện Nhi đồng 1, chúng tôi người đã có nhiều kinh nghiệm điều trị tự kỷ cho trẻ và có nghiên cứu chuyên sâu về hội chứng này:

Tự kỷ khác với tự kỷ ám thị

Hiện có sự nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ này. Tự kỷ là một rối loạn phát triển thần kinh được biểu hiện bởi những khiếm khuyết về quan hệ xã hội (như kém tiếp xúc mắt, thích chơi một mình, không biết chia sẻ với người khác…), khiếm khuyết về giao tiếp (chậm nói, không có khả năng đối thoại, có ngôn ngữ riêng, không biết chơi tưởng tượng…) và có một số hành vi rập khuôn (như thích quay bánh xe, đi nhón chân, khó thích ứng khi thói quen được thay đổi…). Chứng tự kỷ đã được BS Kanner mô tả lần đầu vào năm 1943.

Trong khi đó, ám thị là một kỹ thuật tâm lý được dùng để diễn tả sự biến đổi trong hành vi của chúng ta, gây nên bởi một thông báo gửi đến tâm trí (ví dụ như “tôi không mắc bệnh”). Mức độ của biến đổi đó phụ thuộc vào sự khêu gợi trực tiếp của thông báo đối với các cảm giác của chúng ta. Ám thị có thể được định nghĩa là bất cứ một kinh nghiệm nào khơi dậy cảm giác hay cảm xúc của chúng ta. Ám thị có thể là một từ ngữ, một câu văn được viết hay đọc lên. Nó có thể là một vật thể chúng ta trông thấy hay một biến cố chúng ta gặp phải. Tự kỷ ám thị là một ám thị chúng ta tự gây ra cho mình. Kỹ thuật này đã được Emile Coué áp dụng như một giả dược (placebo) để điều trị bệnh nhân vào đầu thế kỷ 20.

Cần nhấn mạnh rằng, các nhà khoa học chưa chứng minh nguyên nhân chính xác gây chứng tự kỷ nên hiện nay vẫn chưa có thuốc để chữa lành chứng này. Chứng cớ khoa học cho thấy nếu dấu hiệu tự kỷ được phát hiện sớm từ 18 tháng tuổi và trẻ được can thiệp sớm bằng phương pháp tâm lý giáo dục thì trẻ có thể phát triển khá hơn, nhưng vẫn mang chứng tự kỷ suốt đời.

Bị nhiễm trùng do cấy chỉ trị hen suyễn Bệnh viện đại học Y dược chúng tôi từng tiếp nhận điều trị một nữ bệnh nhân 37 tuổi, ngụ ở Kiên Giang, bị nhiễm trùng do cấy chỉ chữa hen suyễn. Bệnh nhân cho biết, đã đến phòng mạch tư của một bác sĩ đông y cấy loại chỉ tự tiêu dùng trong phẫu thuật lên các huyệt nhằm trị suyễn. Hơn mười ngày sau, các vết cấy sưng lên, có mủ và gây đau nhức. Sau khi thăm khám, các bác sĩ xác định nhiều vết cấy chỉ cấy vào huyệt đạo đã bị sưng viêm do nhiễm trùng. Bệnh nhân được tháo chỉ, cho uống thuốc chống nhiễm trùng rồi xuất viện. BS.CK2 Lê Hoàng Sơn, giám đốc bệnh viện Y học cổ truyền chúng tôi phó trưởng khoa y học cổ truyền, đại học Y dược chúng tôi cho biết cấy chỉ trị hen suyễn là một phương pháp điều trị đã được ngành y học cổ truyền áp dụng từ thập niên 70 – 80 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, ngày nay phương pháp này ít được sử dụng mà thay bằng cách dùng thuốc. Về nguyên nhân nhiễm trùng vết cấy ở bệnh nhân trên, theo BS Sơn, không phải do phương pháp mà vì kỹ thuật và các dụng cụ thực hiện chưa được vô trùng. Ngoài ra cũng có thể do người bệnh không chăm sóc vết cấy đúng theo hướng dẫn. “Tai biến trong cấy chỉ trị suyễn theo các bác sĩ y học cổ truyền thường rất ít xảy ra, song cần phải thực hiện đúng thủ thuật. Đặc biệt nên tránh đâm kim quá sâu các huyệt ở thành ngực”, BS Sơn lưu ý.

Một Số Phương Pháp Trị Liệu Cho Trẻ Tự Kỷ

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HÀNH VI (Applied Behavior Analysis or ABA)

Vào những nămcuối thập niên 60 và 70, Tiến Sỹ Ole Ivar Lovaas (1927-2010), một chuyên gia tâm lý thuộc trường phái Skinner, là người đầu tiên khởi xướng phương pháp phân tích và trị liệu hành vi (ABA/DTT) cho chứng tự kỷ tại Đại Học UCLA (University of California, Los Angeles).

1) Dạy kỹ năng (teaching skills): Chú trọng đến những kỹ năng cần đạt được của trẻ tự kỷ bằng cách phân chia hay soạn thảo những kỹ năng đó thành nhiều đoạn nhỏ hay bài học ngắn để giảng dạy. Ví dụ, để dạy trẻ tự kỷ về nói và ngôn ngữ, các chuyên viên ABA thường tiến hành những bước sau:

Dạy trẻ ngồi yên, mắt nhìn thẳng.

Dạy trẻ biết phân biệt âm giọng, sử dụng từ ngữ để liên tưởng đến vật thể.

Dạy trẻ biết dùng hình ảnh đúng với vật thể.

Dạy trẻ biết bắt chước những động tác của người lớn.

Dạy trẻ biết nối kết từ ngữ thành những câu đơn giản như “con muốn ăn cơm”.

2) Loại bỏ những hành vi không thích hợp (eliminating interfering behaviors): Mục đích của ABA là loại bỏ những hành vi có tác động tiêu cực, ngăn trở sự học tập, gây khó khăn trong giao tiếp xã hội của trẻ tự kỷ ở nhà trường và ở những môi trường sinh hoạt khác, chẳng hạn trẻ tự kỷ chỉ thích, chơi một mình, không chăm chú, không hợp tác, chống đối, lên cơn, trốn chạy, hay những hành động tự kích (self-stimulated) như thích nhìn đèn điện, xoay vần vật thể, nhún mình v.v…

Trong những buổi học đầu tiên, các chuyên viên ABA ứng dụng phương pháp phân đoạn, lặp đi, lặp lại, đơn giản và rõ ràng(Discrete Trial Training or DTT) bằng cách soạn thảo những câu hỏi cho công việc đòi hỏi trẻ phải thực hiện hay trả lời. Ví dụ, người giảng dạy ra lệnh cho trẻ vừa bằng lời, vừa bằng dấu hiệu (Discriminative Stimulus or SD) như vỗ tay, sờ trán, sờ tai. Nếu trẻ chưa trả lời vì phân vân hay rối trí, người giảng dạy cầm tay trẻ, giúp trẻ thực hiện những động tác nầy. Dần dần, khi trẻ quen với hiệu lịnh và thực hiện được những đòi hỏi đơn giản trên, sự nhắc nhở sẽ giảm đi và sự đòi hỏi khác sẽ được thêm vào như vừa vỗ tay, vừa dậm chân, sờ mũi, trán, tay. Sau mỗi hành động trẻ thực hiện được, chuyên viên hướng dẫn sẽ ngợi khen bằng lời nói hay tưởng thưởng trẻ bằng bánh kẹo hay những gì trẻ thích, cho giải lao trong chốc lát rồi đưa trẻ trở về lại với những động tác đã được huấn luyện. Theo thời gian, sự đòi hỏi hay công việc trẻ phải thực hiện sẽ gia tăng nhiều hơn và thời gian giải lao có thể kéo dài để tránh tình trạng căng thẳng cho trẻ.

Vào năm 1987, Lovaas và đồng sự có viết báo cáo về kết quả nghiên cứu của phương pháp phân tích, ứng dụng trị liệu hành vi, gọi là ABA của 38 trẻ tự kỷ bao gồm các trẻ nhỏ hơn 40 tháng tuổi (3 tuổi 4 tháng) nếu trẻ chưa nói được. Nhỏ hơn 46 tháng (3 tuổi 10 tháng) nếu trẻ nói được, nhưng thường lặp đi, lặp lại như vẹt.

Các em được chia làm 2 nhóm:

Trước khi sự trị liệu bắt đầu, 38 trẻ tự kỷ trong 2 nhóm được đo lường hay trắc nghiệm về khả năng trí tuệ và thích ứng với đời sống (pre-test). 2 năm sau, chương trình trị liệu chấm dứt, 38 trẻ trong 2 nhóm được đo lường hay trắc nghiệm lại (post-test).

Kết quả đạt được : 47% hay 9 trong số 19 trẻ tự kỷ thuộc nhóm được nhiều thời gian trị liệu, có khả năng trí tuệ tiến bộ đến mức bình thường, có thể theo học ở các lớp dành cho trẻ không bị khuyết tật và không cần đến sự can thiệp của chương trình giáo dục đặc biệt ở nhà trường. Ngược lại, chỉ có 1 trong 19 đứa trẻ thuộc nhóm được ít thời gian trị liệu, 10 tiếng một tuần, đạt được khả năng trí tuệ trung bình. Như vậy số lượng 10 tiếng trị liệu trong 1 tuần thật sự không đủ để giúp trẻ tự kỷ tiến bộ đến mức trung bình. Theo Lovaas và đồng sự, trẻ tự kỷ phải cần số lượng 40 tiếng trị liệu trong 1 tuần mới có thể đạt được khả năng trí tuệ của một đứa trẻ bình thường. Nói cách khác, số lượng 40 tiếng 1 tuần, theo nghiên cứu của Lovaas, là điều kiện để trẻ tự kỷ đạt được những mục tiêu sau:

Lồng vào những mục đích trên là sự rèn luyện những kỹ năng, kiến thức căn bản để chuẩn bị vào trường như trao dồi từ vựng, phân biệt hình thể, mầu sắc, số đếm, mẫu tự, cũng như khả năng xử dụng ngôn từ có chủ đích.

Ở giai đoạn đầu của ABA, các chuyên viên ABA thường huấn luyện phụ huynh những căn bản cần thiết để họ giúp đỡ thêm cho trẻ ở gia đình và khuyến khích phụ huynh trở thành những thành viên thuộc nhóm trị liệu. Vào những giai đoạn sau, chương trình trị liệu nhắm vào sự diễn đạt ngôn ngữ có tính trừu tượng, dạy trẻ biết học bằng sự quan sát, bắt chước và biết bày tỏ xúc cảm một cách thích hợp.

Trọng tâm của ABA chính là sự ứng dụng phương pháp giảng dạy được soạn thảo riêng và phân đoạn đơn giản, rõ ràng, có tính lặp đi, lặp lại, gọi là ABA/DTT.

PHƯƠNG PHÁP DISCRETE TRIAL TRAINING ( DTT)

Phương pháp nầy có thể ứng dụng ở nhà , ở trung tâm ở trường , hoặc ở một địa điểm yên tịnh nào đó, tùy vào điều kiện, giờ giấc sinh hoạt của gia đình và nhu cầu của trẻ tự kỷ.

1) Giảng viên phải thu hút sự chú ý của trẻ.

3) Giảng viên phải nhắc nhở nếu trẻ chưa thực hiện đúng với hiệu lịnh. Sự nhắc nhở của giảng viên có thể :

b) bằng sự phụ giúp cử động thân mình, chân tay của trẻ

d) bằng sự di chuyển vật thể gần với vị trí của trẻ.

Sự nhắc nhở sẽ giảm dần và không còn được ứng dụng khi trẻ dần quen và thực hiện những yêu cầu đúng theo hiệu lịnh của chuyên viên.

4) Giảng viên phải tạo cơ hội cho trẻ trả lời hay thực hiện đúng theo hiệu lịnh để gây cho trẻ sự hứng thú và sự tự tin để tiếp tục học tập.

5) Giảng viên chủ động về sự khen thưởng mỗi khi trẻ trả lời hay thực hiện đúng theo hiệu lịnh. Sự khen thưởng thường xuyên sẽ tạo nên sự phấn khởi, thúc đẩy trẻ hợp tác tích cực hơn trong quá trình học tập. Những câu trả lời sai thường được lờ đi, nhưng sẽ được lặp lại nhiều hơn trong những lần giảng dạy kế tiếp cho đến khi trẻ hiểu và trả lời một cách chính xác.

6) Giảng viên thâu thập dữ kiện về số lần trả lời hay thực hiện đúng, sai của trẻ để tổng kết, đo lường mức độ tiến bộ của trẻ về kỹ năng nào đó.

Cũng như nhiều phương pháp trị liệu tự kỷ khác, ABA/DTT có lắm kẻ khen, người chê. Điều nầy chứng tỏ rằng ABA/DTT chưa phải là phương pháp duy nhất, hữu hiệu nhất dành cho trẻ tự kỷ. Có khi sự ứng dụng hay áp đặt quá nhiều giờ ABA/DTT sẽ khiến trẻ xuống sức, mệt mỏi, chán chường, trở nên cáu kỉnh, chống đối bất thường với mọi người chung quanh. Một đứa trẻ bị ép buộc, thúc đẩy học tập ngoài khả năng của mình có thể trở nên hung hăng và tìm cách trốn chạy khỏi lớp học là chuyện rất thường tình. Bị động trong những tình huống đó, phụ huynh chỉ còn cách thay đổi giờ giấc, giảm thiểu giờ học hay tìm một phương pháp trị liệu khác thích hợp hơn cho con em mình.

Thái độ chống đối, bất hợp tác (noncompliance or uncooperative behavior) như lên cơn, nằm vạ thường xảy ra ở giai đoạn đầu, khi trẻ còn xa lạ với ABA/DTT. Trẻ tự kỷ có thể hiểu rằng sự chống đối, bất hợp tác là cách giúp chúng thoát khỏi sự đòi hỏi phải thực hiện một công việc nào đó của giảng viên. Dần dần, không sớm thì muộn, trẻ biết sẽ được khen thưởng nếu hợp tác, thực hiện công việc theo lời hay động tác của giảng viên. Tuy nhiên, nếu sự chống đối, bất hợp tác xảy ra vào những giai đoạn sau thì điều nầy chứng tỏ rằng chương trình giảng dạy cần phải được xem xét lại để có những bổ xung hay cải biến thích hợp hơn. Đó chính là vai trò của những chuyên viên tư vấn hay những chuyên viên có nhiều kinh nghiệm về giáo dục trẻ tự kỷ phải suy nghĩ và tham gia cùng với phụ huynh để soạn thảo những kế hoạch nhằm giải quyết vấn đề nầy.

PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU VỀ NÓI/NGÔN NGỮ

Sự truyền đạt ngôn ngữ là hành vi người ta dùng âm giọng hay tiếng nói để thu hút sự chú ý của người khác. Không phải bất cứ sự truyền đạt ngôn ngữ nào cũng có chủ đích. Một đứa trẻ tự kỷ đứng chơi một mình và nói vào khoảng không một cách lặp đi, lặp lại như “kẹo, kẹo, kẹo, kẹo” là không có chủ đích. Ngược lại, nếu trẻ đó lại gần, nhìn chúng ta và nói, “kẹo, ăn kẹo” thì đó chính là sự truyền đạt ngôn ngữ có chủ đích và lôi cuốn được sự chú ý của chúng ta.

Biết chờ đến lượt mình trong đối thoại,

biết nhìn người đối thoại,

biết không thay đổi hay chuyển đề tài đột ngột,

biết khoảng cách đứng, ngồi đối diện giữa trẻ và người khác một cách thích hợp,

biết nhận hiểu những ý nghĩ và phản ứng của người khác khi nói hay xúc phạm điều gì đó,

biết theo đúng nề nếp căn bản của xã hội.

Phương Pháp Truyền Đạt Ngôn Ngữ Không Dùng Lời (Augmentative and Alternative or ACC)

Tiến Sỹ Matt Tincani, chuyên gia ABA và là giáo sư giảng dạy trong chương trình giáo dục đặc biệt ở Đại Học Temple, Philadelphia, Pennsylvania, gợi ý rằng chừng 50% trẻ tự kỷ không thể dùng lời có chủ đích trong vấn đề truyền đạt ngôn ngữ. Tuy nhiên, bằng sự giảng dạy, ứng dụng phương pháp truyền đạt ngôn ngữ không dùng lời (AAC), trẻ tự kỷ có thể xử dụng ngôn ngữ một cách có ý nghĩa hơn.

Những phương pháp truyền đạt ngôn ngữ không dùng lời :

Mục đích chính của AAC là giúp đỡ trẻ tự kỷ học nói qua hình ảnh, dấu hiệu và trợ cụ, nhất là giúp đỡ trẻ tự kỷ có khó khăn về vận động môi, miệng lưỡi (oral-motor apraxia).

HỆ THỐNG TRAO ĐỔI NGÔN NGỮ BẰNG HÌNH ẢNH (Picture Exchange Communication System or PECS)

Những năm gần đây, hệ thống trao đổi sự truyền đạt ngôn ngữ bằng hình ảnh thay lời nói đã không ngừng cải biến để giúp trẻ tự kỷ phát triển khả năng truyền đạt về ngôn ngữ.

Hệ thống PECS được chủ xướng và phát động bởi Tiến Sỹ Andy Boudy và Lori A. Frost.Những chuyên gia về ngôn ngữ nầy cho rằng trẻ tự kỷ thường có lối suy nghĩ qua hình ảnh và vì vậy, trẻ tự kỷ có khả năng học bằng mắt hơn bằng tai nghe.

Hệ thống truyền đạt ngôn ngữ (PECS) ứng dụng những phương pháp ABA/DTT của Lovaas để dạy trẻ biết trao đổi hình ảnh cho những điều chúng muốn bày tỏ, nhưng không thể dùng lời. Ví dụ, trẻ đưa hình có ly nước cho người lớn với ý thay lời rằng trẻ đang khát nước.

Vài chuyên gia tự kỷ cho rằng PECS chỉ có hiệu quả đối với trẻ tự kỷ chưa biết xử dụng ngôn từ có chủ đích hay khả năng ngôn ngữ đang ở mức độ phát triển chậm, hoặc trẻ chưa thể nói được. Nhiều phụ huynh không muốn con mình học tập theo phương pháp nầy. Họ sợ trẻ sẽ trở nên lười nói, chỉ muốn xử dụng hình ảnh hay nhấn nút để truyền đạt ý muốn. Điều nầy chưa hẳn đúng, bởi vì PESC chỉ là một trong những phương pháp khởi đầu mà thôi.

Hệ thống ứng dụng kỹ thuật dạng thấp là những trợ cụ không thuộc điện tử, như bảng đối thoại bảng thời khóa biểu sách đàm thoại, sách có nhiều hình ảnh về thú vật, thức ăn, trái cây, địa danh, và những vật dụng rẻ tiền có thể tự làm được.

Hệ thống ứng dụng kỹ thuật dạng cao là những trợ cụ điện tử. Bằng những trợ cụ nầy, trẻ tự kỷ có thể bấm nút hay chạm tay vào màn hình để vừa nghe, vừa thấy hình ảnh. Ví dụ, khi trẻ bấm hình có ly sữa, trợ cụ điện tử sẽ có lời phát ra: “Làm ơn, tôi muốn uống sữa. Cảm ơn.”

Ngày nay, IPAD là một trợ cụ cao cấp, rất thông dụng, được nhiều trường học và trung tâm trị liệu tự kỷ xử dụng trong chương trình giảng dạy về nói/ngôn ngữ (AAC program).

Phương Pháp Ứng Dụng Hành Vi Bằng Lời (Verbal Behavior)

Phương pháp nầy là một nhánh tẻ của ABA/DTT do Tiến Sỹ Lovaas đề xướng năm xưa. Ở Hoa Kỳ, vào những năm gần đây, phương pháp nầy trở nên rất thịnh hành. Dựa vào triết thuyết của B.F. Skinner, phương pháp ứng dụng hành vi bằng lời có những trọng điểm như sau:

PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP BẰNG SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ XÃ HỘI (Relationship Developmental Intervention or RDI)

Ở Hoa Kỳ, phương pháp nầy tương đối mới và đang thu hút được nhiều sự chú ý của phụ huynh. Tiến Sỹ Steven Gutstein, một chuyên gia tâm lý và về tự kỷ, đã thành lập và cổ động phương pháp trị liệu nầy ở mạng chúng tôi Tiến Sỹ Gutstein cho rằng kỹ năng giao tiếp xã hội của trẻ tự kỷ thay đổi qua từng giai đoạn, và vì vậy, phụ huynh hay giáo viên phải biết làm gì để giúp đỡ trẻ phát triển về mặt giao tiếp xã hội trong từng giai đoạn đó. Ưu điểm của phương pháp nầy chính là sự thẩm định có thang bậc (scales) cho trẻ tự kỷ để soạn thảo những mục tiêu về mặt giao tiếp xã hội, nhất là đo lường được sự tiến bộ của trẻ trong những phiên bản về chương trình giáo dục cá nhân (IEP) ở nhà trường. Hiện chưa có những nghiên cứu về tính hiệu quả của phương pháp nầy, chỉ biết rằng lý thuyết của Gutstein có thể ứng dụng bên ngoài lớp học bởi các phụ huynh và các chuyên gia đa ngành.

PHƯƠNG PHÁP NGỒI SÀN (FLOORTIME)

Ở Hoa Kỳ, Stanley Greenspan (1941-2010) và Serena Weider, hai chuyên gia về tâm thần học, là những người có công soạn thảo và ứng dụng phương pháp nầy. Mục đích của phương pháp ngồi sàn là tạo nên sự hứng khởi, động lực cho trẻ tự kỷ trong vấn đề trao đổi ngôn ngữ. Thay vì trẻ ngồi xuống ghế học tập theo người lớn qua ABA, phương pháp ngồi sàn đòi hỏi người lớn phải gia nhập cuộc chơi với trẻ trên sàn, gọi là vòng tròn đối thoại (cirles of communication).

Trong sự ứng dụng phương pháp ngồi sàn hay ngồi dưới đất nầy, nếu trẻ hỏi và thực hiện điều gì đó thì người lớn sẽ trả lời và làm theo trẻ trong không khí thỏa mái, cùng nhau chơi đùa rất tự nhiên.

Hiện chưa có những nghiên cứu nào cho thấy phương pháp ngồi sàn có thành quả tốt hơn những phương pháp khác. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia tự kỷ cho rằng ABA/DTT thúc đẩy trẻ tự kỷ tiến bộ nhanh hơn, hữu hiệu hơn phương pháp ngồi sàn.

TEACH đã và đang được ứng dụng trong các dịch vụ dành cho tự kỷ ở North Carolina và ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Nhật Bản. TEACCH có tính cá nhân, đặt nặng nhu cầu cá biệt của từng trẻ tự kỷ, cho phép giảng viên và phụ huynh cùng nhau soạn thảo những mục tiêu trẻ cần phải đạt được. Mô hình nổi bật của TEACCH là các lớp học riêng biệt, cô lập, nằm trong một khuôn khổ có tổ chức và nề nếp (self-contained classroom).

Các chuyên gia TEACCH cho rằng trẻ tự kỷ thâu thập thông tin hiệu quả bằng mắt chứ không bằng tai nghe. Vì vậy, chuyên gia TEACCH thường dùng hình ảnh để hướng dẫn trẻ tự kỷ sinh hoạt đúng theo thời khóa biểu để tạo nên thói quen về mặt sinh hoạt, học tập, cũng như biểu hiện những hành vi thích hợp và tích cực. Ví dụ, họ dạy trẻ biết để quần áo, các hộp đựng thức ăn trưa ở đâu khi bước vào lớp học bằng cách dựa theo hình ảnh chỉ dẫn, dạy trẻ biết lấy bài tập ở đâu và để đâu khi chúng làm xong, và kế tiếp sẽ làm gì dựa vào thời khóa biểu có hình ảnh đi kèm.

– Trẻ thực hiện công việc chính xác hơn Trẻ có thời gian chấn chỉnh, tập trung hơn

– Trẻ phụ thuộc vào giảng viên nhiều hơn Trẻ có tính độc lập hơn

– Trẻ giải quyết vấn đề từ ngoài vào trong Trẻ giải quyết vấn đề từ trong ra ngoài

PHƯƠNG PHÁP THAY ĐỔI NHỮNG HÀNH VI “ĐẶC BIỆT” (Pivotal Response Training or PRT)

PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP (ECLECTICISM)

Nhiều chuyên gia tự kỷ giải thích đơn giản rằng chương trình giảng dạy/trị liệu tổng hợp (Electicism) chỉ là sự trộn lẫn một chút phương pháp TEACCH của Eric Schopler, một chút ABA của Lovaas, một chút phương pháp ngồi sàn của Greenspan, và một chút phương pháp trị liệu cảm giác của Jean Ayres …

PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU VẬN ĐỘNG (Physical and Occupational Therapies)

Sự trị liệu vận động về vật lý (physical therapy) thường được thực hiện qua chương trình thể dục thích nghi (adaptive physical education) ở nhà trường, ở các trung tâm trị liệu dưới sự hướng dẫn của giáo viên chuyên về thể dục đặc biệt hoặc các chuyên viên có bằng cấp chuyên môn để giúp trẻ vận động những cơ bắp lớn (physical therapy) như dạy trẻ chạy, nhảy, kết hợp vận động chân tay, đi đứng cân bằng. Còn sự trị liệu vận động nhỏ hay tinh vi (occupational therapy) ở nhà trường, ở nhà hay ở trung tâm điều trị chủ yếu là dạy trẻ biết cầm kéo cắt, cầm bút vẽ, viết, có những kỹ năng tự chăm sóc mình (self-help) như biết ăn, biết mặc, biết đánh răng, đi vệ sinh, biết cách học và biết cách chơi cùng chúng bạn. Ngoài ra, các chuyên viên vận động tinh vi (occupational therapists) có thể ứng dụng phương pháp trị liệu về cảm giác (sensory integration therapy) để dạy trẻ biết nhận hiểu và điều chỉnh những tác động thuộc về cảm giác.

PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÒA CẢM GIÁC (Sensory Integration or SI)

Ở Hoa Kỳ, chuyên gia về vận động tinh và tâm lý cho trẻ chậm phát triển, Tiến Sỹ Jean Ayres (1920-1989), biệt danh A. Jean Ayes thuộc Đại Học UCLA, là chuyên gia đầu tiên đúc kết cụm từ rối loạn về sự kết hợp cảm xúc (sensory integration dysfunction) vào những năm 60. Bà viết nhiều đề tài về phương diện nầy và khá nổi tiếng qua cuốn sách Sensory Integration and the Child.

Tiến Sỹ Ayes cho rằng trẻ bị chậm phát triển, kể cả tự kỷ, thường bị rối loạn về sự nhận hiểu cảm giác từ ngửi, nghe, thấy, sờ chạm, cũng như phản ứng hay di chuyển theo tác động của cảm giác.

Thiếu phản ứng : Chậm hay không phản ứng đối với những tiếng động lớn, tiếng nói, ánh sáng rực rỡ, hay không lộ rõ sự đau đớn khi ngã té hoặc tự gây thương tích cho chính mình.

Phản ứng mạnh : Bịt tai và la hét khi nghe những tiếng động bình thường hay bị sờ chạm.

Hành vi tự kích thích để tìm cảm giác : Chơi với những ngón tay xòe ra trước mặt, nhìn đèn điện, vật thể nào đó không chớp mắt, lắc đầu, lắc mình, quay vòng vòng v.v …

PHƯƠNG PHÁP DẠY KỸ NĂNG GIAO TIẾP XÃ HỘI (Social Skill Training)

Phương pháp dạy kỹ năng giao tiếp qua những câu chuyện ngắn về xã hội (social stories), có hình ảnh và đối thoại, thường được các chuyên viên tâm lý, chuyên viên về hành vi, ngôn ngữ, giáo viên, phụ giáo, phụ huynh áp dụng trong giờ chơi ở trường, trong lớp học, ở nhà qua những trò chơi, sinh hoạt để giúp trẻ tự kỷ trao dồi kỹ năng giao tiếp xã hội và kết bạn.

Phương pháp kể chuyện social stories do Carol Gray giám đốc trung tâm chuyên nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp xã hội ở Grand Rapids, Michigan, Hoa Kỳ, khởi xướng vào năm 1991.

– Liệu phương pháp giảng dạy/trị liệu do phụ huynh lựa chọn có đầy đủ dữ kiện để chứng minh một cách khoa học về tính hiệu quả hay chỉ đơn thuần là những ý kiến chủ quan, tự tăng bốc để trục lợi của các chuyên gia đề xướng chương trình hay phương pháp giảng dạy đó?

– Liệu chương trình hay phương pháp do phụ huynh lựa chọn có thích hợp và nằm trong kế hoạch giáo dục/trị liệu dài lâu cho con em khuyết tật hay không?

Nhìn chung,, các phương pháp chỉ nên xem là một kỹ thuật nằm trong một Hệ thống can thiệp nhiều mặt ở các môi trường : Gia đình – Nhà trường và Xã hội dưới sự phối hợp của 3 vai trò là ; Phụ huynh – Giáo viên đặc biệt và Chuyên viên . Không chỉ giao việc can thiệp cho một vai trò riêng lẻ nào.

Comments

Tranh Cãi Về Phương Pháp Aba Cho Trẻ Tự Kỷ

Ánh Dương/Sức khỏe Cộng đồng

Tại sao một số phụ huynh và những người đang hoạt động vì người tự kỷ lại cho rằng phương pháp Phân tích Hành vi Ứng dụng (ABA) có những điểm tiêu cực?

Trong vài thập kỷ qua, Phân tích Hành vi Ứng dụng, hay ABA, đã phát triển thành một nhóm gồm rất nhiều phương pháp và kỹ thuật để giúp trẻ tự kỷ. Nguyên tắc trị liệu hành vi – củng cố tích cực các hành vi mong muốn – được sử dụng, thường chuyên sâu, để giúp trẻ tự kỷ phát triển các kỹ năng mà chúng không có được một cách tự nhiên và giảm các hành vi có hại, như tự gây thương tích.

Nhưng khi ABA, do Ivar Lovaas, một nhà tâm lý học tại Đại học California ở Los Angeles phát triển, mở rộng và trở nên phổ biến hơn, nó cũng vấp phải nhiều sự chỉ trích từ các bậc cha mẹ và những người đang hoạt động vì chứng tự kỷ khi họ nhìn thấy các vấn đề và cách các phương pháp này đang được thực hiện.

Quá khắc nghiệt với trẻ?

Một nguồn chỉ trích xuất phát từ thực tế rằng Đào tạo Thử nghiệm Rời rạc (DTT) một kỹ thuật thuộc ABA không hoàn toàn dựa trên việc củng cố tích cực các hành vi mong muốn.

Tiến sĩ Susan Epstein chuyên về thần kinh lâm sàng, giải thích: “Tiến sĩ Lovaas đã sử dụng các nguyên tắc củng cố tích cực và trừng phạt để giảm các hành vi tự gây thương tích trong các trung tâm chăm sóc trẻ tự kỷ, điều trị cho những người bị suy yếu nghiêm trọng”.

Ngày nay, việc sử dụng các phương pháp củng cố gây khó chịu, bao gồm sốc điện, không còn được chấp nhận, phương pháp ABA, bao gồm nhiều thực hành lặp đi lặp lại, vẫn bị cho là gây khó khăn cho trẻ và các kỹ năng mà chúng học không phải lúc nào cũng bao quát cho các tình huống khác.

Nhiều người có định kiến rằng các nhà trị liệu luôn giao những nhiệm vụ nặng nề cho trẻ tự kỷ. Tuy nhiên, tiến sĩ Catherine Lord, giám đốc trung tâm về tự kỷ và phát triển não bộ Center for Autism and the Developing Brain tại Đại học Y Weill Cornell & Bệnh viện Presbyterian ở New York, lưu ý rằng hầu hết các nhà trị liệu ABA truyền thống đều được đào tạo để trở nên siêu sinh động và vui nhộn. “Đôi khi bạn thấy một người không hài hước. Nhưng đó chỉ là cách dạy kém chứ không phải là lỗi của ABA”, bà Catherine nói.

Và hầu hết các nhà trị liệu và chương trình ABA hiện không sử dụng hình thức DTT, tức trẻ ngồi ở bàn mà dựa trên trò chơi. Sara Germansky, một nhà phân tích hành vi có chứng chỉ BCBA – chứng nhận cao nhất được trao cho những người được đào tạo bởi tổ chức ABA chuyên nghiệp – đưa ra ví dụ như sau:

“Tôi có thể thiết lập một cái gì đó khi trẻ chơi ô tô đồ chơi và nếu tôi muốn nói về màu sắc, tôi có thể để hai chiếc ô tô trước mặt – một chiếc màu đỏ và một chiếc màu vàng. Và nếu trẻ nói ‘Cháu có thể mượn một chiếc xe không?’ Tôi sẽ nói ‘Ồ, cháu muốn chiếc xe màu đỏ hay chiếc xe màu vàng?’ Sau đó trẻ sẽ phải mở rộng ngôn ngữ của mình bằng cách nói ‘Cháu muốn chiếc xe màu đỏ’. Sau đó tôi sẽ nói ‘Cái nào màu đỏ?’ Và trẻ sẽ phải xác định màu sắc. Vì vậy, có nhiều cách thiết lập môi trường để trẻ học hỏi những kỹ năng này một cách tự nhiên hơn”.

Bên cạnh đó, bà nói thêm, trẻ có nhiều khả năng khái quát các kỹ năng học được trong một tình huống tự nhiên ngoài các buổi trị liệu và đưa các kĩ năng đó ra thế giới.

Ngoài ra, gần như không bao giờ ABA được sử dụng tới 40 giờ một tuần như Tiến sĩ Lovaas khuyến nghị ban đầu. Theo ông Germansky, người trị liệu một thầy một trò cho trẻ tự kỷ ở thành phố New York, cho biết hầu hết trẻ được trị liệu 10 giờ một tuần hoặc 20 giờ một tuần. “Trẻ có hành vi càng nghiêm trọng hoặc càng bị trở ngại, số giờ học càng nhiều. Tôi thấy trẻ thường được trị liệu hai giờ mỗi ngày trong tuần”, ông nói.

Quá tập trung vào việc loại bỏ các hành vi?

Một phàn nàn khác về ABA bắt nguồn từ việc một số người thực hành phương pháp này không tập trung phát triển các kỹ năng cùng với việc cố gắng giảm hoặc loại bỏ các hành vi có vấn đề. Tameika Meadows, một BCBA ở Atlanta, nói rằng bà thấy vấn đề này khi đến thăm một số trường để tư vấn về cách áp dụng ABA.

Một trong những điều đầu tiên bà để ý là việc loại bỏ các hành vi không mong đợi dường như đang là trọng tâm ở đây. Trong khi trẻ không được dạy làm gì thay vì nổi giận , hay thay vì cố gắng trốn khỏi tòa nhà cả ngày.

Ari Ne’eman, vốn là một người tự kỷ, đang là nhà hoạt động vì người tự kỷ nổi tiếng, phản đối ABA với lý do nó tập trung vào việc khiến những người tự kỷ không khác biệt với bạn bè cùng trang lứa (indistinguishable from their peers). Theo ông, điều đó có nghĩa là nó ngăn cản các hành vi mà không thừa nhận nội dung cảm xúc của họ.

“Việc nhấn mạnh vào những thứ như giao tiếp bằng mắt hoặc ngồi yên hoặc không tự kích thích – đang xoay quanh việc cố gắng tạo ra những khuôn mẫu của đứa trẻ điển hình, mà không thừa nhận thực tế rằng những đứa trẻ khác nhau có nhu cầu khác nhau. Có thể sẽ gây hại khi chúng ta nói với trẻ còn rất nhỏ rằng cách chúng hành động, cách chúng di chuyển đang sai cơ bản”, ông nói.

Ne’eman, hiện là chủ tịch và đồng sáng lập mạng lưới Tự bênh vực của người tự kỷ Autistic Self Advocacy Network, không phản đối việc can thiệp có cấu trúc sớm vào trẻ tự kỷ và ông thừa nhận hành vi tự gây thương tích – một trong những điều ABA được thiết kế để giảm thiểu – là một vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, ông lập luận rằng các can thiệp có cấu trúc khác nhằm vào lời nói và ngôn ngữ có thể có giá trị hơn, đặc biệt là đối với trẻ không nói hay chỉ dùng hành vi làm hình thức giao tiếp.

Cố gắng loại bỏ sự khác biệt?

Những người bảo vệ ABA cho rằng phương pháp này không nhằm mục đích lấy đi sự đa dạng thần kinh của trẻ tự kỷ mà đem lại cho trẻ sự độc lập.

“ABA dựa trên tiền đề thao túng các biến môi trường để mang lại sự thay đổi hành vi. Vì vậy chúng tôi không cố gắng thay đổi con người, chúng tôi không cố gắng thay đổi cách suy nghĩ của họ, chúng tôi không cố thay đổi cách họ cảm nhận”, Germansky nói.

Đó là điều mà Stephanie Kenniburg đã có với con trai Holden, hiện 6 tuổi bằng liệu pháp ABA. “Điều tôi thích là họ đang cố gắng giúp thằng bé sống độc lập nhất có thể mà không cố để thằng bé không còn tự kỷ. Giống như có một số phần nhất định của thằng bé bị tự kỷ – cách bộ não hoạt động, cách suy nghĩ – và họ không xem đó là cái gì đó tiêu cực cần phải biến mất. Họ đang kiểu như ‘Đây là cách cậu bé nghĩ nên chúng tôi sẽ dạy cậu bé theo cách này để sống trên thế giới'”.

Kenniburg nói rằng cả gia đình đã học được cách giúp Holden phát triển các kỹ năng thông qua ABA. “Tôi thích việc họ chấp nhận sự đa dạng thần kinh của thằng bé và rằng họ đã chấp nhận thằng bé như một người. Họ thực sự đã giúp gia đình chúng tôi dạy thằng bé cách tự lập hơn”, cô cho hay.

Phương pháp ABA giúp trẻ có nhiều lựa chọn hơn – và nhiều niềm vui hơn

Tiến sĩ Lord thừa nhận ABA ban đầu tập trung vào mục tiêu rằng trẻ em sẽ phù hợp với một lý tưởng điển hình. “ABA được tạo ra với một kiểu mẫu với cách trở thành hoàn hảo và chúng tôi biết đó là gì, chúng tôi sẽ dạy trẻ làm thế nào để trở thành sự hoàn hảo đó”, bà nói.

Tuy nhiên, các phương pháp ABA giờ đây cá nhân hóa hơn nhiều, dù vẫn luôn có mục tiêu. “Một trong những điều khó khăn khi làm việc với trẻ là bạn luôn phải đưa ra các giả định về những gì sẽ là tốt nhất cho đứa trẻ này.

Tiến sĩ Lord đồng ý với Ari Ne’eman khi ông lưu ý về việc đang có những sự can thiệp sớm và mạnh. Ngoài ra, đối với những trẻ ít bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi chứng tự kỷ, việc chọn chương trình ABA hay chương trình gì khác ít quan trọng hơn. Nhưng bà nói rằng những đứa trẻ có nguy cơ không nói đã được chứng minh là có cơ hội nói cao hơn khi được trị liệu bằng ABA.

Theo bà, một nhà trị liệu giỏi, dù dùng ABA hay không, là cố gắng tìm ra những cách thúc đẩy điểm mạnh của một đứa trẻ, giúp chúng hòa nhập vào xã hội và điều đó sẽ cho chúng những lựa chọn tốt nhất. “Đó là những gì chúng tôi muốn. Chúng tôi không muốn một người cư xử tốt nhất, chúng tôi muốn một người có thể làm nhiều nhất có thể và có được nhiều niềm vui nhất bên ngoài thế giới.

Cấy Chỉ Vào Huyệt Điều Trị Bệnh Tự Kỷ

Phương pháp cấy chỉ vào huyệt đạo của Trung tâm Cấy chỉ – Phục hồi chức năng Minh Quang đã đem đến nhiều hy vọng cho bệnh nhân tự kỷ.

Thứ tư – 15/08/2012 15:38

Phương pháp cấy chỉ vào huyệt đạo của Trung tâm Cấy chỉ – Phục hồi chức năng Minh Quang đã đem đến nhiều hy vọng cho bệnh nhân tự kỷ.

Ngày 2/4/2011, bệnh nhi được bố mẹ đưa đến khám và điều trị tại Trung tâm Cấy chỉ – Phục hồi chức năng Minh Quang, được chẩn đoán tự kỷ thể tăng động kèm theo rối loạn ngôn ngữ. Được điều trị phục hồi chức năng bằng phương pháp cấy chỉ vào các huyệt vị 2 lần. Lần 2 cách lần một 20 ngày. Sau khi điều trị lần 1, bệnh nhi nói được nhiều câu đơn và câu có 2 từ. Hay nói nhiều hơn trước, đỡ nghịch ngợm hơn trước nhiều.

Sau ba tháng kể từ ngày đầu điều trị, ngày 8/7/2011, chị Phạm Thị Vân, mẹ cháu Vinh cho biết, cháu đã biết nói và làm mọi việc như trẻ bình thường cùng lứa tuổi. Hiện cháu đã được đi học lớp học mầm non cùng với các trẻ bình thường khác. BS Quách Tuấn Vinh, giám đốc Trung tâm Cấy chỉ – Phục hồi chức năng Minh Quang cho biết: Cấy chỉ là một phương pháp sử dụng chỉ khâu phẫu thuật cấy ghép vào huyệt đạo. Nghiên cứu tại Trung tâm cấy chỉ – Phục hồi chức năng Minh Quang áp dụng phương pháp cấy chỉ điều trị – Phục hồi chức năng cho trẻ mắc hội chứng tự kỷ, bước đầu có thể đánh giá cấy chỉ có tác dụng tốt cho căn bệnh này. Chúng tôi áp dụng cấy chỉ vào một số huyệt như thận du, thái khê, định thần, ấn đường, nội quan, an miên 2, thông lý, túc tam lý, phong trì, á môn, phong phủ… nhằm mục đích bổ thận, dưỡng não, khai khiếu, an thần. Đợt điều trị tối thiểu 3 – 5 lần, mỗi lần cách nhau 20 ngày. Nhìn chung, kết quả điều trị rất khả quan, trẻ giảm và hết tăng động, cải thiện khả năng giao tiếp… Phương pháp điều trị – Phục hồi chức năng này có nhiều ưu điểm như hiệu quả cao hơn các phương pháp khác. Khoảng cách giữa 2 lần điều trị 20 ngày, vì vậy, giảm thiểu thời gian của thầy thuốc cũng như gia đình bệnh nhân khi điều trị – phục hồi chức năng cho con em mình. Đây là phương pháp không dùng thuốc nên không gây nghiện như các thuốc hướng thần thường dùng điều trị tự kỷ. Theo Phạm Hằng