Phân Biệt Vi Khuẩn Gram Âm Gram Dương / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Channuoithuy.edu.vn

Phân Biệt Vi Khuẩn Gram Âm Và Gram Dương

Phân biệt gram âm và gram dương:

+https://moingaymotthuoc.wordpress.com/2023/07/28/phan-biet-vi-khuan-gram-duong-va-vi-khuan-gram-am/

Cơ chế Vancomycin:

+ https://www.dieutri.vn/v/vancomycin + https://pharmaxchange.info/…/mechanism-of-action-of-vancom…/ + https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/6440886 + https://www.drugbank.ca/drugs/DB00512]

PHƯƠNG PHÁP NHUỘM GRAM  GIÚP TA PHÂN BIỆT VI KHUẨN THÀNH 2 NHÓM LỚN:

Vi khuẩn G+ (gram-positive) bắt màu tím

Vi khuẩn G- (gram-negative) bắt màu hồng

SỰ KHÁC NHAU GIỮA VÁCH TẾ BÀO G+ VÀ G-

Vách tế bào G+ : rất dày gồm một lớp peptidoglycan và acid teichoic

Peptidoglycan (còn được gọi là murein chiếm 80%-90% thành phần vách tế bào) là loại polime xốp, không tan, khá cứng và bền vững bao quanh tế bào như một mạng lưới. Cấu trúc cơ bản của peptidoglycan gồm 3 thành phần: N-acetylglucosamine (NAG), acid N-acetylmuramic (NAM) và tetrapeptide gồm cả loại L và D acid amine. Ðể tạo thành mạng lưới cứng, tetrapeptide trên mỗi chuỗi peptidoglycan liên kết chéo với tetrapeptide trên chuỗi khác.

Bên trong lớp peptidoglycan là acid teichoic – hợp chất polymer của ribitol-phosphate và glycerol phosphate – một thành phần đặc trưng của tế bào vi khuẩn G+ vừa liên kết với peptydoglycan vừa liên kết với màng sinh chất. Phần liên kết với peptidoglycan gọi là acid lipoteichoic.Hiện nay đã biết được nhiều kiểu peptidoglycan ở các loài khác nhau gọi là cầu trung gian.

Vách tế bào G-: có cấu trúc phức tạp gồm 2 lớp màng ngoài và peptidoglycan mỏng

Trong cùng là một lớp peptidoglycan mỏng, cách một lớp không gian chu chất và tới lớp màng ngoài (outer membrane)

Lớp màng ngoài là phức hợp lipidpolysaccharide gồm lipoprotein và lipopolysaccharide. Màng ngoài có cấu trúc gần giống tế bào chất nhưng phospholipid hầu như chỉ gặp ở lớp trong, còn ở lớp ngoài là lipopolysaccharide dày khoảng 8-10 nm gồm 3 thành phần: + Lipid A. + Polysaccharide lõi. + Kháng nguyên O. Màng ngoài còn có thêm các protein: + Protein cơ chất: porin ở vi khuẩn còn gọi là protein lỗ xuyên màng với chức năng cho phép một số loại phân tử đi qua chúng như dipeptide, disaccharide, các ion vô cơ… + Protein màng ngoài: chức năng vận chuyển một số phân tử riêng biệt và đưa qua màng ngoài như: nucleotide, vitamin B12,… + Lipoprotein: đóng vai trò liên kết lớp peptidoglycan bên trong với lớp màng ngoài.

MÔ TẢ VÀ GIẢI THÍCH SỰ BẮT MÀU CỦA VI KHUẨN GRAM DƯƠNG VÀ GRAM ÂM:

Bước 1: nhuộm tím tinh thể (crystal violet) trong 1 phút. G+ và G– đều có màu tím do màu thấm vào lớp peptidoglycan của G+ và màng ngoài của G–.

Bước 2: thêm dung dịch Lugol, để 1 phút. G+ và G– có màu tím đậm hơn do iot tạo phức chất màu với tím tinh thể và cố định màu.

Bước 3: Tẩy bằng cồn cao độ (15-30 giây). G+: cồn làm cho các lỗ peptidoglycan co lại do đó phức chất tím tinh thể – iot bị giữ lại trong tế bào. G-: do cồn làm tan lớp màng ngoài có màu, bản chất là lipid dẫn đến sự rửa trôi phức chất tím tinh thể – iot, do đó trong giai đoạn này G– sẽ mất màu.

Bước 4: nhuộm tiếp Safranin hay Fuchsin Ziehl. G+ vẫn giữ màu tím do không bắt màu Safranin hay Fuchsin Ziehl còn G– bắt màu hồng.

Kết luận: với phương pháp nhuộm Gram như trên, G+ giữ lại màu tím, G– giữ lại màu hồng.

KHÁNG SINH VANCOMYCIN:

Hình 1: Một số cơ chế tác động của kháng sinh: 1/ Ức chế tạo vách tế bào. 2/ Ức chế sinh tổng hợp: protein, nucleic acid, folic acid,… 3/ Gây rối loạn chức năng màng sinh chất.

Source: Brock Biology of Microorganisms

Hình 2: Vancomycin là kháng sinh dạng glycopeptide nhân 3 vòng phổ hẹp, ức chế sự tạo thành vách tế bào vi khuẩn, cụ thể là ngăn cản sự sinh tổng hợp peptidoglycan. Peptidoglycan trong màng tế bào trở nên bền chắc nhờ mối liên kết chặt chẽ, được hình thành nhờ xúc tác transpeptidase trong các khuôn tổng hợp (NAG hay NAM) chứa tiểu đơn vị gồm các monomer của acetylmuramic acid và N-acetylglucosamine.

Source: http://slideplayer.com/slide/8575829/

Vancomycin có thể nhận diện để bám vào cấu trúc D-alanyl-D-alanine dipeptide trong các tiểu đơn vị trên, ngăn cản hoạt động của transpeptidase cũng như sự gắn kết của các khuôn tổng hợp vào màng tế bào. Vancomycin chủ yếu tác động lên vi khuẩn gram+, bị kháng bởi tất cả gram-. Một số loại vi khuẩn gram+ như enterococci có cấu trúc D-alanyl-D-lactate dipeptide thay cho D-alanyl-D-alanine dipeptide nên vancomycin khó phát hiện, từ đó giải thích tính kháng vancomycin của loại vi khuẩn này. Vancomycin còn tác động đến tính thấm màng tế bào và quá trình tổng hợp RNA của vi khuẩn. Cho tới nay, chưa có báo cáo về kháng chéo của vi khuẩn giữa các kháng sinh khác và vancomycin.

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Vi Khuẩn Gram Âm Và Gram Dương

Vi khuẩn Gram dương có thành tế bào dày, dạng lưới cấu tạo bởi peptidoglycan, chất này có khả năng giữ phức hợp tím tinh thể-iot. Trong khi đó, lớp thành tế bào peptidoglycan của các vi khuẩn Gram âm thì mỏng hơn và thường có thêm lớp màng lipopolysaccharide (LPS) bên ngoài.

Thành tế bào vi khuẩn Gram (+) và Gram (-)

Sau khi nhuộm với phức hợp tím tinh thể-iot, mẫu được xử lí tiếp với hỗn hợp khử màu, làm mất nước của các lớp peptidoglycan trong thành tế bào Gram dương, từ đó làm giảm khoảng trống giữa các phân tử và khiến thành tế bào bắt giữ phức hợp tím tinh thể-iot bên trong tế bào.

Đối với vi khuẩn Gram âm, hỗn hợp khử màu đóng vai trò là chất hoà tan lipit và làm tan màng ngoài của thành tế bào. Lớp peptidoglycan mỏng không thể giữ lại phức hợp tím tinh thể-iot và tế bào Gram âm bị khử màu. Khử màu là bước quan trọng và cần kĩ năng nhất định vì khả năng bắt màu Gram dương không phải là “tất cả hoặc không.”

Theo kinh nghiệm (và có ngoại lệ), bệnh do vi khuẩn Gram âm thường nguy hiểm hơn vì màng ngoài của chúng được bọc bởi một nang, và nang này che các kháng nguyên làm cơ thể phát hiện tác nhân xâm lấn khó khăn hơn. Ngoài ra, màng ngoài vi khuẩn Gram âm có chứa lipopolysaccharide, đóng vai trò là nội độc tốvà làm tăng độ nặng của phản ứng viêm, có thể gây sốc nhiễm khuẩn. Nhiễm vi khuẩn Gram dương thường ít nguy hiểm hơn vì cơ thể người không có peptidoglycan, và có khả năng sản xuất lysozyme tấn công lớp peptidoglycan nằm ở bên ngoài của vi khuẩn.

Bảng so sánh vi khuẩn Gram (-) và gram (+)

2. Một số vi khuẩn Gram (-) thường gặp

Hiếu khí và ít hiếu khí: – Não mô cầu (Nesseria meningitidis): Gây bệnh viêm màng não – Lậu cầu (Nesseria gonorrhoeae): Gây bệnh lậu. – Moracella catarrhalis: Gây bệnh viêm đường hô hấp. – Acinetobacter: Gây bệnh nhiễm khuẩn tại bệnh viện như viêm phổi, nhiễm khuẩn máu, nhiễm khuẩn tiết niệu,…

a/ Hiếu khí và ít hiếu khí: – Trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa): Gây bệnh nhiễm khuẩn tại bệnh viện như nhiễm khuẩn vết mổ, nhiễm khuẩn vết bỏng, viêm phổi, nhiễm khuẩn máu, … – Bordetela pertusis: Gây bệnh ho gà. – Legionella pneumophila: Gây bệnh viêm phổi. – Haemophilus influenzae: Gây bệnh viêm đường hô hấp, viêm phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn máu,… b/ Kị khí: – Bacteroides: Gây bệnh áp xe đường tiêu hóa và ngoài đường tiêu hóa. – Fusobacterium: Phối hợp gây nhiễm khuẩn xoang miệng. c/ Hiếu kị khí tùy tiện: Họ vi khuẩn đường ruột. – Escherichia coli: Nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và ngoài đường tiêu hóa như đường niệu và đường máu… – Samonella: Gây bệnh thương hàn, viêm dạ dày ruột. – Shigella: Gây bệnh lỵ. – Klebsiella: Gây bệnh viêm phổi, viêm màng não… – Enterobacter: Gây bệnh nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm phổi, viêm đường mật… Vi khuẩn hình cong: Hiếu khí và ít hiếu khí: – Phẩy khuẩn tả (vibrio cholerae biotip cholerae hoặc El tor: Gây bệnh tả – Campylobacter: Gây bệnh ỉa chảy. – Helicobacter pylori: Gây bệnh viêm loét dạ dày tá tràng. Các vi khuẩn Gram âm khác: – Vi khuẩn có vách mền mại: Hiếu khí và ít hiếu khí. Leptospira: Gây bệnh leptospirosis (vàng da chảy máu). Borellia: Gây bệnh sốt hồi qui. Treponema pallidum: Gây bệnh giang mai. Treponema pertenue: Gây bệnh ghẻ cóc. – Vi khuẩn ký sinh tuyệt đối trong tế bào: Rickettsia prowazekii: Gây bệnh sốt phát ban dịch tể. Rickettsia tsutsugamushi: Gây bệnh sốt mò. Chlamydia trochomatis: Gây bệnh mắt hột. Chlamydia psittaci: Gây bệnh sốt vẹt. – Vi khuẩn không có vách: Mycoplasma pneumoniae: Gây bệnh viêm phổi không điển hình. Mycoplasma hominis và ureaplasma urealyticum: Vi hệ bình thường, có thể gây viêm tuyến tiền liệt, mào tinh hoàn, đường tiết niệu sinh dục.

a/ Hiếu khí: – Tụ cầu (Staphylococcus): gồm có Tụ cầu vàng (S. aureus): Gây bệnh viêm da mô mềm; nhiễm khuẩn tại bệnh viện như nhiễm khuẩn vết mổ, nhiễm khuẩn vết bỏng, viêm phổi, nhiễm khuẩn máu,… Tụ cầu da (S. epidermidis): Gây bệnh viêm da mô mềm. Tụ cầu saprophyticus: Gây bệnh nhiễm khuẩn tiết niệu. – Liên cầu (Streptococcus): S. pyogenes (nhóm A): Gây bệnh viêm họng biến chứng thấp tim… S. agalactiae (nhóm B): Gây bệnh nhiễm khuẩn vết thương, nhiễm khuẩn máu… S. viridans: Vi hệ bình thường ở họng, viêm màng trong tim. S. pneumoniae (phế cầu): Viêm phổi, viêm tai giữa, viêm màng não. – Liên cầu đường ruột (Enterococcus): Nhiễm khuẩn tiết niệu, nhiễm khuẩn vết thương, viêm màng trong tim,… b/ Kị khí: – Peptococcus và Peptostreptococcus: Gây bệnh nhiễm khuẩn vết thương; các ổ áp xe trong miệng, não, phổi, cơ xương, phụ khoa,… Trực khuẩn không sinh nha bào: a/ Hiếu khí: – Bạch hầu (Corynebacterium diphteriae): Gây bệnh bạch hầu. – Lactobacillus: Vi hệ bình thường ở đường ruột, âm đạo, miệng không gây bệnh. – Listeria monocytogenes: Gây bệnh nhiễm khuẩn máu, viêm não màng não,… b/ Kị khí và chịu khí: – Propionibacterium acnes: Gây bệnh mụn trứng cá. – Bifidobacterium Vi hệ bình thường ở đường ruột, âm đạo không gây bệnh. – Actinomyces: Nhiễm khuẩn răng miệng. Trực khuẩn sinh nha bào: a/ Hiếu khí: – Bacillus anthracis: Gây bệnh than. – Mycobacterum (kháng cồn và acid): Gồm có M. tuberculosis gây bệnh lao và M. Leprae gây bệnh phong. b/ Kị khí: – Clostridium tetani: Gây bệnh uốn ván. – C. perfringens: Gây bệnh hoại thư sinh hơi. – C. botilinum: Gây bệnh ngộ độc thịt. – C. difficile: Gây bệnh viêm đại tràng màng giả.

Sự Khác Biệt Giữa Thành Tế Bào Của Vi Khuẩn Gram Dương &Amp; Âm Tính Là Gì?

Thành tế bào gram dương chứa một lớp peptidoglycan dày bao quanh thành tế bào Gram âm chứa một lớp peptidoglycan mỏng giữa màng tế bào chất và màng ngoài.

tham khảo trang này để biết chi tiết đầy đủ: Vi khuẩn gram dương và vi khuẩn gram âm – Sự khác biệt và so sánh

Cảm ơn vì A2A

Vi khuẩn có hai loại chính. Gram dương và Gram âm dựa trên cách chúng nhuộm trong xét nghiệm Gram Stained sơ bộ. Điều này chủ yếu là do sự khác biệt trong thành phần thành tế bào của các vi khuẩn khác nhau.

Vi khuẩn gram dương có thành tế bào không có màng ngoài. Thành tế bào của chúng dày (20 trận30nm) và có thành tế bào thực sự nhẵn. Hàm lượng murein rất cao (70 thép80%) và có hàm lượng lipid rất thấp. Hàm lượng lipid thấp cũng có nghĩa là nó sẽ không có trong vết safranin thứ cấp được sử dụng để nhuộm gram. Một sự khác biệt lớn khác là sự vắng mặt của các vách tế bào cho sự hấp thu chất dinh dưỡng. Ngoài ra còn có axit Lipoteichoic cung cấp cho thành tế bào Gram dương độ cứng của nó.

Mặt khác, vi khuẩn gram âm có thành tế bào có màng ngoài lipid dễ thấy, đó là lý do tại sao chúng không có màu tím pha lê trong quá trình nhuộm Gram. Màng ngoài này dễ dàng bị rửa trôi bởi các dung môi lipid như rượu hoặc acetone. Thành tế bào của chúng tương đối mỏng hơn (8 trận10nm). Hàm lượng murein cũng rất thấp (101515%) nhưng hàm lượng lipid rất cao (30 cạn50%), đó là lý do tại sao nó sử dụng vết bẩn safranin trong quy trình nhuộm Gram. Hàm lượng lipid cao cũng có nghĩa là porins vắng mặt mà thay vào đó có các kênh lipid kỵ nước để hấp thu dinh dưỡng. Các axit lipoteichoic không có trong thành tế bào gram âm và chúng hoàn toàn phụ thuộc vào lipit kỵ nước để cung cấp độ cứng của tế bào.

Hi vọng điêu nay co ich 🙂

Cảm ơn vì A2A

Vi khuẩn có hai loại chính. Gram dương và Gram âm dựa trên cách chúng nhuộm trong xét nghiệm Gram Stained sơ bộ. Điều này chủ yếu là do sự khác biệt trong thành phần thành tế bào của các vi khuẩn khác nhau.

Vi khuẩn gram dương có thành tế bào không có màng ngoài. Thành tế bào của chúng dày (20 trận30nm) và có thành tế bào thực sự nhẵn. Hàm lượng murein rất cao (70 thép80%) và có hàm lượng lipid rất thấp. Hàm lượng lipid thấp cũng có nghĩa là nó sẽ không có trong vết safranin thứ cấp được sử dụng để nhuộm gram. Một sự khác biệt lớn khác là sự vắng mặt của các vách tế bào cho sự hấp thu chất dinh dưỡng. Ngoài ra còn có axit Lipoteichoic cung cấp cho thành tế bào Gram dương độ cứng của nó.

Mặt khác, vi khuẩn gram âm có thành tế bào có màng ngoài lipid dễ thấy, đó là lý do tại sao chúng không có màu tím pha lê trong quá trình nhuộm Gram. Màng ngoài này dễ dàng bị rửa trôi bởi các dung môi lipid như rượu hoặc acetone. Thành tế bào của chúng tương đối mỏng hơn (8 trận10nm). Hàm lượng murein cũng rất thấp (101515%) nhưng hàm lượng lipid rất cao (30 cạn50%), đó là lý do tại sao nó sử dụng vết bẩn safranin trong quy trình nhuộm Gram. Hàm lượng lipid cao cũng có nghĩa là porins vắng mặt mà thay vào đó có các kênh lipid kỵ nước để hấp thu dinh dưỡng. Các axit lipoteichoic không có trong thành tế bào gram âm và chúng hoàn toàn phụ thuộc vào lipit kỵ nước để cung cấp độ cứng của tế bào.

Hi vọng điêu nay co ich 🙂

Cảm ơn vì A2A

Vi khuẩn có hai loại chính. Gram dương và Gram âm dựa trên cách chúng nhuộm trong xét nghiệm Gram Stained sơ bộ. Điều này chủ yếu là do sự khác biệt trong thành phần thành tế bào của các vi khuẩn khác nhau.

Vi khuẩn gram dương có thành tế bào không có màng ngoài. Thành tế bào của chúng dày (20 trận30nm) và có thành tế bào thực sự nhẵn. Hàm lượng murein rất cao (70 thép80%) và có hàm lượng lipid rất thấp. Hàm lượng lipid thấp cũng có nghĩa là nó sẽ không có trong vết safranin thứ cấp được sử dụng để nhuộm gram. Một sự khác biệt lớn khác là sự vắng mặt của các vách tế bào cho sự hấp thu chất dinh dưỡng. Ngoài ra còn có axit Lipoteichoic cung cấp cho thành tế bào Gram dương độ cứng của nó.

Mặt khác, vi khuẩn gram âm có thành tế bào có màng ngoài lipid dễ thấy, đó là lý do tại sao chúng không có màu tím pha lê trong quá trình nhuộm Gram. Màng ngoài này dễ dàng bị rửa trôi bởi các dung môi lipid như rượu hoặc acetone. Thành tế bào của chúng tương đối mỏng hơn (8 trận10nm). Hàm lượng murein cũng rất thấp (101515%) nhưng hàm lượng lipid rất cao (30 cạn50%), đó là lý do tại sao nó sử dụng vết bẩn safranin trong quy trình nhuộm Gram. Hàm lượng lipid cao cũng có nghĩa là porins vắng mặt mà thay vào đó có các kênh lipid kỵ nước để hấp thu dinh dưỡng. Các axit lipoteichoic không có trong thành tế bào gram âm và chúng hoàn toàn phụ thuộc vào lipit kỵ nước để cung cấp độ cứng của tế bào.

Hi vọng điêu nay co ich 🙂

Vi Khuẩn Hp Dương Tính Là Gì? Hiểu Đúng Về Vi Khuẩn Hp

Vi khuẩn HP ( hay có tên Helicobacter pylori). Đây là một loại xoắn khuẩn gram âm, kí sinh trong lớp nhày trên bề mặt niêm mạc dạ dày là loại vi khuẩn duy nhất có khả năng tồn tại trong môi trường acid đậm đặc của dạ dày.

Thế nào là Hp dương tính?

Vậy thế nào là Hp dương tính? Hp dương tính có nghĩa là sau khi làm các xét nghiệm kiểm tra vi khuẩn HP nếu dương tính nghĩa là bạn có vi khuẩn Hp trong dạ dày, nếu âm tính có nghĩa là không có vi khuẩn Hp trong dạ dày của bạn.

Theo một nghiên cứu mới công bố gần đây, tỷ lệ người nhiễm vi khuẩn Hp ở nước ta có thể lên đến 70%. Một nghiên cứu khác tại Hà Nội cũng cho thấy, cứ 1.000 người thì tới hơn 700 ca nhiễm vi khuẩn HP. Tại TP HCM, 90% người bị viêm dạ dày có sự hiện diện của vi khuẩn HP. Tuy nhiên, không phải cứ bị nhiễm vi khuẩn HP là bị viêm dạ dày HP hay ung thư dạ dày như ta vẫn lầm tưởng.

Clotest: còn gọi là test urease nhanh – là phương pháp xác định tình trạng nhiễm Hp trong dạ dày dựa trên cơ sở Hp tiết ra nhiều men Urease phân huỷ urea thành amoniac và làm cho môi trường trở nên kiềm tính, từ đó làm dung dịch ure-Indol màu vàng chuyển sang màu hồng tím. Mẫu chỉ thị đổi màu trong vòng 24h chứng tỏ bệnh nhân có nhiễm khuẩn Hp.

Kiểm tra mô bệnh học: lấy mảnh tế bào dạ dày bị bệnh, nhuộm và quan sát dưới kính hiển vi, nếu thấy có vi khuẩn Hp thì là vi khuẩn Hp dương tính.

Nuôi cấy tế bào: mảnh sinh thiết tế bào bị bệnh được sử dụng để mang đi nuôi cấy trong môi trường đặc biệt, sau một thời gian thấy vi khuẩn Hp xuất hiện tức là Hp dương tính.

Xét nghiệm phân: mẫu phân người bệnh được lấy đi để nhuộm và soi dưới kính hiển vi hoặc làm phản ứng miễn dịch để kiểm tra vi khuẩn Hp. Nếu có vi khuẩn Hp trong phân thì gọi là vi khuẩn Hp dương tính.

Xét nghiệm máu: máu của bệnh nhân được lấy làm bệnh phẩm, sử dụng công nghệ miễn dịch để xác định kháng thể kháng Hp trong huyết thanh bệnh nhân. Nếu thấy có kháng thể kháng vi khuẩn Hp trong huyết thanh bệnh nhân thì là vi khuẩn Hp dương tính.

Tuy nhiên xét nghiệm máu cho kết quả thiếu chính xác nhất vì cho dù vi khuẩn Hp đã bị tiệt trừ hoàn toàn thì kháng thể kháng vi khuẩn Hp vẫn lưu hành trong máu trong thời gian dài, có thể kéo dài hàng năm sau đó. Cho nên đây không phải một xét nghiệm được ưu tiên trong chẩn đoán nhiễm khuẩn Hp và chỉ được áp dụng khi không có phương pháp nào khác.

Test thở UBT: bệnh nhân được đưa một thiết bị để thổi vào (thẻ hoặc bong bóng), sau đó đánh giá qua thiết bị đo đặc biệt với thông số DPM (độ phân giải của chất phóng xạ trong một phút).

Khi làm test thở Ure, cần lưu ý là phương pháp này cũng có hai loại phân biệt bởi 2 đồng vị Carbon khác nhau là C13 và C14. Đồng vị C14 có tính phóng xạ, tuy nhiên khi test thở chỉ sử dụng một lượng rất nhỏ và nhìn chung là khá an toàn, cho tới thời điểm này vẫn chưa ghi nhận bất kỳ nguy hại nào do test này gây ra. Thế nhưng để yên tâm hơn, bác sỹ có thể khuyến cáo các đối tượng nhạy cảm như trẻ nhỏ (<12 tuổi) và phụ nữ mang thai, cho con bú nên làm test C13 thay vì test C14. Chỉ số đánh giá đối với test thở C14 thông thường như sau:

DPM< 50: vi khuẩn Hp âm tính.

DPM 50-199: không xác định vi khuẩn Hp dương tính hay âm tính.

Tác hại của vi khuẩn HP cho dạ dày như thế nào?

Việc điều trị vi khuẩn HP ngày càng trở nên khó khăn và tình trạng kháng thuốc cao đặc biệt là độ tuổi trẻ em và ở Việt Nam. Ở Việt Nam, việc quản lý các loại thuốc kháng sinh ở Việt Nam chưa được tốt nên tỷ lệ kháng thuốc lại càng cao làm cho việc điều trị bệnh dạ dày càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó việc điều trị bệnh viêm loét dạ dày tá tràng chính là việc diệt trừ vi khuẩn HP, vì vậy người bệnh thường tìm mọi cách mọi loại thuốc kháng sinh để diệt trừ loại vi khuẩn này. Nhưng chính việc dùng thuốc không theo chỉ định của bác sĩ làm cho tỷ lệ kháng thuốc gia tăng và đồng nghĩa với tỷ lệ thất bại trong điều trị vi khuẩn HP cũng gia tăng.

Một vấn đề nữa là vi khuẩn HP rất dễ lây nhiễm từ người bệnh sang người lành. Vi khuẩn HP có trang nước bọt, trong mảng cao răng, trong niêm mạc dạ dày của người bệnh nên rất dễ lây nhiễm từ người bệnh sang người xung quanh do thói quen ăn uống chung bát nước chấm, dùng đũa của mình để gắp thức ăn cho người khác… Đây cũng là lí do chính khiến cho các bệnh lý dạ dày do vi khuẩn HP rất khó chữa triệt để và dễ tái phát lại

Có bệnh lý dạ dày (viêm, loét dạ dày, viêm teo niêm mạc dạ dày, ung thư dạ dày đã phẫu thuật một phần).

Có người thân trực hệ mắc ung thư dạ dày cần tiệt trừ sớm để phòng ngừa nguy cơ mắc ung thư dạ dày.

Thiếu máu đã loại trừ các nguyên nhân khác.

Xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn.

Bệnh nhân thường xuyên phải sử dụng các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, chống kết tập tiểu cầu cần tiệt trừ Hp và dự phòng loét dạ dày bằng thuốc PPI.

Người sống ở khu vực có tỉ lệ mắc ung thư dạ dày cao.

Quá lo lắng về vi khuẩn Hp.

Các trường hợp trên bắt buộc phải tuân thủ phác đồ tiệt trừ vi khuẩn Hp với các kháng sinh và thuốc ức chế tiết acid dạ dày. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay các phác đồ kháng sinh có hiệu quả ngày càng giảm do tình trạng vi khuẩn kháng thuốc gia tăng, lây nhiễm, tái nhiễm khuẩn Hp, đồng thời sử dụng nhiều phác đồ kéo dài cũng gây ảnh hưởng tới sức khỏe, khiến cho bệnh nhân rất mệt mỏi.

Bên cạnh đó việc sử dụng kháng sinh cũng được giới hạn chặt chẽ, không sử dụng tràn lan do lằm tăng nguy cơ kháng thuốc trong cộng đồng. Do đó những trường hợp có nhiễm khuẩn Hp mà có nguy cơ mắc bệnh cao (gia đình có nhiều người mắc bệnh dạ dày), hoặc những người muốn diệt Hp để tránh nguy cơ mắc bệnh dạ dày, hoặc cần phòng lây nhiễm Hp từ người khác thì kháng sinh không thể giải quyết được.

Chính vì vậy, một giải pháp không phải kháng sinh (non – antibitic), an toàn hơn, không bị đề kháng và có tác dụng giảm nguy cơ nhiễm mới, tái nhiễm để kiểm soát được tỉ lệ nhiễm Hp trong cộng đồng chính là mục tiêu nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia tiêu hóa trên thế giới trong suốt nhiều năm qua.

Giảm khả năng vượt qua hàng rào bảo vệ cơ học gồm acid dịch vị và lớp màng nhầy dạ dày khiến vi khuẩn không tới được nơi cư trú an toàn (trên niêm mạc dạ dày). Khi Hp không gắn được vào niêm mạc dạ dày, chúng sẽ lơ lửng trong lòng dạ dày và bị thải loại ra ngoài theo nhu động đường tiêu hóa.

Kháng thể OvalgenHP bám vào bề mặt vi khuẩn, làm mất tính trơn nhẵn khiến vi khuẩn di chuyển chậm, ngưng kết các vi khuẩn Hp lại thành từng đám, tạo điều kiện cho đại thực bào tóm giữ và tiêu diệt.

Tăng cường miễn dịch đặc hiệu của cơ thể, kích hoạt tế bào lypmpho B sản sinh ra kháng thể chống lại vi khuẩn Hp. Miễn dịch đặc hiệu với đặc tính “ghi nhớ” giúp cơ thể nhận diện và tiêu diệt vi khuẩn Hp trong một thời gian nhất định sau khi miễn dịch được thành lập. Trên mô hình nghiên cứu ở động vật, khi sử dụng OvalgenHP liên tục trong 10 ngày thì đối tượng thực nghiệm được bảo vệ khỏi nguy cơ lây nhiễm lên tới 30 ngày.

Tại Nhật Bản, kháng thể OvalgenHp được chính phủ khuyến khích đưa vào sử dụng rộng rãi trong cộng đồng suốt hơn 13 năm qua nhằm làm giảm tỷ lệ mắc Ung thư dạ dày của người dân. Liệu pháp kháng thể cùng với các giải pháp tầm soát đồng bộ khác đã đem lại hiệu quả rõ rệt tại quốc gia vốn có tỉ lệ mắc ung thư dạ dày cao nhất thế giới này. Ghi nhận cho tới thời điểm năm 2011, tỉ lệ trẻ em dưới 12 tuổi nhiễm khuẩn Hp tại Nhật Bản chỉ còn 1,8% và các chuyên gia hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, trong vòng 20 năm tới, Nhật Bản sẽ có một thế hệ mới hoàn toàn không nhiễm khuẩn Hp.

Hiện tại OvalgenHP đã được ứng dụng tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu, Úc, Hoa Kỳ,…và gần đây đã được đưa về Việt Nam, cung cấp cho bệnh nhân viêm loét dạ dày do khuẩn Hp một giải pháp hỗ trợ có nhiều ưu điểm.

Chuyên gia GastimunHP

Phân Biệt Virus Và Vi Khuẩn

Virut, vi khuẩn, kí sinh trùng đều có khả năng gây bệnh. Cách chúng truyền bệnh cho con người théo cách khác nhau? Để có thể biết cách phân biệt giữa vi khuẩn và vi rút không chỉ bằng cách học những kiến thức cơ bản về chúng mà còn bằng cách quan sát chúng qua kính hiển vi và khám phá thêm về sự hình thành cũng như chức năng của chúng.

Virus là quá nhỏ để được nhìn thấy bằng mắt thường. Chúng không thể nhân riêng , vì vậy chúng phải xâm nhập một ‘host’ di động và đi qua máy móc của nó để có thể làm cho hạt virus hơn.

Virus bao gồm vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi một lớp phủ bảo vệ của protein. Có khả năng bám vào các tế bào và nhận được bên trong chúng.

Các tế bào của niêm mạc, chẳng hạn như những người xếp hàng trên đường hô hấp mà chúng ta hít thở thông qua, đặc biệt mở cửa cho virus tấn công vì họ không được bao phủ bởi da bảo vệ.

Vi khuẩn là gì?

Vi khuẩn là những sinh vật được tạo thành chỉ là một tế bào. Chúng có khả năng nhân với mình, vì chúng có quyền lực để phân chia. Hình dạng của chúng khác nhau, và các bác sĩ sử dụng những đặc tính này để tách chúng thành các nhóm.

Vi khuẩn tồn tại ở khắp mọi nơi, trong và trên cơ thể chúng ta. Hầu hết trong số đó là hoàn toàn vô hại và một số trong số đó là rất hữu ích.

Nhưng một số vi khuẩn có thể gây bệnh, hoặc vì họ kết thúc ở vị trí sai trong cơ thể hoặc đơn giản chỉ vì họ đang ‘thiết kế’ xâm lược chúng ta.

Làm thế nào nhiễm với virus và vi khuẩn lây lan?

Nhiễm virus và vi khuẩn lây lan trong cả hai về cơ bản những cách tương tự.

Một người có lạnh có thể lây nhiễm ho và / hoặc hắt hơi.

Vi khuẩn hoặc virus có thể được thông qua ngày bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác.

Chạm vào thức ăn với bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc vi khuẩn từ ruột để lây lan.

Dịch cơ thể, như máu, nước bọt và tinh dịch, có thể chứa các vi sinh vật và truyền tải chất lỏng như lây nhiễm, ví dụ bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục, là rất quan trọng, đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng do virus như viêm gan hoặc AIDS .

Làm thế nào để tránh nhiễm trùng

Rửa tay thật kỹ (thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm lạnh).

Bắt tay với người bị cảm lạnh là nguy hiểm, do đó, tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó.

Thức ăn phải được nấu chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt.

Rau và thịt phải được lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt.

Thịt tốt hơn nên được phục vụ tốt làm.

Hãy nhớ rằng thực phẩm với những sinh vật vô hình không nhất thiết phải mùi hôi.

Một số sinh vật bị giết như thức ăn được nấu chín, nhưng họ vẫn có thể để lại các chất độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa.

Việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục .

Làm thế nào có thể các bác sĩ điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn?

Nhiễm khuẩn thường được điều trị với một đặc biệt kháng sinh , mà chỉ giết chết các loại vi khuẩn đã gây ra căn bệnh này.

Để đảm bảo rằng bạn sẽ có được điều trị đúng, bác sĩ có thể lấy một mẫu, ví dụ như một tăm bông từ cổ họng hoặc mẫu nước tiểu .

Làm thế nào có thể bác sĩ điều trị nhiễm virus?

Virus không thể nhân cho đến khi họ đang ở trong các tế bào của cơ thể.

Đây là lý do tại sao việc điều trị các nhiễm virus thường trái lên đến hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, mặc dù nó có thể là khó chấp nhận khi bác sĩ cho biết cách chữa trị duy nhất là cho “thiên nhiên để tham dự khoá học của mình.

Điều trị nhiễm virus, chẳng hạn như bệnh cúm , thường sẽ bao gồm:

uống nhiều nước

ở nhà. Những người đi làm hoặc đi học trong tình trạng này không chỉ có nguy cơ lây lan virus cho đồng nghiệp của họ mà còn có nguy cơ cao hơn bắt một nhiễm khuẩn

dùng thuốc giảm đau, chẳng hạn như paracetamol (ví dụ như Panadol) hoặc ibuprofen (như Nurofen) , để mang lại nhiệt độ của bạn xuống

vắc-xin đã được phát triển chống lại hầu hết các bệnh virus. Vắc-xin cung cấp cho cơ thể một số giúp đỡ trong một cách nhanh chóng và hiệu quả chiến đấu với virus.

Ngày càng có nhiều biện pháp khắc phục kháng virus đang được phát triển ngăn chặn sự nhân với virus và gây ra bệnh một cách tự nhiên một cách nhanh chóng hơn.

Thật không may, các biện pháp khắc phục có thể vẫn chỉ được sử dụng trên rất ít virus và hiệu quả hạn chế.

Kháng sinh không có hiệu lực sau khi nhiễm virus như cảm lạnh hoặc cúm , và điều quan trọng là chúng ta hạn chế sử dụng kháng sinh chỉ bị nhiễm trùng vi khuẩn sẽ không nhận được tốt hơn của chính mình.

Qua sử dụng kháng sinh làm giảm hiệu quả của họ bằng cách khuyến khích sự phát triển của vi khuẩn kháng kháng sinh, mà là một vấn đề nghiêm trọng và ngày càng tăng trên toàn cầu.

Mọi vấn đề về sức khỏe, vui lòng gọi đến tổng đài 19006237 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.