Phân Biệt Sự Khác Nhau Giữa Thành Ngữ Và Tục Ngữ / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Phân Biệt Sự Khác Nhau Giữa Thành Ngữ Và Tục Ngữ

Bài “Bàn về thành ngữ, tục ngữ” của Lê Xuân Mậu trong tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 5 (91) – 2003, tác giả viết: “Với những đơn vị “lưỡng tính” thực ra khó xác định được khởi nguồn của nó là thành ngữ hay tục ngữ, gọi tất cả là “thành ngữ bị tục ngữ hóa” có thể là không bao quát mọi trường hợp…”.

Theo chúng tôi nghĩ thành ngữ và tục ngữ không thể “lưỡng tính”, không thể là một câu vừa là tục ngữ vừa là thành ngữ được, cũng không thể nói “thành ngữ bị tục ngữ hóa” và càng không thể như Phạm Thuận Thành cho (theo Lê Xuân Mậu) tục ngữ không thể có nghĩa bóng, chỉ có thành ngữ mới có nghĩa bóng. Nói như vậy là không có căn cứ, phiến diện, thiếu thuyết phục.

Theo chúng tôi, muốn phân biệt đâu là thành ngữ, đâu là tục ngữ thì phải có căn cứ, phải có cơ sở khoa học, có tiêu chí để phân định.

Đầu tiên xin nói về tục ngữ: Tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, gọn sắc, xuôi tai, diễn đạt trọn vẹn một ý mà nội dung thuộc về những kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử – xã hội của nhân dân. Tục ngữ là một phán đoán, chẳng hạn “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Còn thành ngữ chỉ là một cụm từ (cụm từ cố định) diễn đạt một khái niệm một cách có hình ảnh.

Xét về mặt ngữ pháp thì tục ngữ là một câu, là một phán đoán, còn thành ngữ chỉ là một cụm từ, một thành phần câu. Xin nêu ví dụ:

Tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.

Thành ngữ “Tôi chúc chị “Mẹ tròn con vuông”

Xét về mặt ý nghĩa thì tục ngữ diễn đạt một ý trọn vẹn, là một phán đoán, còn thành ngữ diễn đạt một khái niệm – ngang một từ, một cụm từ.

Nộidung của tục ngữ thuộc về đúc rút kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử – xã hội, chẳng hạn đúc rút về kinh nghiệm canh tác: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.

Còn thành ngữ là một hình ảnh sinh động, biểu cảm, giàu tính hình tượng. Thành ngữ thường dùng nghệ thuật tu từ ẩn dụ hay nghệ thuật tu từ hoán dụ. Chẳng hạn: “Chân cứng, đá mềm” (tu từ hoán dụ).

“Kiến bò miệng chén (tu từ ẩn dụ).

Nói tục ngữ không có nghĩa bóng là sai. Đa số tục ngữ có hai nghĩa (nghĩa đen và nghĩa bóng) mà nghĩa bóng là thông báo chủ yếu của tục ngữ. Chẳng hạn câu “Có sừng thì đừng hàm trên”. Nghĩa đen nói về hình ảnh con trâu, nghĩa bóng (nghĩa chính) nói về quy luật phân phối tự nhiên và xã hội, về tính tương đối của mọi sự vật hiện tượng đời sống. Một số câu tục ngữ chỉ có nghĩa đen như:

Chuồn chuôn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng bay vừa thì râm

Câu tục ngữ trên đúc rút kinh nghiệm về dự báo thời tiết của nhân dân.

Thành ngữ mang tính biểu trưng, khái quát, cô đọng và tính hình tượng bóng bẩy. Thực ra tính hình tượng và tính biểu trưng là những đặc điểm có quan hệ mật thiết với nhau trong thành ngữ. Do đó thành ngữ dễ gây được ấn tượng mạnh mẽ với người nghe, người đọc, hiệu quả biểu đạt và biểu cảm rất cao nên nhân dân thường dùng xen vào trong lời nói, chẳng hạn: Tôi mong anh đi “chân cứng đá mềm” tức mong anh đi mạnh khoẻ.

Một điều đáng lưu ý nữa là: Tục ngữ thường dùng độc lập vì nó đã thành câu, đã diễn đạt một ý trọn vẹn. Chẳng hạn người ta thường nhắc nhau:

Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Còn thành ngữ chưa thành câu chỉ là một cụm từ (cụm từ cố định) chỉ là một thành phần của câu nên người ta thường dùng chêm xen trong câu nói. Chẳng hạn: Chúng ta không nên “đâm bị thóc, chọc bị gạo” mà mất đoàn kết hay Anh cũng như “kiến bò miệng chén” thôi.

Tóm lại tục ngữ là một câu nói, diễn đạt một ý trọn vẹn. Tục ngữ thường là những câu đúc rút kinh nghiệm về cuộc sống, về thiên nhiên – xã hội. Tục ngữ thường được dùng độc lập, còn thành ngữ là một ngữ (cụm từ) cụm từ cố định, là một thành phần câu, thường được dùng chêm xen trong câu nói. Thành ngữ là một hình ảnh giàu tính hình tượng, giàu tính biểu cảm.

Chúng tôi xin có một số ý kiến nhỏ mong góp thêm ý cùng bàn luận về thành ngữ, tục ngữ.

Ca Dao Tục Ngữ Là Gì? Sự Khác Nhau Giữa Thành Ngữ Và Tục Ngữ

Ca dao là một từ Hán Việt. Trong đó, “ca” dùng để chỉ những bài hát; còn từ “dao” được dùng để chỉ những bài hát ngắn, thường không có chương khúc, giai điệu.

Vì vậy, có thể hiểu ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, được dùng để miêu tả, ngụ ý hay diễn đạt tình cảm. Hầu hết ca dao đều là lời thơ trữ tình dân gian, thường được kết hợp với âm nhạc để diễn xướng và phản ánh thế giới nội tâm của con người.

Ca dao được lưu truyền theo hình thức truyền miệng nên rất ngắn gọn, súc tích và sử dụng thể thơ dân tộc (thơ lục bát hoặc lục bát biến thể) cho dễ thuộc, dễ nhớ. Bên cạnh đó, ca dao cũng sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, ngôn ngữ gần gũi, đời thường và được diễn đạt mang đậm sắc thái dân gian.

Phản ánh lịch sử: Ca dao thường nhắc tên các sự kiện lịch sử và bày tỏ quan điểm, thái độ của nhân dân chứ không đi sâu vào quá trình hay diễn biến của nó.

Phản ánh phong tục – tập quán, nếp sống hay đời sống tình cảm của nhân dân trong quan hệ gia đình, lứa đôi, đất nước,…. Đồng thời, ca dao cũng phản ánh cuộc sống của nhân dân trong xã hội cũ, điển hình là những bài ca dao than thân.

Ca dao thể hiện tiếng cười bông đùa, trào phúng.

Là những bài thơ ca truyền miệng của trẻ em và hầu như không có tác giả, ví dụ như vè. Đồng dao được chia thành hai loại chính là: gắn với trò chơi hoặc gắn liền với công việc của trẻ nhỏ.

“Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

Đến hỏi ông trời

Xin vài cái bánh

Gặp xe thì tránh

Đội mũ trên đầu

Đi chậm đi mau

Lâu lâu lại ngồi!”

“Em là con gái nhà nông,

Thấy anh gánh lúa vừa mừng vừa thương.

Mồ hôi ướt đẫm trán lưng,

Hỏi anh có mệt gánh giùm cho anh.

Mời anh bát nước chè xanh,

Thi nhau ta gánh cho nhanh bạn cùng.”

“Ru con, con ngủ cho lâu

Để mẹ đi cấy ruộng sâu lâu về

Ru con, con ngủ cho mê

Mẹ còn lo chuyện lê thê kéo cày

Ru con, con ngủ cho say

Mẹ còn vất vả chân tay ngoài đồng

Ru con, con ngủ cho nồng

Mẹ còn nhổ mạ trả công cho người.”

“Thịt Mỡ dưa hành câu đối đỏ,

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.”

“Chồng người đánh giặc sông Lô

Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần

Chồng người cưỡi ngựa bắn cung

Chồng em ngồi bếp cầm thun bắn ruồi.”

“Cô kia đứng ở bên sông,

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.”

“Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen

Ai ơi, nếm thử mà xem

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.”

“Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”

Tục ngữ là gì?

Tục ngữ là gì? Đây là một thể loại văn học dân gian, được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích và có nhịp điệu nên rất dễ nhớ và dễ truyền đạt.

Trong các câu tục ngữ, cả hình thức và nội dung luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau để tạo thành một câu hoàn chỉnh và thống nhất. Một câu tục ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa là: nghĩa đen và nghĩa bóng.

Tục ngữ là những câu nói được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm sống thực tế

* Ví dụ về câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Chúng ta có thể giải thích câu tục ngữ này theo hai nghĩa như sau:

Nghĩa đen: Nếu để mực rây ra tay thì sẽ bị dính màu đen của mực. Còn nếu ngồi gần đèn thì sẽ được nhìn rõ tất cả mọi vật do đèn chiếu sáng vào.

Nghĩa bóng: Cha ông ta muốn nhắn nhủ rằng môi trường sống có tầm ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến nhận thức và lối sống của mỗi cá nhân. Nếu sống sống trong môi trường có nhiều điều xấu, con người sẽ bị ảnh hưởng và có thể bị tha hóa về đạo đức sống. Ngược lại, nếu sống trong môi trường có nhiều điều tốt đẹp thì chúng ta sẽ sống lành mạnh, có ích hơn cho gia đình và xã hội.

Tính hình tượng trong câu tục ngữ thường được thể hiện qua các phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Ông cha ta muốn thông qua những sự vật, hiện tượng thân thuộc để thể hiện quan niệm và đúc kết thành chân lý, kinh nghiệm; vừa sáng tạo nhưng lại rất sâu sắc. Chính tính hình tượng hóa này sẽ giúp chúng ta dễ hiểu và biết các suy ngẫm.

Bên cạnh đó, tục ngữ thường được gieo vần liền hoặc vần cách, được ngắt nhịp linh hoạt tạo nên sự hài hòa, cân đối và nhịp nhàng.

Tục ngữ đúc kết và phản ánh kinh nghiệm sản xuất của người dân lao động.

Ví dụ: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.

Ví dụ: “Ăn lông ở lỗ”, “Một người làm quan cả họ được nhờ”, “Cá lớn nuốt cá bé”,..

Ví dụ: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”,…

Những câu ca dao tục ngữ Việt Nam hay nhất

Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy.”

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước mong.”

Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha.”

Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.”

Theo đôi theo lứa mới thành thất gia.”

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than!”

Nuôi con mới biết công lao mẹ, thầy.

Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.”

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”

“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”.

“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

“Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng”.

Tình bạn là mối duyên thừa trời cho.”

Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời.”

Trái tim còn đập vẫn là bạn nhau.”

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.”

Cười người hôm trước hôm sau người cười.”

Có bát cơm đầy, nhớ đến nhà nông.

Đường đi cách bến cách sông

Muốn qua dòng nước, nhờ ông lái đò!”

“Kính lão đắc thọ”.

“Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”.

“Đường mòn nhân nghĩa không mòn”.

“Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho”.

“Én bay thấp mưa ngập cầu ao

Én bay cao mưa rào lại tạnh.”

Cơn đằng Nam, vừa làm vừa chơi

Cơn đằng Bắc, đổ thóc ra phơi

Cơn đằng Tây, mưa ngu bão ngáo.

Cày sâu bừa kĩ phân tro cho nhiều.”

Nuôi tằm ba lứa, ruộng cày ba năm

Nhờ trời hòa cốc phong đăng

Cấy lúa lúa tốt, nuôi tằm tằm tươi

Được mùa dù có tại trời

Chớ thấy sóng cả mà rời tay co.

“Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm”.

“Tháng bảy mưa gãy cành tràm”.

“Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa”.

“Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa”.

Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.

Dạy con, dạy thuở còn thơ,

Dạy vợ, dạy thuở ban sơ mới về.”

Học buôn, học bán cho tày người ta.

Con đừng học thói chua ngoa,

Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.

Dù no dù đói cho tươi,

Khoan ăn bớt ngủ là người lo toan.

Phòng khi đóng góp việc làng,

Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.

Trước là đẹp mặt cho chồng,

Sau là họ mạc cũng không chê cười.”

Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.

Gái thời trinh trỉnh lòng son,

Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.

Trai lành gái tốt ra người,

Khuyên con trọng bấy nhiêu lời cho chuyên.”

“Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật”.

“Miệng hỏa lò ăn hết cơ nghiệp”.

“Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay”.

“Nước đổ lá khoai”

“Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi”.

Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan”.

Đến khi chết bỏng cứ tai mà rờ!”

Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.

“Thân tự lập thân”.

“Có thân phải khổ, có khổ mới nên thân”.

“giúp lời không ai giúp của, giúp đũa không ai giúp cơm”.

“Sông sâu sóng cả, chớ ngã tay chèo”.

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng”.

Nước non a vẽ nên tranh họa đồ

Cố đô rồi lại tân đô

Nghìn năm văn vật bây giờ là đây”.

Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui”.

Có về Hà Nội với ta thì về

Đường thủy thì tiện thuyền bè

Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang”.

Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An”.

Sự khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ Việt Nam

Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam đều là những câu nói ngắn gọn, súc tích; phản ánh tri thức của con người về sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Bởi vậy mà rất khó để phân biệt hai khái niệm này.

Tuy nhiên, bạn có thể phân biệt được thành ngữ và tục ngữ qua một số đặc điểm sau:

Là cụm từ được cấu tạo cố định và thể hiện một ý nghĩa hoàn chỉnh.

Là những câu nói ngắn gọn, có vần điệu và được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm sống thực tế của người dân.

Chưa diễn đạt trọn vẹn một ý mà chỉ đề cập đến như một khái niệm.

Thành ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học, thường là một vế câu được dùng để tạo câu hoặc chen thêm vào các câu nói.

Ví dụ: Chúc cậu “mẹ tròn con vuông”.

Diễn đạt trọn vẹn một ý. Đó có thể là lời đánh giá, sự nhận xét hay một kinh nghiệm sống, một lời khuyên,… nhằm khuyên răn và hướng dẫn con người cách sống, cách ứng xử đúng đắn.

Tục ngữ thuộc lĩnh vực văn học, được dùng độc lập.

Ví dụ: “Thất bại là mẹ thành công”.

Phân Biệt Thành Ngữ, Tục Ngữ

Sau khi Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết ” Dạy thành ngữ, tục ngữ cho học sinh tiểu học ” ngày 14/10/2019, nhiều bạn đọc, đồng nghiệp liên lạc bày tỏ ý muốn được biết thêm về thành ngữ, tục ngữ: chúng khác nhau cơ bản chỗ nào, làm sao phân biệt chúng nhanh nhất?

Quả thực, nhận diện và phân biệt rạch ròi, nhanh chóng thành ngữ với tục ngữ cũng không phải là việc dễ dàng gì, chưa kể, hiện tại chưa phải tất cả mọi người đều thống nhất với khái niệm về hai loại trên.

Có lẽ vì thế, cho nên nhiều nhà nghiên cứu khi soạn sách, để tránh tình trạng bất đồng trong phân biệt 2 khái niệm, đã nhập chung chúng thành một nhóm “thành ngữ – tục ngữ”, mặc dù chúng không hề có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Trong nhà trường, thành ngữ và tục ngữ được giới thiệu cho học sinh từ cấp tiểu học, lên cấp trung học cơ sở, cả hai đều được dạy thành bài riêng biệt, cụ thể trong chương trình lớp 7, nhưng ở 2 thời điểm và thuộc 2 phân môn khác nhau.

Thành ngữ được dạy ở tuần 12, trong phân môn “Tiếng Việt” như một loại đơn vị từ vựng, còn tục ngữ thì được dạy ở tuần 18, 19 trong phân môn Văn học với tư cách là những văn bản tác phẩm văn học dân gian.

Phần ghi nhớ trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 ghi rõ khái niệm về hai loại trên như sau:

“Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.

Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh…”.[1, tr.144]

“Nhìn chung, tục ngữ có những đặc điểm về hình thức:

– Ngắn gọn;

– Thường có vần, nhất là vần lưng;

– Các vế thường đối xứng nhau cả về hình thức, cả về nội dung;

– Lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh”. [2, tr.5]

Lên cấp trung học phổ thông, trong bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” ở chương trình lớp 10, riêng tục ngữ được xếp theo thứ tự ở vị trí thứ 7 trong 12 thể loại của văn học dân gian, còn thành ngữ thì không hề thấy. [3, tr.18]

Như vậy, trong sách giáo khoa, việc giải thích để giúp cho các em phân biệt cho thật rõ thành ngữ, tục ngữ chưa được chú trọng, chỉ dừng ở mức độ cung cấp khái niệm của từng loại một cách khái quát chứ chưa đưa ra sự đối sánh, phân biệt thật rạch ròi, có lẽ do dung lượng, thời lượng của từng bài học bị hạn chế, không cho phép nói dài hơn.

Điểm chung giữa thành ngữ và tục ngữ dễ nhận thấy nhất, là chúng có phần giống nhau về hình thức cấu tạo: đều được cấu tạo từ cùng một loại đơn vị là “từ”.

Chúng đều là những tổ hợp từ cố định, kết hợp với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ, có thể có vần điệu và đối xứng (về số lượng tiếng).

Có lẽ do tên gọi của hai loại này có vẻ từa tựa giống nhau, thành ngữ – tục ngữ cùng chứa từ tố “ngữ”, nên thoạt nhìn dễ nhầm lẫn, tưởng chúng gần gũi nhau hoặc có quan hệ họ hàng với nhau.

Thế nhưng, thực ra chúng là hai loại đơn vị khác xa nhau, thuộc hai ngành nghiên cứu riêng biệt là ngôn ngữ và văn học, hoàn toàn khác nhau về phân loại, nội dung ngữ nghĩa và chức năng sử dụng. Cho nên không thể có một câu vừa là tục ngữ vừa là thành ngữ được.

Nhận xét một cách thỏa đáng thì mối quan hệ giữa chúng khá mờ nhạt chứ không hề khăng khít, mật thiết dễ dẫn đến tình trạng nhầm lẫn, khó phân biệt như nhiều người đang lầm tưởng.

Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “thành ngữ” là “tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó”. [4, tr.882]

Còn “tục ngữ” là “câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân”. [4, tr.1026]

Theo thuật ngữ ngôn ngữ học, tục ngữ là một câu hoàn chỉnh (cho nên viết hoa đầu câu), diễn đạt trọn vẹn một ý có nội dung là một nhận xét về kinh nghiệm đời sống, ví dụ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Ăn vóc, học hay”...

Còn thành ngữ chỉ là một cụm từ cố định (cho nên không viết hoa từ đầu cụm), nêu ra một khái niệm một cách có hình ảnh, chẳng hạn: ” đẹp như tiên”, “mẹ tròn con vuông”, “trăm năm hạnh phúc” …

Có nhiều cách để phân biệt sự khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ, phổ thông nhất chúng ta có thể tạm căn cứ vào hai phương diện sau:

1. Về hình thức: Tuy cả hai loại đều có vần hoặc không có vần, có nhịp điệu hoặc không có nhịp điệu, nhưng tục ngữ thường là câu nói ngắn gọn, còn thành ngữ chỉ là cụm từ cố định.

Tục ngữ là một câu hoàn chỉnh, còn thành ngữ chưa thành câu, mới chỉ là cụm từ (cho nên chỉ nên nói “câu tục ngữ”, chứ nói “câu thành ngữ” là chưa đúng)

2. Về nội dung: Tục ngữ diễn đạt trọn vẹn một ý, có thể là một nhận xét, một sự đánh giá, một kinh nghiệm, một tâm lý, một phong tục tập quán, một chân lý quen thuộc, nhằm giáo dục khuyên răn, hướng dẫn con người trong ứng xử, cuộc sống; còn thành ngữ, chưa diễn đạt một ý trọn vẹn, chỉ đề cập đến một khái niệm.

Như vậy, thành ngữ là một đơn vị thuộc lĩnh vực ngôn ngữ, còn tục ngữ thuộc lĩnh vực văn học. Tục ngữ thường dùng độc lập, kiểu như “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”…

Còn thành ngữ chỉ là một vế câu nên thường dùng để tạo câu, chêm xen vào trong câu nói, chẳng hạn: “Chúc hai bạn sống với nhau đến “răng long đầu bạc”, “Chúc chị mẹ tròn con vuông”, “Bạn đừng nên “đứng núi này trông núi nọ”…

Mặc dùthành ngữ và tục ngữ đều chứa đựng và phản ánh tri thức của nhân dân về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, nhưng chúng khác nhau ở chỗ những tri thức ấy khi được rút lại thành những khái niệm thì tạo nên thành ngữ, còn khi được trình bày thành những nhận xét, đánh giá thì tạo nên tục ngữ.

Qua sự phân tích trên, ta có thể khẳng định sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ về cơ bản là sự khác nhau giữa thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ thuộc từ vựng – đối tượng nghiên cứu của khoa ngôn ngữ học (có thể tìm thấy trong từ điển tiếng Việt), khác xa tục ngữ là một đơn vị thuộc thể loại văn học – đối tượng của nghiên cứu văn học (không phải là đơn vị từ vựng, không có mặt trong từ điển tiếng Việt).

Suy cho cùng, hiểu biết nội dung ý nghĩa và phân biệt được những đơn vị thành ngữ, tục ngữ để sử dụng phù hợp với ngữ cảnh, đạt hiệu quả cao, cũng chính là trân trọng tiếng mẹ đẻ – một biểu hiện tôn trọng nét đẹp truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 7, Tập 2, NXB Giáo Dục.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Ngữ văn 10, Tập 1, NXB Giáo Dục.

[4] Hoàng Phê chủ biên (1995), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

Phân Biệt Tục Ngữ, Thành Ngữ Và Ca Dao

Về hình thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh. Có thể nói một cách hình ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là anh, từ đơn độc là em.

Vì thành ngữ qua thời gian đã được tập hợp thành cụm. VD: “Áo rách, quần manh”, “Ăn trắng, mặc trơn”, “Ăn trên, ngồi trốc”, “Dốt đặc cán mai”, “Cá bể, chim ngàn” “Bụng đói, cật rét”….đều là thành ngữ. Còn “Chó cắn áo rách”, “Bệnh quỷ thuốc tiên”, “Người chửa, cửa mả”… là tục ngữ.

Hầu hết những câu thành ngữ, tục ngữ đầu do nhân dân sáng tác, nhưng cũng có những câu rút ra từ các thi phẩm phổ biến, hoặc rút từ ca dao, dân ca ra. Có người nói tục ngữ là ngạn ngữ (nghĩa là lời nói đã lưu hành từ xưa) (Chữ ngạn có nghĩa là lời nói của người xưa).

Như vậy, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở những kinh nghiệm về sinh hoạt, sản xuất… Nó là những câu đúc kết những nhận xét đã được nhiều người thừa nhận, để hướng dẫn con người ta trong sự nhìn nhận mọi khía cạnh của cuộc đời. Tục ngữ là những câu thông tục, thiên về diễn ý, đúc kết một số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lý và công lý để nhận xét về con người và xã hội, hay dựa theo trí thức để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ :“Chồng yêu, xỏ chân lỗ mũi“, thì ” xỏ chân lỗ mũi ” là thành ngữ.

2. Ca dao và dân ca:

– Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và dân ca không rõ.

Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm. Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca dao.

Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng.

Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương, còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào, thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi

“Đồng đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”

Hay:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga. Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được.

Nội dung của dân ca cũng như nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh. Cũng như tục ngữ, ca dao – dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ – ca dao – dân ca): tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh, tính truyền miệng, tính tập thể ….thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất

So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như “Dô ta”, như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.

Xét nội dung những câu ” Năm cha, ba mẹ“, hay ” Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông“, ” Con dại, cái mang”, “con mống, sống mang “.. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ…

Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.

C. Nội dung và hình thức của tục ngữ – ca dao – dân ca: 1. Nội dung của tục ngữ

Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả.

Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.

VD:

Quá mù ra mưa Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa Vỏ quýt dày có móng tay nhọn Cái sảy nảy cái ung Cõng rắn cắn gà nhà … 2. Hình thức của tục ngữ

Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn

Làm phúc phải tội Gà què ăn quẩn cối xay Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm …

Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối

No nên bụt, đói nên ma Bút sa, gà chết Có tật giật mình

Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ

May tay hơn hay thuốc Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm

Hoặc thể lục bát

Cá tươi thì xem lấy mang Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai

Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người…nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.

3. Nội dung của ca dao

Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắm thiết và sâu sắc đến cỡ nào…thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.

Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.

Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình…

Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương Tuyệt mù khói toả ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ…

Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội. Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.

4. Hình thức nghệ thuật của ca dao

Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú. Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao.

Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc.

Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:

Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao nói:

Đôi ta như lửa mới nhen Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu

Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:

Mặt nạc đóm dày Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn

Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền

Một số thể cổ điển của ca dao:

Thể phú: Là trình bày, diễn tả…

Đường lên xứ lạng bao xa Cách một trái núi với ba quãng đồng Ai ơi đứng lại mà trông Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong…

Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:

Gối mền, gối chiếu không êm Gối lụa không mềm bằng gối tay em

Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa

….Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng– Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?– Đan sàng thiếp cũng xin vângTre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? ……….

Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn:

Cơm trắng ăn với chả chim Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no Trên trời có đám mây vàng Bên sông nước chảy có nàng quay tơ Nàng buồn nàng bỏ quay tơ Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành

Tags: Văn học, Văn hóa Việt