Nguyên Nhân Dẫn Đến Cái Chết Của Vũ Nương Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Channuoithuy.edu.vn

Những Nguyên Nhân Dẫn Đến Cái Chết Của Vũ Nương Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Bài làm

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc có tính chất truyền kì song được tôn vinh là “thiên cổ kì bút” thì cho đến nay chỉ có một Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Chuyện người con gái Nam Xương được rút trong tập những câu chuyện kì lạ đó. Câu chuyện để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi tấn thảm kịch bi thương về cái chết của Vũ Nương.

Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng là Trương Sinh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lại đa nghi. Triều đình bắt lính, Trương Sinh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân kết thúc, Trương Sinh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận Trương Sinh là bố. Nó nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Trước đây thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.”

Tính Trương Sinh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Đứa trẻ nói thì Trương Sinh tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy xuống sông tự vẫn.

Nhưng bi kịch cua Vũ Nương có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Sinh kể lại lời con nói thì mọi chuyên sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với con bằng cách trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Sinh mới tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã quá muộn màng. Vũ Nương không còn trên đời nữa.

Một phụ nữ; đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một lời không đâu của con trẻ! Một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái chết bi thương, ai oán trong lòng sông thăm thẳm! Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình nhưng nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông mang nặng đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của cá nhân cộng vội tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương Sinh độc đoán gia trưởng. Đó cũng chính là nguyên nhân đẩy Vũ Nương đến chỗ phải lấy cái chết để minh oan cho tâm lòng trong sáng của nàng.

Cái chết của Vũ Nương là sự đầu hàng số phận nhưng cõng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, Vũ phu của đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, tối tăm. Sẽ còn mãi hình ảnh của Vũ Nương trong lòng mọi người như một lời nhắc nhở khôn nguôi về thân phận của người phụ nữ:

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,

Cung nước chi lo lụy đến nàng.

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,

Giải oan chẳng mấy lọ đàn tràng.

Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,

Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.

(Lê Thánh Tông)

Suy Nghĩ Về Nguyên Nhân Cái Chết Của Vũ Nương

Bạn đang tìm tài liệu văn mẫu trình bày suy nghĩ về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương? Không cần tìm thêm nữa, Đọc Tài Liệu giới thiệu đến các bạn dàn ý chi tiết và những bài văn cảm nhận hay về cái chết của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương giúp bạn làm bài tốt hơn với đề tài này.

Đề bài: Có ý kiến cho rằng nguyên nhân cái chết của Vũ Nương là do Trương Sinh cả ghen. Lại có ý kiến khẳng định đó là do chiến tranh phong kiến… Trình bày suy nghĩ của em về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương khi đọc ” Chuyện người con gái Nam Xương“.

***

Hướng dẫn làm bài suy nghĩ về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

1. Những nguyên nhân chính dẫn đến nỗi oan khuất và cái chết của Vũ Nương:

+ Lời nói ngây thơ của bé Đản đã vô tình gây nên mối hiểu lầm của Trương Sinh.

+ Nguyên nhân đáng trách nhất để dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương đó là tính cách đa nghi, ít học của Trương Sinh. Khi nghe lời nói ngây thơ của con trẻ, chàng chẳng thèm suy xét đúng sai hay lắng nghe những lời phân trần mà vội vàng kết tội vợ mình. Chính sự hồ đồ, độc đoán, tệ bạc này của Trương Sinh là nguyên nhân quan trọng nhất đẩy Vũ Nương đến đường cùng không lối thoát. Nếu Trương Sinh là một người tỉnh táo và biết lắng nghe, suy xét, có lẽ bi kịch này sẽ không xảy ra.

– Nguyên nhân gián tiếp:

+ Do chế độ nam quyền độc đoán, một xã hội mà nam nữ không bình đẳng, hôn nhân không có tình yêu và tự do.

+ Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

2. Dàn ý chi tiết nêu suy nghĩ về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

a) Mở bài

– Vũ Nương, nhân vật chính trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng cuộc đời lại chịu nhiều nỗi oan khiên, ngang trái.

– Xung quanh nguyên nhân cái chết của Vũ Nương có khá nhiều ý kiến không thống nhất. Bài viết muốn nêu lên suy nghĩ của riêng em – về nguyên nhân cái chết oan khuất của người phụ nữ này.

b) Thân bài * Phân tích, khái quát những nét chính về nhân vật Vũ Nương

– Ngoại hình: dung nhan xinh đẹp.

– Tính cách, phẩm chất:

+ Nết na, thùy mị: nói năng nhỏ nhẹ, giữ gìn khuôn phép, lễ giáo, được mọi người yêu mến.

+ Đảm đang tháo vát, hiếu thảo, nhân hậu: một mình nuôi con; thương yêu, phụ dưỡng mẹ chồng, ma chay chu tất, trọn đạo hiếu.

+ Thủy chung son sắt: thương chồng thương con, giữ trọn phẩm tiết, một lòng thủy chung chờ chồng.

+ Trong sáng, ngay thẳng: bị oan khuất, tự vẫn để giải oan…

– Một phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh như vậy lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc nhưng lại có một kết cục thảm thiết. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cái chết của Vũ Nương?

* Nguyên nhân cái chết Vũ Nương

Xung quanh cái chết của Vũ Nương có rất nhiều cách lí giải khác nhau. Có hai ý kiến, một khẳng định do Trương Sinh cả ghen, một cho rằng do chiến tranh phong kiến là đều có cơ sở. Tuy nhiên, mỗi ý kiến mới chỉ đúng ở một khía cạnh.

– Trương Sinh cả ghen là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nương: nếu Trương Sinh biết kìm chế nóng giận, sáng suốt suy xét, tin ở vợ chứ không tin vào sự ngây thơ của con trẻ… kết cục sẽ khác.

– Chiến tranh phong kiến là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương: Có người nói, Vũ Nương chết khi Trương Sinh đã trở về, như vậy không thể nói là Vũ Nương chết do chiến tranh được. Hiểu như vậy là tách rời cái chết của Vũ Nương ra khỏi toàn bộ diễn biến câu chuyện. Chính Trương Sinh phải đi lính xa nhà nên mới xảy ra sự hiểu lầm đáng tiếc.

– Ngoài ra, do con thơ vô tình hại mẹ, do Vũ Nương yếu đuối, do lễ giáo phong kiến khắt khe… cũng góp phần đẩy Vũ Nương đến cái chết. Song, bao trùm vào sâu xa hơn cả, đó là do chế độ xã hội phong kiến đã không bảo đảm được quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Số phận họ mỏng manh: tai họa, oan khiên có thể giáng lên đầu họ bất cứ lúc nào vì những lí do không đâu mà không được bất kì sự bảo vệ nào. Chi tiết “cái bóng” rất ngẫu nhiên, phi lí nhưng chính cái ngẫu nhiên phi lí đó lại để quyết định số phận một con người. Như vậy, bi kịch của Vũ Nương đã vượt ra khỏi giới hạn bị kịch một gia đình. Đó là bi kịch số phận của một lớp người trong xã hội. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện cũng vì thế mà có tầm khái quát cao hơn.

c) Kết bài

– Cái chết của Vũ Nương gieo vào lòng người đọc nỗi thương xót những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội cũ.

– Trong xã hội ta hôm nay, tuy phụ nữ được pháp luật bảo vệ, Đảng và Nhà nước tạo điều kiện, nhưng vẫn là giới chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh. Đó đây vẫn còn cảnh những người vợ bị chồng đánh đập tàn nhẫn; những cô gái bị mua bán, dụ dỗ vào con đường làm ăn bất lương; những phụ nữ bị coi thường, rẻ rúng vì tư tưởng trọng nam khinh nữ… Bởi vậy, đấu tranh vì sự bình đẳng nam nữ, sự phát triển của phụ nữ là cuộc cách mạng lớn của hôm nay. Yêu thương và giúp đỡ những phụ nữ bất hạnh là lương tâm, trách nhiệm của tất cả chúng ta.

3. Sơ đồ tư duy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

Suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương – Bài văn mẫu 1:

Truyền kỳ mạn lục là tập sách ghi chép những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian. Nhưng mục đích cốt lõi của nó nhằm phản ánh bản chất của xã hội phong kiến đương thời. Qua các thiên truyện, Nguyễn Dữ đã bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão, phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề trong xã hội với thái độ nghiêm khắc, khách quan. Nổi bật trong 20 thiên truyện ấy, Chuyện người con gái Nam Xương là có giá trị hơn cả. Chỉ vì nỗi hoài nghi vô cớ mà Trương Sinh đã khiến cho Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh mình trong sạch. Mối oan tình của nàng mãi về sau mới được minh giải. Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, chàng vô cùng hối hận nhưng đã muộn màng.

Câu chuyện diễn biến khá đơn giản. Cốt truyện không có gì mới so với những câu chuyện đương thời. Nhưng ở đây, Nguyễn Dữ đã chú trọng đến việc xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ khá toàn vẹn. Bút pháp tự sự cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch. Đó còn là sự hòa quyện giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động.

Nguyễn Dữ đã vận dụng cả tư tưởng Nho giáo lẫn tư tưởng Phật giáo để giải quyết vấn đề. Ông cũng tìm đến cách giải quyết của dân gian. Nhưng qua cái chết của Vũ Nương người đọc nhận thấy, nhà văn đã bất lực trước diễn biến phức tạp của hiện thực. Không còn cách nào khác, ông đành xác nhận nó một cách đớn đau, bế tắc.

Để cho Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng dường như đó là cách thoát khỏi tình cảnh duy nhất của nàng. Đó cũng là cách duy nhất của nhà văn có thể lựa chọn. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Bởi đối với nàng, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống.

Một phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền đức như thế ấy. Một người vợ thủy chung son sắt như thế ấy. Một người con dâu hiếu thảo hiếm có ở trên đời. Thế mà nàng bị chồng nghi oan bởi một câu chuyên không đâu ở một lời con trẻ. Một câu nói vui đùa lúc trống vắng của mẹ với con mà lại trở thành mầm mống của tai họa. Thái độ khinh bỉ, lời nói nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh khiến nàng phải tìm đến cái chết. Dưới lòng sông thăm thẳm, ai oán, nàng cũng không thể ngờ được rằng chính tình yêu con tha thiết lại nguyên cớ làm hại chết nàng.

Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình. Đó là một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông thường thấy. Vũ Nương là người hiền đức, tâm hồn vốn rất đơn giản và chân thành. Chưa bao giờ nàng hoài nghi hay nghĩ xấu về người khác. Thế nhưng, số mệnh xui khiến nàng lấy phải người chồng cả ghen. Nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng tới cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Không phải chỉ là cái bóng trên tường mà chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh đã giết chết Vũ Nương.

Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ. Những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi không thể lường trước được.

Đó là xã hội phong kiến nam quyền bất công và tàn bạo ở nước ta. Cái xã hội đã sản sinh ra những chàng Trương Sinh. Cái xã hội tồn tại quá nhiều những người đàn ông mang nặng tư tưởng nam quyền, độc đoán. Họ đã nhẫn tâm chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương. Ngoài Vũ Nương, trong cái xã hội đen tối ấy biết bao nhiêu người phụ nữ nhỏ bé cũng có cùng số phận như nàng.

Chiến tranh phong kiến cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Nó gây nên cảnh sinh li, rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Lúc ở nhà, Trương Sinh vốn đã thiếu lòng tin tưởng ở vợ. Khi nơi biên ải, ngăn mặt cách lòng, tính ghen ấy càng thêm dữ dội. Đâu chỉ vì lời nói ngây thơ, mơ hồ, của con trẻ. Chính vì cái ngây thơ và mơ hồ của Trương Sinh đã khiến chàng hành động mù quáng đấy thôi.

Tác phẩm thấm nhuần tư tưởng nhân đạo cao cả. Áng văn là mẫu mực của tiếng nói trân trọng và bênh vực con người của nền văn học trung đại, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Cái chết của nhân vật Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác xấu xa, tàn bạo. Đồng thời, qua hình tượng nhân vật, nhà văn bày tỏ niềm thông cảm sâu sắc đối với số phận người phụ nữ. Những con người nhỏ bé, yếu đuối trong xã hội phong kiến đương thời. Số phận của Vũ Nương đâu của chỉ riêng Vũ Nương. Nỗi đau số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh cuộc sống của người phụ nữ xưa.

Bi kịch của Vũ Nương đem đến bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nó là lời cảnh tỉnh đối với người phụ nữ khi gia đình xảy ra mâu thuẫn. Dù có chuyện gì xảy ra cũng phải bình tĩnh, kiên nhẫn và nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực. Đã có nhiều gợi mở để tránh cái chết cho Vũ Nương. Thế nhưng, vì lòng tự trọng, nàng đã không hề nhìn thấy.

Tác phẩm thể hiện sâu sắc tiếng nói trân trọng, cảm thông, thấu hiểu của tác giả với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Ngoài việc chú trọng xây dựng nội dung hoàn chỉnh và sâu sắc, truyện cũng đã đạt được sự tiến bộ trong nghệ thuật tự sự. Trước hết là thành công trong nghệ thuật xây dựng chi tiết có ý nghĩa trong tác phẩm, tạo tình huống có vấn đề. Chỉ bằng một vài sự kiện, Nguyễn Dữ đã có thể tạo được kịch tính. Và cũng chỉ bằng một vài sự kiện, ông có thể đẩy mẫu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm. Cái tài của nhà văn là không nói nhiều. Ông cố lược bỏ hết mọi yếu tố dư thừa, rườm rà, để hình tượng nhân vật được sáng rõ.

Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.

Suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương – Bài văn mẫu 2:

” Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.

Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng là Trương Sinh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lại đa nghi. Triều đình bắt lính, Trương Sinh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân kết thúc, Trương Sinh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận Trương Sinh làm cha. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.

Tính Trương Sinh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy xuống sông tự vẫn.

Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Sinh kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Sinh mới tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không còn trên đời nữa.

Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai họa này. Vũ Nương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự thực vẫn là sự thực! Cái chết oan uổng quá và người chồng độc đoán quá!

Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi rất lạ lùng không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông đặc đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương Sinh độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến của người khác. Đứa trẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến bất công cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.

Văn Bản: Chuyện Người Con Gái Nam Xương – Nguyễn Dữ

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Quê ở huyện Trường Tân , nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.

– Ông sống ở thế  kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

– Về con người:

+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là người học rộng tài cao, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà.

+ Là một “kẻ sĩ” có nhân cách cao thượng, nên trước những mục nát của chế độ đương triều,  bất mãn với thời cuộc, ông chỉ làm quan có một năm rồi xin lui về sống ẩn dật, viết sách và phụng dưỡng mẹ già.

+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là một người luôn đau đáu đến vận mệnh của xã tắc, sơn hà.

2. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

a. Thể loại – nguồn gốc xuất xứ

– Truyện truyền kì:

+ Là thể loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành từ thời Đường.

+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo,…

– Truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ:

+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, thời kì xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ.

+ “Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố  kì ảo; đề tài phong phú.

+ Truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng “thiên cổ tùy bút” (tức áng văn hay ngàn đời).

– Chuyện người con gái Nam Xương:

+ Là thiên truyện thứ 16 trong số 20 thiên truyện của “Truyền kì mạn lục”.

+ Truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp lại một số tình tiết và thêm vào các yếu tố kì ảo.

+ Chuyện người con gái Nam Xương được kể theo ngôi thứ 3.

b. Phương thức biểu đạt: Tự sự có kết hợp yếu tố biểu cảm.

c. Tóm tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

Nàng Vũ Nương, người phụ nữ đẹp người, đẹp nết được Trương Sinh – một người ít học lại có tính đa nghi, cưới về làm vợ. Gia đình đang yên ấm, hạnh phúc thì chàng Trương phải rời nhà đi lính. Ở nhà, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói là cha Đản. Mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng, song ít lâu sau bà qua đời.

Khi Trương Sinh trở về, nghe theo lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết. Vũ Nương một mực kêu oan, song Trương Sinh không nghe mà đánh mắng, đuổi vợ đi. Vũ Nương không tự minh oan được bèn trẫm mình xuống sông tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường, bé Đản gọi cha. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã muộn.

Vũ Nương không chết, nàng được Linh Phi cứu giúp. Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới thủy cung – người cùng làng bị chết đuối, cũng được Linh Phi cứu. Khi Phan Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc thoa và nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, lập đàn giải oan cho nàng ở bên sông ấy. Vũ Nương trở về ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ vài lời tạ từ rồi biến mất.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Vũ Nương

– Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.

– Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”; “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước “tư dung” – vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.

a. Trong mối quan hệ với chồng, nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.

* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường

– Nàng hiểu chồng “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa.

* Khi tiễn chồng đi lính

– Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:

+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường những thứ vinh hoa phù phiếm: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”.

+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao”.

+ Nàng bộc lộ sự khắc khoải, xa nhớ của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoan, lại thổn thức tâm tình”.

* Khi xa chồng

– Vũ Nương chứng minh được, nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.

– Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng đó là cha Đản.

– Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.

* Khi bị chồng nghi oan

– Nàng đã hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình:

+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.

+ Tiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.

+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

– Không còn hi vọng, nàng nói lên một cách đau đớn và thất vọng:

+ Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khao khát và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.

+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”.

+ Đến nỗi đau chờ chồng đến hóa đá của “cổ nhân” nàng cũng không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.

– Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc bị cự tuyệt quyền tồn tại của nàng:

+ Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để dãi tỏ tấm lòng trong trắng mà minh oan cho mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạc gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ”.

+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.

* Những năm tháng sống dưới thủy cung

– Sống ở chốn làn mây, cung nước sung sướng nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ: Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng. Nghe ông kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương.

– Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.

– Nàng là người trọng tình, trọng nghĩa: Dù rất thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ song vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.

b. Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng là một người con dâu hiếu thảo.

– Vũ Nương đã thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng:

+ Nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng khi bà già yếu, ốm đau. “Hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.

+ Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, phàm việc ma chay tế lễ thì lo liệu chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình.

+ Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định tấm lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

c. Trong mối quan hệ với con, nàng là một người mẹ yêu thương con hết mực.

– Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con và nuôi dạy con khôn lớn.

– Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò của một người cha: Hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.

– Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về mặt vật chất, mà con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo đó là cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.

2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

a. Nguyên nhân trực tiếp

– Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình. Khi người cha thật trở về thì không chịu nhận mà ngây thơ, vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan. Những lời nói thật của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông vốn luôn ấp ủ trong lòng Trương Sinh.

b. Nguyên nhân gián tiếp

– Do cuộc hôn nhân không bình đẳng và do tính hay ghen, gia trưởng của Trương Sinh: Vũ Nương là “con kẻ khó” được Trương Sinh đem trăm lạng vàng để cưới về. Sự đối lập giàu nghèo cộng với tính cách “đa nghi” của Trương Sinh đã sản sinh ra sự hồ đồ, độc đoán, gia trưởng để thô bạo với Vũ Nương. Rõ ràng, đối với vợ Trương Sinh đã thiếu cả lòng tin và tình thương.

– Do lễ giáo phong kiến hà khắc: Chế độ nam quyền đã dung túng, cổ vũ cho thói độc đoán, gia trưởng của người đàn ông, cho phép họ phá tan hạnh phúc mong manh của người phụ nữ.

– Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền mà nàng còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến: Trương Sinh phải đi lính, thời gian xa cách đã làm ngọn lửa ghen tuông sẵn âm ỉ nay lại được thổi bùng lên, phá tan hạnh phúc gia đình.

3. Những chi tiết đặc sắc

a. Những chi tiết kì ảo

– Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến xin tha mạng, sáng hôm sau ông được người phường chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền thả.

– Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lang chết đuối vì có công nên được Linh Phi cứu sống, gặp Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương thế.

– Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng nói vọng vài lời từ biệt rồi biến mất.

b. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện

– Làm nên đặc trưng của thể loại truyền  kì.

– Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn và kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

– Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.

– Tạo nên một kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:

+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.

+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của Vũ Nương: Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được minh oan.

– Tuy nhiên, những chi tiết kì ảo đó chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi kịch của thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự hiển linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang loáng mờ nhạt” trên sông rồi dần biến đi mất, tức là vẫn còn xa cách, vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương không thể trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu thuộc về những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước trở về nhân gian còn Vũ Nương thì không thể là một minh chứng đanh thép cho điều đó.

4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

a. Giá trị hiện thực Chuyện người con gái Nam Xương

– Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

– Lên án hiện thực xã hội phong kiến với đầy rẫy những bất công, vô lí. Xã hội ấy đã dung túng chế độ nam quyền hà khắc, trọng nam khinh nữ chà đạp lên số phận người phụ nữ. Một xã hội mà người phụ nữ không thể đứng lên để bảo vệ giá trị nhân phẩm của mình ngoài cái chết.

– Phản ánh xã hội phong kiến đầy mâu thuẫn đã gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa kéo dài liên miên, làm cho đời sống người dân càng rơi vào bi kịch, bế tắc.

b. Giá trị nhân đạo Chuyện người con gái Nam Xương

– Khám phá, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

– Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp: Đề cao giáo trị nhân văn “ở hiền thì gặp lành” và gửi gắm những ước mơ tốt đẹp ngàn đời của nhân dân.

– Thể hiện sự thấu hiểu, xót xa và niềm cảm thương sâu sắc với số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất hạnh của Vũ Nương.

– Lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến, chế độ nam quyền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Đó cũng chính là giá trị nhân văn muôn thuở của loài người.

III. Tổng kết

1. Nội dung

– Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Qua đó khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất quý báu của họ.

– Tác phẩm còn mang một thông điệp vượt thời gian: Tất cả mọi người đều có quyền sống và quyền hạnh phúc. Đặc biệt là những người phụ nữ, họ có quyền bình đẳng để phát huy tài năng và phẩm chất của mình. Đó cũng chính là những biểu hiện của một xã hội hiện đại, văn minh.

2. Nghệ thuật

– Chuyện người con gái Nam Xương xây dựng tình huống truyện độc đáo, xoay quanh sự ngộ nhận, hiểu lầm lời nói của bé Đản. Chi tiết cái bóng trở thành điểm mấu chốt của tình huống khiến cốt truyện được thắt nút, mở nút, thay đổi sau khi nó xuất hiện.

– Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: Dẫn dắt tình huống hợp lí; xây dựng lời thoại của nhân vật đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.

– Có sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm.

IV. Một số dạng đề tham khảo

Câu 1. Nguyên nhân nào dẫn tới cái chết của nhân vật Vũ Nương.

Câu 2. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Câu 3. Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ.

Câu 4. Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Câu 5. Về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ.

Theo anh (chị), ý kiến trên thể hiện như thế nào qua nhân vật Vũ Nương?

Làm chủ kiến thức ngữ văn 9 – Luyện thi vào 10 Tác giả: Phạm Trung Tình

Công Bố Về Nguyên Nhân Cái Chết Của Michael

Khoảng 18h30 ngày 19/6/2009. Hai chiếc ôtô Cadillac chạy tới Forum, một sân vận động 17.000 chỗ ngồi ở Inglewood, tây nam thành phố Los Angeles: Ở đây Michael Jackson phải diễn tập cho chuyến lưu diễn trên thế giới. Chàng đi cùng nhóm nhạc tới sân khấu khổng lồ này. Kenny Ortega, biên đạo múa và bạn của chàng ra đón chàng. Kenny Ortega thấy lo sợ cho sức khỏe của Michael Jackson: Chàng run lên vì lạnh, nước da tái như da xác chết! Cặp mắt nhìn vào khoảng không. Trước tình trạng sức khỏe sút kém này nhà biên đạo múa Kenny đề nghị chàng hủy bỏ buổi diễn tập… Michael gật đầu. Lúc 21h, hai xe Cadillac quay trở lại số nhà 100 North Carolwood Drive, lâu đài Bel Air, ở đây vua nhạc pop sống với 3 đứa con. Trong đêm đó Kenny gửi cho anh một bản e-mail cho các nhà tổ chức chuyến lưu diễn để cấp báo cho họ… Nhưng hôm sau vào đầu buổi chiều, Kenny được mời đến nhà của ca sĩ Michael để nhận một lời trách mắng của Conrad Murray, bác sĩ được ưa chuộng của ngôi sao nhạc Pop. Ông bác sĩ tỏ ra bực tức: “Michael rất khỏe mạnh! Anh hãy can dự vào công việc của anh thôi! Bác sĩ của ông ấy là tôi”…

Trên thực tế, ngày 20/6 đó, Michael khỏe mạnh. Những thuốc giảm đau do bác sĩ Murray chỉ định dùng đã có hiệu quả. Trong buổi tối, chàng thực hiện được việc diễn tập ở Trung tâm Staples center, lần này, rồi trở lại những ngày tiếp sau…

Cho tới ngày 24/6, hôm trước cái chết của chàng. Trong những buổi tập cuối cùng đó, Michael có ảo tưởng. Khi đẹp trời, chàng tỏ ra tươi tỉnh. Việc này giải thích rằng, anh bạn Kenny có thể quay cuốn phim “This is it”, tạm dịch đây là cuộc diễn tập trong đó người ta thấy chàng làm động tác xoay mình trên sàn diễn.

Nhưng trong đêm 24 rạng ngày 25/6 Michael “trúng” một cơn mệt mới. Ít thời gian trước một giờ sáng, chàng trở về nhà mình, kiệt sức vì 6 giờ luyện tập, “nhưng tâm trạng bình yên” – một trong những vệ sĩ của chàng nhận xét. Chàng ngồi ở sau xe Cadillac, cùng với Faheem Muhammad, “lái xe – vệ sĩ” của chàng và Michael Amir Williams, thư ký của chàng. Các người hâm mộ chào ca sĩ khi chàng bước qua cửa ngôi nhà chàng. Dù đêm đã khuya nhưng họ trung thành ở tại vị trí. Bác sĩ Murray đợi chàng: xe ôtô ông ta đã đậu trong sân. Từ khi ông này nhận công việc, đã được hai tháng rưỡi, hàng ngày ông ta đến vào cuối buổi chiều. Đêm, ông ta trông coi ngôi sao nhạc Pop. Cùng với các vệ sĩ, ông là người duy nhất vào căn phòng của chàng, ở lầu một. Tối hôm đó – sau này ông ta khai với các điều tra viên – ông ta quyết định không tiêm cho chàng thuốc Propofol, thuốc gây mê mạnh này chỉ sử dụng ở bệnh viện khi có một ca phẫu thuật. Nhưng, như mỗi lần chàng nằm trên giường, Michael đòi ông ta thuốc đó. Bác sĩ Murray không có uy tín cần thiết để cản trở tính thay đổi thất thường của chàng. Lúc đó ông ta đã nghe theo! Ông ta đã tiêm cho chàng một mũi tiêm đầu, rồi những mũi khác. Hôm sau ở bệnh viện của Đại học California (U.C.L.A), các bác sĩ pháp y đã tìm lại 100 miligam chất Propofl trong cơ thể ca sĩ. Cái chất đó gây nên chết người!

Nhưng đối với Michael, việc đó chưa đủ. Vào sáng ấy, 8h ngày 25/6, chàng vẫn không nhắm mắt được. Như mọi ngày, chị Kai Chase, nữ đầu bếp tới nhà và chuẩn bị bữa điểm tâm: các món ngũ cốc cho các đứa con và nước trái cây cho Michael. Chị ta chạy ra siêu thị ở góc phố và trở về trước mười giờ một chút.

Bác sĩ Murray làm gì vào lúc đó? “Thường thường tôi nhìn thấy ông ấy đi qua, cầm một chiếc mâm cho Michael mà ông ta đưa vào phòng của chàng. Nhưng sáng hôm ấy ông ấy không đến” chị đầu bếp nhớ lại. Ngôi nhà tĩnh lặng. Âm nhạc vang lên trong tất cả căn buồng trong khi những đứa con chơi trong căn nhà phụ dưới sự theo dõi chăm chú của Sister Rose cô “bảo mẫu”.

Nhưng khoảng giữa trưa, chị đầu bếp nghe thấy những tiếng kêu: chúng đến từ lầu một. Chính là bác sĩ Murray. Hốt hoảng, ông ta chạy xuống các bậc thang, ra lệnh đi tìm Prince, anh trai cả của Michael Jackson. Rồi lúc 12h13 chính xác, ông ta gọi Michael Amir: “Hãy tới ngay có vấn đề khó khăn rồi”, ông ta hét lên trong máy đàm thoại. Lo sợ, người thư ký đó – không có mặt tại chỗ gọi điện thoại cho Alberto Alvarez, một trong các vệ sĩ có mặt và yêu cầu anh này đến xem. Khi người vệ sĩ này bước vào phòng của ca sĩ, bác sĩ Murray (áo sơ-mi và quần dài sáng màu) đẫm mồ hôi. Ông ta cố làm hồi sức Michael bằng một cánh tay duy nhất. “Trong đời tôi. Tôi chưa bao giờ làm mát-xa tim; thử tim cho tới một người nào đó biết cách làm”, ông ta năn nỉ.

Ca sĩ Michael nằm trên giường, bất động. Đầu chàng lệch nhẹ sang bên trái. Miệng chàng và cặp mắt vẫn mở. Dương vật của chàng – lòi ra từ chỗ xẻ của quần pyjama, được bao một cái bao dương vật để chàng đi tiểu mà không bị ướt khi chàng ngủ sâu, bị “đánh gục” do tác dụng của thuốc gây ngủ. Trên sàn nhà lăn lóc mấy lọ thủy tinh và những lọ đựng chất lỏng trắng – thuốc propofol loại tốt! “Hãy ném tất cả thứ này vào túi rác”, bác sĩ Murray đột ngột ra lệnh! Người vệ sĩ thi hành việc đó, không hiểu đây là hành động che giấu ” vũ khí gây tội ác”. Viên bác sĩ truyền đạt: “Bây giờ hãy gọi cấp cứu” “alô 911”. Đã 12h22. Đội cấp cứu có mặt ở đó, bốn phút sau. Richard Seneff, trưởng đội cấp cứu, người đầu tiên đến tận nơi, phát câu hỏi: “Ông ấy đau vì cái gì?”. “Vì bị mất nước”, bác sĩ Murray trả lời. Sự lừa dối quá đáng, sự lừa dối đầu tiên của một loạt dài… Trước mặt họ, Michael không còn thở nữa. Thân thể chàng đã lạnh. Hai mắt chàng đã dãn ra. Các tĩnh mạch của đôi chân chàng bắt đầu tái xanh đi – theo ông Rechard Seneff – chứng tỏ rằng chàng đã chết ít nhất là 20 phút rồi. “Nếu chúng tôi được cấp báo sớm hơn, chúng tôi có thể cứu sống được ông ta” – ông này bày tỏ hối tiếc trong tuần vừa qua tại tòa án thành phố Los Angeles, nơi ông được kể là nhân chứng.

Lê Văn