Ca dao là một từ Hán Việt. Trong đó, “ca” dùng để chỉ những bài hát; còn từ “dao” được dùng để chỉ những bài hát ngắn, thường không có chương khúc, giai điệu.
Vì vậy, có thể hiểu ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, được dùng để miêu tả, ngụ ý hay diễn đạt tình cảm. Hầu hết ca dao đều là lời thơ trữ tình dân gian, thường được kết hợp với âm nhạc để diễn xướng và phản ánh thế giới nội tâm của con người.
Ca dao được lưu truyền theo hình thức truyền miệng nên rất ngắn gọn, súc tích và sử dụng thể thơ dân tộc (thơ lục bát hoặc lục bát biến thể) cho dễ thuộc, dễ nhớ. Bên cạnh đó, ca dao cũng sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, ngôn ngữ gần gũi, đời thường và được diễn đạt mang đậm sắc thái dân gian.
Phản ánh lịch sử: Ca dao thường nhắc tên các sự kiện lịch sử và bày tỏ quan điểm, thái độ của nhân dân chứ không đi sâu vào quá trình hay diễn biến của nó.
Phản ánh phong tục – tập quán, nếp sống hay đời sống tình cảm của nhân dân trong quan hệ gia đình, lứa đôi, đất nước,…. Đồng thời, ca dao cũng phản ánh cuộc sống của nhân dân trong xã hội cũ, điển hình là những bài ca dao than thân.
Ca dao thể hiện tiếng cười bông đùa, trào phúng.
Là những bài thơ ca truyền miệng của trẻ em và hầu như không có tác giả, ví dụ như vè. Đồng dao được chia thành hai loại chính là: gắn với trò chơi hoặc gắn liền với công việc của trẻ nhỏ.
“Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến hỏi ông trời
Xin vài cái bánh
Gặp xe thì tránh
Đội mũ trên đầu
Đi chậm đi mau
Lâu lâu lại ngồi!”
“Em là con gái nhà nông,
Thấy anh gánh lúa vừa mừng vừa thương.
Mồ hôi ướt đẫm trán lưng,
Hỏi anh có mệt gánh giùm cho anh.
Mời anh bát nước chè xanh,
Thi nhau ta gánh cho nhanh bạn cùng.”
“Ru con, con ngủ cho lâu
Để mẹ đi cấy ruộng sâu lâu về
Ru con, con ngủ cho mê
Mẹ còn lo chuyện lê thê kéo cày
Ru con, con ngủ cho say
Mẹ còn vất vả chân tay ngoài đồng
Ru con, con ngủ cho nồng
Mẹ còn nhổ mạ trả công cho người.”
“Thịt Mỡ dưa hành câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.”
“Chồng người đánh giặc sông Lô
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần
Chồng người cưỡi ngựa bắn cung
Chồng em ngồi bếp cầm thun bắn ruồi.”
“Cô kia đứng ở bên sông,
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.”
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi, nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.”
“Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
Tục ngữ là gì?
Tục ngữ là gì? Đây là một thể loại văn học dân gian, được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích và có nhịp điệu nên rất dễ nhớ và dễ truyền đạt.
Trong các câu tục ngữ, cả hình thức và nội dung luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau để tạo thành một câu hoàn chỉnh và thống nhất. Một câu tục ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa là: nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tục ngữ là những câu nói được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm sống thực tế
* Ví dụ về câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Chúng ta có thể giải thích câu tục ngữ này theo hai nghĩa như sau:
Nghĩa đen: Nếu để mực rây ra tay thì sẽ bị dính màu đen của mực. Còn nếu ngồi gần đèn thì sẽ được nhìn rõ tất cả mọi vật do đèn chiếu sáng vào.
Nghĩa bóng: Cha ông ta muốn nhắn nhủ rằng môi trường sống có tầm ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến nhận thức và lối sống của mỗi cá nhân. Nếu sống sống trong môi trường có nhiều điều xấu, con người sẽ bị ảnh hưởng và có thể bị tha hóa về đạo đức sống. Ngược lại, nếu sống trong môi trường có nhiều điều tốt đẹp thì chúng ta sẽ sống lành mạnh, có ích hơn cho gia đình và xã hội.
Tính hình tượng trong câu tục ngữ thường được thể hiện qua các phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Ông cha ta muốn thông qua những sự vật, hiện tượng thân thuộc để thể hiện quan niệm và đúc kết thành chân lý, kinh nghiệm; vừa sáng tạo nhưng lại rất sâu sắc. Chính tính hình tượng hóa này sẽ giúp chúng ta dễ hiểu và biết các suy ngẫm.
Bên cạnh đó, tục ngữ thường được gieo vần liền hoặc vần cách, được ngắt nhịp linh hoạt tạo nên sự hài hòa, cân đối và nhịp nhàng.
Tục ngữ đúc kết và phản ánh kinh nghiệm sản xuất của người dân lao động.
Ví dụ: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Ví dụ: “Ăn lông ở lỗ”, “Một người làm quan cả họ được nhờ”, “Cá lớn nuốt cá bé”,..
Ví dụ: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”,…
Những câu ca dao tục ngữ Việt Nam hay nhất
Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy.”
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước mong.”
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha.”
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.”
Theo đôi theo lứa mới thành thất gia.”
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than!”
Nuôi con mới biết công lao mẹ, thầy.
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.”
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”
“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”.
“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
“Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng”.
Tình bạn là mối duyên thừa trời cho.”
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời.”
Trái tim còn đập vẫn là bạn nhau.”
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.”
Cười người hôm trước hôm sau người cười.”
Có bát cơm đầy, nhớ đến nhà nông.
Đường đi cách bến cách sông
Muốn qua dòng nước, nhờ ông lái đò!”
“Kính lão đắc thọ”.
“Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”.
“Đường mòn nhân nghĩa không mòn”.
“Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho”.
“Én bay thấp mưa ngập cầu ao
Én bay cao mưa rào lại tạnh.”
Cơn đằng Nam, vừa làm vừa chơi
Cơn đằng Bắc, đổ thóc ra phơi
Cơn đằng Tây, mưa ngu bão ngáo.
Cày sâu bừa kĩ phân tro cho nhiều.”
Nuôi tằm ba lứa, ruộng cày ba năm
Nhờ trời hòa cốc phong đăng
Cấy lúa lúa tốt, nuôi tằm tằm tươi
Được mùa dù có tại trời
Chớ thấy sóng cả mà rời tay co.
“Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm”.
“Tháng bảy mưa gãy cành tràm”.
“Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa”.
“Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa”.
Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.
Dạy con, dạy thuở còn thơ,
Dạy vợ, dạy thuở ban sơ mới về.”
Học buôn, học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ là người lo toan.
Phòng khi đóng góp việc làng,
Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
Trước là đẹp mặt cho chồng,
Sau là họ mạc cũng không chê cười.”
Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.
Gái thời trinh trỉnh lòng son,
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
Trai lành gái tốt ra người,
Khuyên con trọng bấy nhiêu lời cho chuyên.”
“Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật”.
“Miệng hỏa lò ăn hết cơ nghiệp”.
“Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay”.
“Nước đổ lá khoai”
“Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi”.
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan”.
Đến khi chết bỏng cứ tai mà rờ!”
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
“Thân tự lập thân”.
“Có thân phải khổ, có khổ mới nên thân”.
“giúp lời không ai giúp của, giúp đũa không ai giúp cơm”.
“Sông sâu sóng cả, chớ ngã tay chèo”.
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng”.
Nước non a vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ là đây”.
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui”.
Có về Hà Nội với ta thì về
Đường thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang”.
Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An”.
Sự khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ Việt Nam
Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam đều là những câu nói ngắn gọn, súc tích; phản ánh tri thức của con người về sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Bởi vậy mà rất khó để phân biệt hai khái niệm này.
Tuy nhiên, bạn có thể phân biệt được thành ngữ và tục ngữ qua một số đặc điểm sau:
Là cụm từ được cấu tạo cố định và thể hiện một ý nghĩa hoàn chỉnh.
Là những câu nói ngắn gọn, có vần điệu và được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm sống thực tế của người dân.
Chưa diễn đạt trọn vẹn một ý mà chỉ đề cập đến như một khái niệm.
Thành ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học, thường là một vế câu được dùng để tạo câu hoặc chen thêm vào các câu nói.
Ví dụ: Chúc cậu “mẹ tròn con vuông”.
Diễn đạt trọn vẹn một ý. Đó có thể là lời đánh giá, sự nhận xét hay một kinh nghiệm sống, một lời khuyên,… nhằm khuyên răn và hướng dẫn con người cách sống, cách ứng xử đúng đắn.
Tục ngữ thuộc lĩnh vực văn học, được dùng độc lập.
Ví dụ: “Thất bại là mẹ thành công”.