Xu Hướng 3/2023 # Tổng Quan Về Mô Hình Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Thực Trạng Và Phương Hướng Hoàn Thiện # Top 6 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Tổng Quan Về Mô Hình Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Thực Trạng Và Phương Hướng Hoàn Thiện # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Tổng Quan Về Mô Hình Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Thực Trạng Và Phương Hướng Hoàn Thiện được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

GS. TSKH. Đào Trí Úc  Đại học Quốc gia Hà Nội

Phần thứ Nhất: Khái niệm, thực trạng của tố tụng hình sự Việt Nam

1. Tố tụng hình sự và mô hình tố tụng hình sự

1.1. Khái niệm tố tụng hình sự

Một trong những lĩnh vực được công chúng đặc biệt quan tâm trong những năm đổi mới và cải cách ở Việt Nam là lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp, trước hết là hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự. Như một phản ửng tự nhiên, ban đầu người ta quan tâm đến năng lực của Nhà nước, của xã hội trong việc ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm, vì đó là một trong những điều kiện quan trọng cho việc bảo vệ các thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân, các lợi ích của quốc gia và xã hội và là điều kiện bảo đảm ổn định và sự phát triển của đất nước. Về sau, trọng tâm của dư luận xã hội đã dịch chuyển theo hướng bảo đảm sự công bằng, dân chủ, sự nghiêm minh của pháp luật, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động tư pháp, yêu cầu về phòng chống oan sai, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong các hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền tiếp cận công lý bình đẳng của công dân. Đó cũng chính là những định hướng và yêu cầu cơ bản đối với các hoạt động tư pháp được đặt ra trong các văn kiện chính trị có tính chỉ đạo chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong những năm gần đây ([1]).

Đó trước hết là lĩnh vực hoạt động của các cơ quan với vị trí, vai trò, chức năng và phạm vi thẩm quyền tương ứng được Hiến pháp và pháp luật quy định chặt chẽ, bao gồm:

– Các Tòa án, là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp (Điều 127) và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

– Các Cơ quan điều tra, được tổ chức và hoạt động theo Pháp lệnh tổ chức các Cơ quan điều tra

– Viện kiểm sát nhân dân, tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp (các điều 137 – 140 Hiến pháp) và Luật Tổ chức VKSND với hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

– Các cơ quan thi hành án hình sự.

Toàn bộ các hoạt động đó phải được diễn ra theo một trình tự với sự tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục pháp lý. Yêu cầu về sự tuân thủ trình tự và thủ tục chặt chẽ là một trong những yêu cầu quan trọng đối với các hoạt động tố tụng và có thể nói không sai rằng, nếu đứng ở giác độ của yêu cầu bảo vệ phẩm giá con người trong Nhà nước pháp quyền thì đây là yêu cầu quan trọng nhất.

Cuối cùng, những chức năng, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ cũng như tính hệ thống của các trình tự, thủ tục được phản ánh nhất quán qua các giai đoạn theo sự diễn biến của các sự kiện.

Như vậy, trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm có một phạm vi hay lĩnh vực có những mục đích nhất định với sự hiện diện của những cơ quan, cá nhân mà pháp luật xác định cho những mức độ thẩm quyền, địa vị pháp lý; với những mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các chức năng, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ đó và theo một trình tự, với những thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm hướng tới sự xác định các yếu tố về tội phạm và hình phạt trong hành vi của cá nhân con người. Lĩnh vực hay phạm vi đó được gọi là tố tụng hình sự.

1.2. Khái niệm mô hình tố tụng hình sự và cấu trúc của nó

Từ khái niệm tổng quát về tố tụng hình sự có thể thấy rằng, bất kỳ một hệ thống tố tụng hình sự nào cũng bao gồm những yếu tố chủ đạo sau đây:

– Mục đích của tố tụng hình sự;

– Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự;

– Các chức năng chủ yếu trong tố tụng hình sự;

– Vị trí pháp lý của các chủ thể hoạt động tố tụng hình sự và quan hệ giữa các chủ thể đó trong tố tụng hình sự;

– Các giai đoạn tố tụng hình sự;

– Phương thức đạt được mục đích của tố tụng hình sự hay là vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự.

Các yếu tố này trong tổng thể là xương sống của tố tụng hình sự. Những yếu tố đó hợp thành một hệ thống tố tụng hình sự thống nhất, nhất quán với nhau, trong đó mục đích của tố tụng hình sự là yếu tố quan trọng nhất, chi phối các yếu tố khác. Mục đích nào thì sẽ đặt ra những yêu cầu đòi hỏi như vậy cho các hoạt động tố tụng hình sự, tức là các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Đến lượt chúng, cùng với mục đích, các nguyên tắc của tố tụng hình sự là điểm xuất phát để xác định chức năng, vị trí và các mối quan hệ giữa các chủ thể tố tụng hình sự, phương thức của việc bảo đảm chứng cứ và của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự.

Tính chất và đặc điểm của các yếu tố hợp thành tố tụng hình sự đều được quyết định bởi mục đích của tố tụng hình sự. Cũng căn cứ vào đó mà người ta phân biệt sự khác nhau căn bản của các mô hình tố tụng hình sự. Còn trong khuôn khố của một mô hình thì tính chất và đặc điểm của các yếu tố đó của TTHS có thể có những sự khác nhau bắt nguồn từ đặc điểm phát triển của TTHS, đặc điểm của hệ thống pháp luật cũng như của hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia, trong từng thời đại lịch sử nhất định.

Trên tinh thần đó, có thể nêu những tính chất, đặc điểm của hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam như sau:

2. Mục đích của tố tụng hình sự Việt Nam

2.1. Hiện trạng

Bộ luật TTHS Việt Nam hiện hành (2003) tại Điều 1, mặc dù không sử dụng khái niệm “mục đích” nhưng đã dùng từ “nhằm”. Trong tiếng Việt “nhằm” cũng có thể được hiểu là mục đích cần đạt được. Theo đó, TTHS có mục đích “phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.

TTHS Việt Nam cũng có mục đích “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.

2.2. Nhận xét

Để làm rõ tính chất và đặc điểm của TTHS Việt Nam thông qua phạm trù “mục đích” của TTHS, có lẽ cần lấy thêm một yếu tố khác là thực chất của TTHS, nói khác đi, cần bắt đầu từ câu hỏi: Vì sao cần đến TTHS? Hoặc “Từ khi nào nảy sinh một vụ án hình sự và nó phải kết thúc khi nào và bằng cách nào?”.

Nếu nhìn nhận TTHS từ góc độ một vụ kiện thì sẽ thấy TTHS thực chất là sự tranh chấp hình sự về vấn đề có tội hay vô tội, tội nặng hay tội nhẹ giữa Nhà nước – người đưa ra điều cấm và bị can, bị cáo – người bị coi là vi phạm điều cấm đó. Lịch sử của nhân loại đã chứng kiến nhiều kiểu giải quyết tranh chấp đó bằng những cách không dính dáng gì đến tố tụng như đền nợ máu, hòa giải các bên trong vụ kiện, kiểu hành xử của chủ nô đối với nô lệ, chặt chân tay của kẻ trộm, cạo trọc bôi vôi với kẻ chửa hoang v.v. . . Khi con người đã trở nên văn minh hơn, sự tranh chấp như trên đã được giải quyết bằng con đường tố tụng và vì vậy phương thức giải quyết phải có điểm dừng nhất định. Điểm dừng thứ nhất: Hoặc là các bên tìm ra giải pháp chung và đều thỏa mãn với nó hoặc là bên này thừa nhận đòi hỏi của bên kia. Điểm dừng thứ hai: Đó là việc tìm ra chân lý, sự thật đã xảy ra, các bên buộc phải tìm ra chân lý, sự thật của vụ án. Tố tụng hình sự Việt Nam chọn con đường thứ hai.

– Thứ nhất, những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành đang ở trạng thái tạo ra sự chủ quan cho chủ thể đi tìm sự thật của vụ án hình sự. Mặc dù pháp luật có xác định phải xử lý công minh, không làm oan người vô tội, nhưng đứng ở vị thế độc quyền chân lý, sự chủ quan là không tránh khỏi.

– Thứ hai, các mục đích được đặt ra cho TTHS mà thực chất là mục đích hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nặng về bảo vệ lợi ích công và coi nhẹ lợi ích của cá nhân những con người cụ thể trong vụ án hình sự. Bộ luật TTHS chỉ nhắc đến mục đích “bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” một cách chung chung mà không chỉ rõ là bảo vệ quyền và lợi ích của những người ở vào vị thế bị động và yếu hơn so với bộ máy công quyền hiện diện trong TTHS, vả lại, cũng chỉ được nhắc đến sau cùng. Vì vậy, ai sẽ là người quan tâm nhiều hơn đến họ: Luật sư? Bản thân những cá nhân đó (bị can, bị cáo, bị đơn dân sự)? Chắc chắn là như vậy! Thế nhưng ở đây họ chỉ là những người không có quyền chủ động trong tiến trình TTHS, họ được xếp vào thể loại “người tham gia tố tụng” vì đúng là tố tụng này không phải của họ. Mặt khác, giả sử họ là chủ thể đi tìm sự thật thì liệu họ có đi tìm và tìm ra những gì chống lại họ (nếu là bị can, bị cáo), hay thân chủ của họ (nếu là luật sư)? Trong trường hợp này, mục đích hợp pháp của những chủ thể này chỉ có thể là đi tìm những gì chống lại cái không phải là sự thật đang có nguy cơ được thừa nhận là sự thật. Muốn vậy, cần tạo cho bị can, bị cáo, người bào chữa của họ có được khả năng và vị thế ngang với khả năng và vị thế của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm sự thật cũng như chống lại những gì phi sự thật, phản sự thật. Cách duy nhất để thỏa mãn được yêu cầu đó là đổi mới cách nhìn về mục đích của TTHS theo hướng bình đẳng đối với các giá trị, lợi ích cần đạt được của TTHS, lợi ích của trật tự pháp luật và lợi ích của cá nhân những con người nằm trong vòng tố tụng. Từ đó, hai mục đích khác nhau của TTHS cần được đặt ở vị trí ngang bằng nhau là: 1) xác định sự thật của vụ án và 2) loại trừ những gì không phải là sự thật trong vụ án. Với logic đó, việc xác định mục đích của TTHS cần được thực hiện theo hướng bảo đảm lợi ích của trật tự pháp luật và lợi ích, quyền và tự do của công dân.

3. Các nguyên tắc của tố tụng hình sự

3.1. Hiện trạng

Khi bàn về các nguyên tắc của tố tụng hình sự, ở Việt Nam có hai luồng ý kiến khác nhau. Loại quan niệm thứ nhất cho rằng, nguyên tắc pháp lý đòi hỏi phải được pháp luật ghi nhận. Nhờ sự ghi nhận của pháp luật mà nguyên tắc mang tính quy phạm và được bảo đảm thực hiện bởi sức mạnh của quyền lực Nhà nước. Kết quả là một nguyên tắc được pháp luật quy định sẽ có hiệu lực điều chỉnh mà không còn là yêu cầu, đòi hỏi chung chung.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, nguyên tắc là những tư tưởng chủ đạo chung phản ánh các quy luật khách quan của quá trình phát triển xã hội, có mức độ phổ quát hơn nhiều so với những gì được pháp luật quy định, nhiều khi phải đi trước một bước so với pháp luật và có khả năng chỉ đạo cả hoạt động xây dựng pháp luật, định hướng nhận thức pháp luật và hoạt động áp dụng pháp luật.

Theo quan điểm và hiểu biết của chúng tôi, đây thực chất là hai mức độ khác nhau trong sự thể hiện của khái niệm nguyên tắc pháp lý. (Do đó, chúng tôi chủ ý không dùng khái niệm: “Nguyên tắc pháp luật” mà dùng “khái niệm nguyên tắc pháp lý”). Nguyên tắc pháp lý có hai mức độ biểu hiện: Mức độ nằm trong ý thức pháp luật và tư tưởng pháp lý; mức độ nằm trong các quy định của pháp luật. Ớ mức độ thứ nhất, các nguyên tắc pháp lý có khả năng là nhân tố chỉ đạo hoạt động xây dựng pháp luật, nó có trước pháp luật thực định. Ở mức độ thứ hai, khi được ghi nhận thông qua các quy phạm và chế định của pháp luật thực định, các nguyên tắc sẽ có năng lực điều chỉnh cao hơn, cụ thể hơn. Thiếu sự điều chỉnh của pháp luật hoặc điều chỉnh không đầy đủ, không đồng bộ, thiếu rõ ràng sẽ làm cho việc áp dụng các nguyên tắc thiếu nhất quán và dễ dẫn đến sự vi phạm các nguyên tắc đó. Đương nhiên, phương pháp ghi nhận bởi pháp luật đối với các nguyên tắc là rất đa dạng và cũng là vấn đề cần được bàn đến.

Đồng thời với việc xác nhận hai mức độ thể hiện của nguyên tắc pháp lý, cần khẳng định rằng hai mức độ đó phải nhất quán với nhau, mức độ mang tính quy phạm phải là sự biểu hiện tốt nhất mức độ lý tưởng của các nguyên tắc. Pháp luật thực định của bất kỳ một Nhà nước nào cũng không thể hoàn thiện ngay được theo đúng nhận thức của giai cấp cầm quyền nói riêng và của nhân dân nói chung và luôn luôn được đặt trước yêu cầu ngày càng hoàn thiện theo những lý tưởng, quan điểm chủ đạo (tức là nguyên tắc đã được đặt ở trạng thái đã được nhận thức khoa học). Có thể thấy rõ điều đó qua những bất cập hoặc khoảng cách giữa hệ thống pháp luật đã được đổi mới nhiều năm ở nước ta so với những tư tưởng và quan điểm chỉ đạo trong “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020″.

Nguyên tắc pháp lý còn là kim chỉ nam định hướng cho việc hiểu biết về pháp luật. Do vậy, để hiểu đúng nội dung và ý nghĩa của một quy phạm pháp luật hay chế định pháp luật thì vai trò của nguyên tắc pháp lý là rất quan trọng. Chỉ có nắm vững nguyên tắc thì mới hiểu được lời văn và tinh thần của pháp luật.

Trong tố tụng hình sự Việt Nam, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo được thể chế hóa bằng pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định và thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự và các quan hệ tố tụng hình sự, đối với các hình thức và phương pháp thực hiện những hoạt động và quan hệ đó. Cũng như các nguyên tắc pháp lý khác, các nguyên tắc của tố tụng hình sự có những đặc điểm sau đây:

a) Nguyên tắc của tố tụng hình sự phải là những tư tưởng, quan điểm phù hợp với yêu cầu phát triển khách quan của đời sống xã hội. Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những quan điểm chủ đạo, những tư tưởng xuất phát điểm quyết định cấu trúc và nội dung tổ chức và các hoạt động trong tố tụng hình sự.

b) Nguyên tắc của tố tụng hình sự phản ánh những đòi hỏi khách quan và nhận thức tư tưởng của xã hội trong quá trình phát triển về nền tư pháp nói chung và về Tố tụng hình sự nói riêng.

Nguyên tắc của tố tụng hình sự gắn liền với nhiệm vụ và mục đích của tố tụng hình sự và do vậy, tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng hình sự là bảo đảm quan trọng hàng đầu cho việc thực hiện có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ của tố tụng hình sự.

c) Nguyên tắc của tố tụng hình sự được thể hiện trong những hình thức đặc trưng dưới dạng tư tưởng, quan điểm và dưới dạng quy phạm pháp luật. Ở dạng những tư tưởng và quan điểm, các nguyên tắc có tác dụng dẫn dắt nhận thức, định hướng ý thức xã hội và ý thức chuyên nghiệp dưới dạng các quy phạm, các nguyên tắc là những quy định pháp lý có tính chất chỉ đạo bắt buộc đối với mọi quyết định tố tụng và hành vi tố tụng.

Nguyên tắc của tố tụng hình sự nếu được ghi nhận bởi pháp luật sẽ tạo ra khả năng điều chỉnh và làm tăng hiệu lực thực hiện của các nguyên tắc đó. Mặt khác, các nguyên tắc của tố tụng hình sự là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng hình sự. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, các nguyên tắc của tố tụng hình sự là đòi hỏi bắt buộc đối với thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự; vi phạm nguyên tắc tố tụng hình sự trong các hoạt động tố tụng dẫn đến hậu quả pháp lý là hủy các quyết định đã vi phạm.

d) Các nguyên tắc của tố tụng hình sự là yếu tố quan trọng và là sản phẩm mô hình của tố tụng hình sự, là những đòi hỏi và phương châm cụ thể bảo đảm đưa nội dung của mô hình tố tụng trở thành hiện thực pháp lý thông qua các chế định, các quy phạm pháp luật Tố tụng hình sự và thông qua tổ chức và hoạt động của chủ thể tham gia tố tụng. Mỗi một mô hình tố tụng hình sự có một hệ thống các nguyên tắc đặc trưng của nó.

e) Nguyên tắc của tố tụng hình sự là điều kiện cho việc thực hiện các mục đích của tố tụng hình sự. Nếu như mục đích của tố tụng là cái mà các hoạt động của tố tụng hình sự cần đạt được thì nguyên tắc chỉ cho chúng ta thấy rằng, cần đạt được kết quả đó như thế nào. Điều đó có nghĩa là, nguyên tắc có vai trò hỗ trợ cho việc thực hiện mục đích của tố tụng hình sự.

Như vậy, nguyên tắc của tố tụng hình sự là cái có trước mô hình cấu trúc của tố tụng hình sự và trước cả các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc không phải là pháp luật thực định mà là những đòi hỏi pháp lý có tính khái quát cao, mang màu sắc lý tưởng, là những yêu cầu, đòi hỏi, là cái cần có. Trong khi đó, pháp luật tố tụng hình sự là cái tồn tại. Cái tồn tại phải được cải biến cho phù hợp với yêu cầu của cái cần có, nhưng trong hiện thực luôn luôn có một khoảng cách giữa hai phạm trù đó. Có thể lấy ví dụ về nguyên tắc tranh tụng trong cải cách tư pháp hình sự hiện nay ở Việt Nam theo tinh thần của Chiến lược cải cách tư pháp. Thực hiện tranh tụng trong tố tụng hình sự là yêu cầu được đặt ra trong Chiến lược, nhưng yếu tố tranh tụng có được bao nhiêu trong cả hệ thống tố tụng hình sự, được phản ánh như thế nào trong các chế định và quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự lại là một vấn đề khác. Tuy nhiên, tư tưởng về việc thực hiện tranh tụng luôn luôn là cơ sở, là thước đo cho việc đánh giá tính hoàn thiện của các chế định pháp luật và của thực tiễn tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.

Cùng với các thành tựu đổi mới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế – xã hội theo hướng cải cách và hội nhập, tố tụng hình sự Việt Nam cũng đã từng bước đổi mới và hoàn thiện, nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tư pháp hình sự nói chung và của tố tụng hình sự nói riêng đã có nhiều chuyển biến và theo đó là sự nhận thức lại về hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự.

Việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự vào năm 2003 đã ghi nhận những chuyển biến đó. Trong số các sửa đổi, bổ sung căn bản nội dung các quy phạm và chế định của tố tụng hình sự thì sự thay đổi, bổ sung các nguyên tắc của tố tụng hình sự đã cho thấy sự chuyển hướng về chất của tố tụng hình sự nước ta. Điều đó, chắc chắn đã bắt nguồn từ những thay đổi quan trọng trong nhận thức về vai trò, tính chất, mục đích và các chức năng của tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ([3]).

Nếu căn cứ vào tên gọi của các điều luật cũng đồng thời là tiêu đề của các nguyên tắc, có thể xác định được 30 nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 hiện hành. Tuy nhiên, xem xét kỹ nội dung cụ thể của Điều 10 của Bộ luật Tố tụng hình sự sẽ thấy rằng, bên cạnh việc quy định nguyên tắc về xác định sự thật của vụ án, tại phần thứ hai của điều luật còn có một quy định quan trọng về nguyên tắc trách nhiệm chứng minh, theo đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. (Đoạn 2, Điều 10 Bộ luật TTHS) Có thể phân loại các nguyên tắc kể trên theo các nhóm sau đây:

Đó là nội dung của các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật Tố tụng hình sự: “Bảo đảm pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự”. Theo đó, mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

Yêu cầu về pháp chế trong tố tụng hình sự cũng được thể hiện rõ trong nguyên tắc được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự về việc xác định sự thật của vụ án. Theo nguyên tắc này, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Yêu cầu về việc nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật trong các hoạt động và quyết định tố tụng cũng là nội dung của nguyên tắc về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 12 Bộ luật Tố tụng hình sự), theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điều tương ứng của Bộ luật hình sự. Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự xác định trách nhiệm của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Theo nguyên tắc này, khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan nói trên, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp theo luật định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ đã được quy định tại các điều 100 và 107 của Bộ luật Tố tụng hình sự và ngoài trình tự được quy định tại Chương VIII của Bộ luật này.

Việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới, của Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án và quyết định của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp (Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự) cũng là một nguyên tắc bảo đảm pháp chế nhằm làm cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Nội dung những đòi hỏi được quy định tại Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Tòa án; quy định tại Điều 23 và thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật; Điều 27 của Bộ luật Tố tụng hình sự về phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội đều hàm chứa yêu cầu về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Như vậy, nhóm “các nguyên tắc pháp chế” có 8 nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

b) Nhóm các nguyên tắc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự

Trong nhóm này, trước hết đó là nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự. Theo đó, khi tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. Có thể nói rằng, nguyên tắc này có nội dung rất gần với đòi hỏi về pháp chế vì hàm chứa trong đó đòi hỏi về việc xem xét, đánh giá, kiểm tra tính hợp pháp của các biện pháp đã áp dụng. Tuy nhiên, mục đích của việc đặt ra nguyên tắc này là để bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong các hoạt động tố tụng hình sự mà không chỉ dừng lại ở yêu cầu về việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.

Khách thể ở đây là quyền của công dân. Cùng hướng bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự là nội dung của các nguyên tắc được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự “Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”, theo đó Bộ luật nhấn mạnh đến việc không phân biệt đối xử trong tố tụng hình sự, bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Kế đó là các nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7); nguyên tắc về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8); Nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9); Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 1l); Nguyên tắc về tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 24); Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29); Nguyên tắc bảo đám quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30). Như vậy, nhóm này bao gồm 10 nguyên tắc.

c) Nhóm các nguyên tắc về tính chất của hoạt động tố tụng hình sự

d) Nhóm các nguyên tắc về sự tham gia của nhân dân và sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước khác đối với hoạt động tố tụng hình sự

Những nguyên tắc này được coi như là những bảo đảm quan trọng cho hiệu quả hoạt động của tố tụng hình sự. Đó là: Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, theo đó, việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán (Điều 15, Bộ luật Tố tụng hình sự); Nguyên tắc về trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 25). Theo quy định của điều luật này, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác và tội phạm cho tổ chức đã báo tin người đã tố giác tội phạm biết; Nguyên tắc về sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự); Nguyên tắc về sự giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 32). Nhóm này có 4 nguyên tắc.

3.2. Nhận xét

Thứ nhất, các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam chứa đựng những tư tưởng chỉ đạo chặt chẽ cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho sự vận dụng chúng trong các hoạt động tố tụng hình sự. Tính chất đó của các nguyên tắc hoàn toàn phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của tố tụng hình sự là một loại hoạt động quyền lực, do đó, khả năng vi phạm các quy định về quyền hạn và nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền là rất lớn. Ở đây không cho phép một sự linh hoạt hoặc sự tùy nghi vượt khỏi yêu cầu của pháp luật tố tụng. Chính vì vậy, những đòi hỏi, những yêu cầu có tính nguyên tắc của pháp luật phải hết sức rõ ràng và cụ thể để tránh sự giải thích tùy tiện.

Thứ hai, cơ cấu về số lượng các nguyên tắc của tố tụng hình sự đã cho thấy sự quan tâm thích đáng của Nhà nước Việt Nam đối với yêu cầu về tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân trong quá trình tố tụng (10/31 nguyên tắc) . Điều đó phản ánh rõ nét quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam cho rằng, các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy của công dân, phải triệt để tôn trọng quyền con người, quyền công dân mà trước hết là tự do, danh dự và nhân phẩm của họ trong các hoạt động tố tụng.

Thứ ba, các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam phản ánh quan điểm của về mục đích, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống tư pháp hình sự nói chung và của tố tụng hình sự nói riêng là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, duy trì và bảo vệ công lý; xác định trách nhiệm và chức năng của các cơ quan tư pháp là “phụng công thủ pháp”, “chí công vô tư”, thực sự khách quan. Các nguyên tắc của tố tụng hình sự hiện hành Việt Nam phản ánh rõ nét tính chất pha trộn của tố tụng hình sự, trong đó tính chất chủ đạo của nó là tố tụng thẩm vấn với sự tiếp thu một số rất ít các đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng. Có thể nói rằng, đây chính là lĩnh vực của những sự tìm tòi, thể nghiệm vừa nghiêm túc, thận trọng, vừa cầu thị trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới vừa qua.

Các nỗ lực cải cách cũng như hoạt động thực tiễn của các cơ quan tư pháp hình sự ở Việt Nam trong những năm qua đã lấy những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc làm căn cứ. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành tố tụng vẫn còn nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Có nhiều nguyên nhân khác nhau của những bất cập và vướng mắc đó, trong đó phải kể đến những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà trước hết là quy định về hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Có thể nêu ba biểu hiện sau đây:

Thứ nhất, đó là sự thiếu vắng các nguyên tắc đủ khả năng phản ánh những tư tưởng, định hướng chỉ đạo quan trọng về cải cách tư pháp mà trọng tâm là cải cách hoạt động xét xử. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tố tụng hình sự đã có lý khi đề xuất kiến nghị về việc khẳng định nhận thức và quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam các nguyên tắc quan trọng và phổ biến của tố tụng hình sự như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng.

Thứ hai, đó là sự quy định tản mạn và trùng lặp về nội dung các nguyên tắc, gây khó khăn cho sự nhận thức mục đích, ý nghĩa, nội dung và cho việc áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn. Do đó, cần phải căn cứ vào nội dung của các quy định đó để sắp xếp một cách hợp lý.

Hệ thống tư pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống chỉ dựa vào các quy định của pháp luật với nguyên tắc đặc trưng là nguyên tắc pháp chế. Đòi hỏi quan trọng nhất đối với tố tụng hình sự là sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật cả về hình thức và nội dung. Ở đây không có sự lựa chọn, sự tùy nghi suy xét, tùy nghi truy tố, ở đây chứng minh không chỉ là nghĩa vụ bên buộc tội mà còn là của chính Tòa án với mục đích chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Những đòi hỏi đó là hòn đá tảng của hệ thống tư pháp thực định, theo đó, mọi kết luận đều phải dựa vào pháp luật, mọi hành vi tố tụng và quyết định tố tụng phải tuân thủ pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Giải thích của Tòa án không có giá trị là nguồn pháp lý; các quan điểm, kể cả những quan điểm phổ biến, chính thống của đa số, của các cơ quan lãnh đạo, nếu chưa được “thể chế hóa” thành các quy định của pháp luật, cũng không thể được coi là căn cứ để áp dụng pháp luật.

Việc coi các các nguyên tắc của tố tụng hình sự có tính quy phạm đồng nghĩa với sự thừa nhận có hai loại nguyên tắc: những nguyên tắc “nằm” trong pháp luật và những nguyên tắc “nằm” ngoài pháp luật. Tình trạng đó dẫn đến sự khó khăn không thể tránh khỏi đối với các cơ quan thực tiễn.

Hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự được xác lập trên cơ sở những đòi hỏi khác nhau, nhưng thống nhất với nhau về mục tiêu và chức năng của tố tụng hình sự, về hình thức và phương thức tổ chức và hoạt động của tư pháp hình sự. Sự đa dạng, sự khác biệt và sự thống nhất của các chức năng, địa vị pháp lý tố tụng tạo nên sự đa dạng, sự khác biệt và sự thống nhất cửa các nguyên tắc của tố tụng hình sự.

Trước hết nói về sự khác biệt và đa dạng của các nguyên tắc Tố tụng hình sự. Như đã nói ở trên, nguyên tắc của tố tụng hình sự đóng vai trò là phương thức, công cụ để đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Trong khi đó, mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của tố tụng hình sự không thể giống nhau, thậm chí về hình thức có lúc là “trái chiếu” với nhau mà chỉ trong tổng thể, với mục tiêu và nhiệm vụ chung thì chúng mới nhất quán được với nhau. Như đã nêu ở phần trên, Tố tụng hình sự có nhiệm vụ: “(. . .) chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội (. . .), góp phần bảo vệ chế đội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Nội dung của quy định pháp luật này phản ánh những định hướng, mục đích và nhiệm vụ khác nhau của tố tụng hình sự Việt Nam: vừa phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý để “không để lọt” tội phạm, lại vừa phải “không làm oan người vô tội”; vừa bảo vệ chế độ, lợi ích của Nhà nước, trật tự pháp luật, lại vừa bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân (đương nhiên trong đó có cả lợi ích của bị can, bị cáo trong vụ án hình sự).

Thực tế cho thấy rằng, những đòi hỏi về tổ chức và hoạt động của tư pháp hình sự, trong đó có các nguyên tắc Tố tụng hình sự không thể phát huy được hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh của nó nếu đặt chúng riêng rẽ. Mỗi nguyên tắc của TTHS phải luôn luôn được kết hợp với các đòi hỏi và nguyên tắc khác. Thực tế cũng cho thấy rằng, những tính chất của tố tụng như tố tụng xét hỏi hay tố tụng tranh tụng chỉ là những đòi hỏi lý thuyết, có tính lý tưởng mà không một hệ thống tố tụng nào có thể theo đuổi được một cách triệt để, mặc dù có thể khẳng định về tính trội của nguyên tắc này so với tính trội của nhóm các nguyên tắc khác trong từng hệ thống tố tụng hình sự.

Vì sao lại có thể có hiện tượng đó trong thực tế? Để hiểu được điều này, chúng ta phải trở lại với vấn đề về bản chất khách quan của các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Việc sử dụng nguyên tắc này hay nguyên tắc khác trong tố tụng hình sự không chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước, hay nói khác đi, đó không chỉ là quan điểm, tư tưởng chính thống của Nhà nước mà còn phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức xã hội. Trong bất kỳ lĩnh vực nào thì nhận thức xã hội cũng đều có những chiều hướng, những mức độ và gam màu khác nhau. Những đòi hỏi về một hệ thống tư pháp nói chung và hệ thống tư pháp hình sự và tố tụng hình sự nói riêng cũng có tình hình này. Chừng nào những đòi hỏi đó được kết hợp với nhau thì chừng đó các đòi hỏi, nguyên tắc đó mới tạo nên được những xung lực cần thiết để vận hành tố tụng hình sự một cách có hiệu quả. Vì vậy, một hệ thống tố tụng hình sự có hiệu quả phải được đặt trên nền tảng những nguyên tắc đa dạng, đa chiều nhưng nhất quán với nhau.

Mặt khác, như đã nói ở trên, là sản phẩm của ý thức hệ, chắc chắn rằng hệ thống các nguyên tắc luôn luôn có tính lịch sử. Tính lịch sử đó thể hiện ở chỗ, trong những giai đoạn lịch sử nhất định có tính trội của nhóm các nguyên tắc này hay nhóm các nguyên tắc khác trong mối quan hệ tương hỗ của các cặp phạm trù nguyên tắc đối lập nêu trên. Đây là một quá trình của sự phát triển mang tính lịch sử khách quan, phản ánh thực trạng của các quan điểm xã hội về nền tư pháp, đòi hỏi chung của xã hội về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp. Chẳng hạn, ở Việt Nam trong quá trình đổi mới kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền nhu cầu bức thiết của nhân dân về một nền tư pháp dân chủ, công minh đã thúc đẩy hình thành quan điểm cải cách tư pháp theo hướng nhấn mạnh yêu cầu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp và đề cao nguyên tắc tranh tụng, điều mà trước đây còn là những phạm trù mới mẻ và khá xa lạ với tố tụng hình sự nước ta. Mặt khác cũng cần nhìn nhận rõ hơn rằng, việc thừa nhận và đề cao các nguyên tắc đó mới chỉ. là điểm khởi đầu của sự việc. Thực hiện và khẳng định mạnh mẽ các nguyên tắc đó trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nhất là trong thực tiễn của tư pháp hình sự mới là bước khó khăn nhất. Điều đó càng khẳng định rõ hơn sự “đấu tranh giữa hai mặt đối lập” trong quá trình nhận thức và áp dụng các nguyên tắc của tố tụng hình sự.

Có thể thấy rằng, một hệ thống tố tụng hình sự muốn có được hiệu quả cao là một hệ thống có khá năng phản ánh và ghi nhận sự giao thoa của các nguyên tắc với sự bắt nhịp nhạy bén với khuynh hướng của nhận thức xã hội tiến bộ, phản ánh tính trội của những nguyên tắc thể hiện bản chất dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự hiện đại. Tư tưởng về sự tôn trọng quyền và tự do của các bên, về tranh tụng trong tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội phản ánh sự triệt để tôn trọng quyền con người là những tư tưởng nhân văn lớn và có tính pháp quyền cao phải được coi là những điểm trội trong hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự tiến bộ.

Trên thế giới có hai quan điểm chủ yếu về mục đích của tố tụng hình sự: mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án và mục đích công nhận sự thật pháp lý theo cách diễn đạt của các luật gia La Mã “quod non est in actua non in mun do” (“Cái không có trong hồ sơ là cái không tồn tại”). Mục đích nào sẽ đặt ra các nguyên tắc ấy. Nếu vì mục đích thứ nhất, Tố tụng hình sự phải tuân theo các nguyên tắc của mô hình tố tụng thẩm vấn, theo đó mục đích của tố tụng hình sự là đấu tranh chống tội phạm, Tố tụng hình sự thiên về hướng sử dụng quyền lực và uy thế của các cơ quan Nhà nước; coi trọng vai trò chứng minh của Tòa án, nguyên tắc bắt buộc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Nếu vì mục đích thứ hai, Tố tụng hình sự phải tuân theo các nguyên tắc của tố tụng hình sự tranh tụng, theo đó, Tố tụng hình sự không được coi chủ yếu hoạt động quyền lực mà được hình dung như sự giải quyết tranh chấp giữa một bên là Nhà nước – người đặt ra các điều cấm và một bên khác là bị can, bị cáo đã vi phạm các điều cấm đó. Đồng thời, ở đây điều đáng quan tâm nhất không phải là áp dụng luật nội dung mà là thủ tục pháp lý (“dueej process of law”), thủ tục tố tụng hình sự. Nói khác đi, mục đích của Tố tụng tranh tụng đặt ra các nguyên tắc đòi hỏi có vị trí bình đẳng của các bên tranh tụng, xác định trách nhiệm và khả năng chứng minh trong vụ án hình sự, khuyến khích cả hai phía: người buộc tội và bị cáo tìm kiếm những hình thức và khả năng khác nhau để giải quyết vụ án.

4. Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam

4.1. Hiện trạng

Theo những quy định hiện nay của Bộ luật TTHS Việt Nam thì các chức năng tố tụng chưa được xác định rõ. Ớ đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh về chức năng tố tụng và có thêm một lưu ý rằng cần phân biệt chức năng tố tụng với chức năng về mặt tổ chức của các cơ quan, thiết chế tương ứng. Chẳng hạn, Tòa án có chức năng xét xử vì đó là cơ quan xét xử duy nhất ở Việt Nam; Viện kiểm sát có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; Cơ quan điều tra có chức năng điều tra tội phạm; người bào chữa có quyền bào chữa. Chính vì theo cách hiểu về chức năng được đặt ra từ tổ chức và tính chất hoạt động của các chủ thể TTHS mà lâu nay có quan niệm về sự tồn tại trong TTHS các chức năng: Chức năng điều tra, chức năng công tố, chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, chức năng xét xử, chức năng bào chữa. Trong khi đó, trong bất kỳ một hệ thống TTHS nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra bởi tính chất của tố tụng là: Truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị can, bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và xét xử luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một loại TTHS nào. Do đó, nói chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong quá trình TTHS mà không lẫn lộn với chức năng vốn có của các thiết chế tổ chức.

Như đã nêu ở trên, tâm điểm của TTHS Việt Nam là “xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”. Do đó, toàn bộ cỗ máy các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đều hầu như hoạt động trên cùng một hướng là xác định sự thật của vụ án. Nói khác đi, có một điểm chung quyết định đối với chức năng của các chủ thể TTHS Việt Nam. Điều 10 của Bộ luật TTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Trước đó, Điều 4 của Bộ luật TTHS Việt Nam xác định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”.

Như vây, có thể thấy rằng, ba chức năng tố tụng nêu trên đều thuộc về tất cả các chủ thể và từng chủ thế đó. Trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng cho từng chủ thể tố tụng. Nếu có, thì đó cũng chỉ là sự phân biệt tương đối. Ngoài ra, Điều 13 của Bộ luật TTHS Việt Nam còn quy định rõ: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”. Theo quy định này, không chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà Tòa án cũng có chức năng khởi tố vụ án hình sự. Điều này được bổ sung bởi một số quy định khác trong Bộ luật TTHS, chẳng hạn như quy định Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án khi tại phiên tòa nếu sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn (Điêu 195); quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố (Điều 196).

Trên thực tế, Cơ quan điều tra, VKS chủ yếu thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ theo hướng buộc tội, còn trong trường hợp không phát hiện được thì đình chỉ điều tra, không truy tố. Pháp luật đặt ra yêu cầu chung đối với họ về việc bảo đảm tôn trọng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân mà không nêu đích danh là quyền và lợi ích của bị can, bị cáo – những người yếu thế nhất trong quan hệ tố tụng. Chỉ còn lại người bào chữa là chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội cho bị can, bị cáo, nhưng vị trí và khả năng tố tụng của chủ thể này lại rất hạn chế. việc không phân biệt thật rõ ràng mục đích của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ thể đó và trong tổng thể điều đó không tạo ra được động cơ và động lực thúc đẩy hiệu quả của tố tụng hình sự, nếu xét tiêu chí của hiệu quả lả xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân.

5. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam

Theo quy định pháp luật hiện hành đã nêu ở trên (Điều 10 Bộ luật TTHS), chủ thể có quyền chủ động hoàn toàn trong TTHS Việt Nam trong toàn bộ quá trình tố tụng nói chung và trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ là các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bởi vậy, bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra tập ra hồ sợ vụ án hình sự” (ĐIỀU 35 Bộ luật TTHS); khi kết thúc điều tra thì hồ sơ đó được chuyển sang VKS để quyết định truy tố (nếu phát hiện tội phạm và người phạm tội); từ khi có quyết định truy tố của VKS thì hồ sơ đó dược chuyển đến Tòa án để xét xử. Và vì mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án nên việc xét xử ở Tòa án cũng là sự tiếp tục điều tra.

Như vậy, hồ sơ là căn cứ duy nhất và hợp pháp để xét xử.

Các chứng cứ cũng hoàn toàn thuộc về quyền chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng, bởi theo quy định của Bộ luật TTHS thì “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan diều tra, VKS và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” (Điều 64). Trong toàn bộ quá trình của vụ án, các cơ quan nói trên và chỉ các cơ quan đó mà thôi mới có quyền thu thập chứng cứ thông qua thẩm quyền triệu tập những người biết về vụ án và nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án (Điều 65). Các vật chứng phải được đưa vào hồ sơ vụ án hoặc chụp ảnh, ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án.

Như vậy, trong tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam, việc xác định chứng cứ cũng như quá trình chứng minh cho thấy vai trò nổi trội và áp đảo của các cơ quan tiến hành tố tụng và vai trò bị động, yếu ớt của bị can, bị cáo, người bào chữa của họ. Hãy so sánh:

Kiểm sát viên được quyền đưa ra danh sách những người được triệu tập để xét hỏi trước Tòa và đề xuất trình xử xét hỏi. Dựa vào đó, Tòa án quyết định về người được triệu tập và trình tự xét hỏi tại phiên tòa. Kiểm sát viên đọc cáo trạng, tiến hành xét hỏi sau xét hỏi của Thẩm phán rồi thực hiện luận tội và đưa ra ý kiến cuối cùng. Việc xét hỏi được bắt đầu bởi Thẩm phán. Người bào chữa được trình bày một lần trong phần tranh luận, bị cáo nói lời cuối cùng, nếu không tính đến những trả lời đối với các câu hỏi được đặt ra. Người bào chữa không được triệu tập nhân chứng của mình, không được xét hỏi nhân chứng của mình mà chỉ có các nhân chứng do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đưa ra.

6. Về vị trí và quan hệ của các chủ thể trong TTHS Việt Nam

Những quy định của pháp luật TTHS về mục đích của TTHS, về các nguyên tắc TTHS, về các chức năng tố tụng cũng như về chứng cứ và chứng minh đã cho thấy rõ về một loại quan hệ mang tính quyết định và phụ thuộc, quyền lực và đối tượng của quyền lực mà không phải là quan hệ bình đẳng và đối trọng trong quan hệ của các chủ thể tố tụng.

Có thể nói rằng, ở giai đoạn nào cũng có những biểu hiện của đặc trưng chủ đạo đó. Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất là ở giai đoạn điều tra. Ước tính như sau: Khoảng 40% bị cáo trước khi bị đưa ra xét xử đã từng bị tạm giam, đa số trong số đó đã bị tạm giữ. Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định là không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc tạm giam đó còn có thể được gia hạn tương ứng là một lần không quá một tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai lần đối với tội phạm nghiêm trọng theo công thức không quá 2 tháng trong lần thức nhất, không quá 1 tháng trong lần thứ hai, có nghĩa tối đa là 3 tháng; mức độ tương ứng tiếp theo là 3 tháng + 2 tháng = 5 tháng; 3 lần x 4 tháng = 12 tháng. Nói khác đi, trong một khoảng thời gian dài bị cáo đã phải đối diện song phương với Điều tra viên và vì vậy số phận, việc bảo đảm quyền và lợi ích của họ hoàn toàn phụ thuộc vào Điều tra viên, chưa nói đến tính bí mật khép kín của hoạt động điều tra. Giai đoạn được coi là công bằng, công khai nhất là giai đoạn xét xử thì trừ những vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo thông thường chỉ diễn ra từ 1 – 2 ngày. Và ở đó thì, như đã nói ở trên, bị cáo và người bào chữa có vị thế hết sức thụ động với vị thế nổi trội của đại diện VKS và của chính Tòa án.

7. Về các giai đoạn trong tố tụng hình sự Việt Nam

Tố tụng hình sự Việt Nam được xác định như một hệ thống các giai đoạn thực hiện các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng mà giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn kế sau và giai đoạn kế đó là hệ quả của giai đoạn trước nó. Theo sơ đồ này, ở Việt Nam đã hình thành một quan điểm chung về các giai đoạn tố tụng gồm: Giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử sơ thẩm; giai đoạn xét xử phúc thẩm, giai đoạn thi hành bản án và quyết định của Tòa án. Việc xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực của pháp luật là những thủ tục có tính chất kiểm tra bao gồm thủ tục giám đốc thẩm: Xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án ở các giai đoạn tố tụng; thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án đã không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Tính thống nhất của các giai đoạn TTHS thể hiện ở hai yếu tố: a) tuy tố tụng được chia thành nhiều giai đoạn, nhưng hồ sơ vụ án chỉ có một và được lập từ giai đoạn điều tra vụ án; b) các giai đoạn tố tụng sau nhất thiết phải xảy ra nếu giai đoạn trước đó không bi chấm dứt bởi lý do không xác định được cơ sở của trách nhiệm hình sự.

Phần thứ Hai: Định hướng đổi mới và hoàn thiện Tố tụng hình sự Việt Nam

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và gần đây nhất là Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu tăng cường xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, dân chủ hóa các thủ tục tố tụng hình sự theo hướng tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền tố tụng bình đẳng của bị can, bị cáo và người bào chữa.

Kể từ khi có chủ trương cải cách đó đã có nhiều nỗ lực về lý luận và thực tiễn và kết quả của những nỗ lực đó cho thấy những hướng cải cách được đặt ra là đúng đắn, có tính khoa học cao và có tính cách mạng sâu sắc. Tiếp tục các nỗ lực đó việc nghiên cứu để chỉ ra được những hạn chế, bất cập của hệ thống TTHS hiện hành, đề xuất những quan điểm và phương án mới có tính khả thi đối với việc hoàn thiện TTHS Việt Nam là hết sức cần thiết.

Với ý nghĩa đó, sau khi đã xác định trên những nét chung nhất, tính chất và đặc điểm của TTHS hiện hành ở VN, báo cáo này đề xuất những định hướng và giải pháp quan điểm sau đây:

1) Về mục đích của TTHS Việt Nam

Tố tụng hình sự Việt Nam đã có lịch sử phát triển lâu dài, đã hình thành những nhận thức quan điểm tương đối đồng nhất trong lý luận và thực tiễn về mục đích của nó. Với nhận thức rõ ràng rằng, việc xác định mục đích cần đạt được của TTHS sẽ là điểm mấu chốt cho việc cải tổ hệ thống TTHS, chúng tôi cho rằng, bàn về đổi mới và hoàn thiện TTHS Việt Nam cần bắt đầu từ vấn đề mục đích của tố tụng hình sự.

Như đã đánh giá ở phần trên, Bộ luật TTHS Việt Nam xác định mục đích của TTHS quá rộng, quá chung, hầu như trùng với mục đích của cả hệ thống tư pháp hình sự. Cần đánh giá lại một cách cụ thể hơn mục đích của TTHS là xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền con người trong các hoạt động tố tụng trong hệ thống các nguyên tắc dân chủ của TTHS Việt Nam.

2) Về các nguyên tắc của TTHS

Đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và tính pháp quyền của nó, TTHS VN cần lấy các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội làm hai nguyên tắc trụ cột. Nguyên tắc tranh tụng dẫn đến sự hình thành các bên trên cơ sở xác định vị trí của các lợi ích tố tụng, từ đó tạo nên sự bình đẳng của các bên trong vị trí tố tụng. Nguyên tắc suy đoán về tội tạo ra bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong TTHS.

3) Về vị trí của các chủ thể tố tụng

Cần từ bỏ cách chia các chủ thể quan hệ tố tụng thành cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Tất cả phải đều là chủ thể các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ rang mục đích và lợi ích của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lấy lời khai người làm chứng. Cần tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra.

4) Về các chức năng tố tụng

Sự bình đẳng của các chủ thể cùng với sự phân biệt rõ hơn, độc lập hơn các chức năng tố tụng là đảm bảo quan trọng cho tính dân chủ và tính tranh tụng của TTHS. Cần nhận thức sâu hơn rằng, sự phân định chức năng tố tụng có cội nguồn không phải từ nước Anh hay nước Mỹ mà từ định hướng về cơ chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam theo Điều 2 của Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001. Theo đó, Viện kiểm sát, trong vai trò là cơ quan buộc tội, là nhân vật của hành pháp có chức năng buộc tội; Tòa án có vị trí độc lập của cơ quan tư pháp. Tòa án không thể thực hiện bất kỳ một yếu tố nào của chức năng buộc tội mà phải là thiết chế của công lý, chỗ dựa đáng tin cậy của người dân, do đó cần có vị tri vô tư, khách quan, từ bỏ vai trò quá chủ động và tích cực trong việc truy tìm sự thật vốn là công việc của các bên trong tố tụng.

5) Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự

Như vậy, theo mô hình này, vị trí và các mối quan hệ giữa các chủ thể được xác định như sau:

– Quan hệ giữa bên buộc tội và bên bị can, bị cáo là quan hệ bình đẳng, thể hiện sự bình đẳng giữa Nhà nước và cá nhân kể cả trong tố tụng hình sự (vì chỉ có Tòa án mới có thể coi một người là có tội)

– Quan hệ giữa Tòa án và Cơ quan điều tra, Công tố là quan hệ phân quyền, theo nguyên tắc về sự độc lập của Tòa án. Vì vậy hồ sơ vụ án được lập trong giai đoạn điều tra được coi chỉ là một trong những cơ sở để đánh giá đường đi của vụ án mà không phải là cơ sở duy nhất đối với Tòa án

– Quan hệ giữa Tòa án với bị cáo là quan hệ được xác định theo nguyên tắc suy đoán vô tội. Không có suy đoán vô tội thì mục đích bảo vệ quyền con người mà TTHS đặt ra không thể thực hiện được.

 [2] V.I.Lenin: Bút ký triết học. Toàn tập, T.29, NXB Tiến bộ, Mockha, tr. 179

 [3] Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lần đầu tiên xác định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – kinh nghiệm CHLB Đức” do Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ Hợp tác quốc tế về pháp luật CHLB Đức phối hợp tổ chức ngày 9-10/6/2011 tại Hà Nội,

Oan Và Sai Trong Tố Tụng Hình Sự

Vấn đề “làm oan người vô tội”, “bỏ lọt tội phạm” và “minh oan trong tố tụng hình sự” đã và đang là mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt là của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình giải 

1. Khái niệm

“Oan” không phải là một khái niệm phức tạp. Nghĩa thông thường của từ này là “bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý”1. Trên cơ sở này, khái niệm “oan” trong tố tụng hình sự (TTHS) gồm những nội dung sau: Thứ nhất, công dân bị khởi tố, tạm giam, tạm giữ nhưng sau đó cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) ra quyết  định đình chỉ điều tra vụ án, trả tự do vì hết thời hạn tạm giam, tạm giữ mà không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, hoặc người đó chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc chứng minh được hành vi  của người đó không cấu thành tội phạm (CTTP). Thứ hai, công dân đã bị truy tố ra Toà án để xét xử  nhưng Toà án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc bản án kết tội của Toà án cấp dưới bị Toà án cấp trên huỷ, tuyên bị cáo không có tội. Thứ ba, công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một tội danh nặng hơn so  với  tội  danh  trên  thực tế đã phạm và bản án đã được Toà án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn. Pháp luật các quốc  gia trên thế giới đều tiếp cận và ở một chừng mực nhất định quy định các nội dung “oan” trong TTHS. Tại Trung Quốc, các trường hợp sau được coi là oan: 1) Người bị tình nghi phạm tội bị bắt giữ nhưng chưa có dấu hiệu thực tế hoặc chưa có những chứng cứ thực tế là phạm tội. 2) Người chưa thực sự phạm tội nhưng đã bị giam giữ. 3) Người đã chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên nhưng sau đó được xét xử lại theo trình tự kiểm tra, giám sát xét xử là vô tội2. Theo Bộ luật Hình sự Cộng hoà Liên bang Nga, thì các trường hợp sau  được  coi là oan: 1) Một người rõ ràng là không có tội nhưng đã bị người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự. 2) Một người bị tình nghi phạm tội hoặc bị tố cáo là đã thực hiện hành vi phạm tội bị kiểm sát viên hoặc người  tiến hành điều tra sơ bộ truy cứu trách nhiệm hình sự trái pháp luật. 3) Một người bị bắt giữ trái pháp luật. Nhìn chung, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không đưa ra một khái niệm chung về “oan” trong TTHS, chỉ nêu các trường hợp cụ thể  được coi là oan. Thiết nghĩ đây là một cách tiếp cận hợp lý. Vì việc thừa nhận trường hợp

Tử tù Huỳnh Văn Nam không làm đơn xin ân giảm vì một mực cho rằng mình không có tội. Trong ảnh: Huỳnh Văn Nam đang ký vào biên bản lời khai trên giường bệnh khi Đoàn giám sát của Uỷ ban pháp luật, QH khoá X đến làm việc.

2.    Oan và để lọt tội phạm trong TTHS

Không làm oan người vô  tội và không để lọt tội phạm là hai mục đích cơ bản nhất của Luật TTHS Việt Nam, được quy định tại Điều 1ưBLTTHS. Hậu quả của việc làm oan người vô tội cũng nghiêm trọng như bỏ lọt tội phạm, chính vì vậy mà “đối với Toà án việc xử phạt một người không có tội cũng không đáng tha thứ và cũng nguy hiểm như bỏ lọt một kẻ phạm tội”3 Để lọt tội phạm là hiện tượng tội phạm tuy đã được thực hiện nhưng CQTHTT đã không xử lý người có hành vi phạm tội TNHS dù có đủ điều kiện theo luật định hoặc những trường hợp hành chính hoá, dân sự hoá các vụ án hình sự. Để lọt tội phạm là một trong những nguyên nhân làm gia tăng “tình hình tội phạm ẩn”4 mà các CQTHTT  đã gây nên. Hiện tượng làm oan người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm đều để lại những hậu quả vô cùng nặng nề đối với lại. Do đó, muốn khắc phục cả hai hiện tượng trên thì các CQTHTT trước hết phải thực hiện tốt công tác tiếp nhận, quản lý và xử lý tin báo tội phạm để không bỏ lọt tội phạm và hạn chế làm oan người vô tội.

3.    Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan

Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan trong TTHS là các quyết định mang tính gỡ tội, hoặc  không  xử  lý một hay một số hành vi phạm tội trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi

Nhìn chung, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không đưa ra một khái niệm chung về “oan” trong TTHS, chỉ nêu các trường hợp cụ thể được coi là oan

minh oan cho bị can, bị cáo, người bị kết   án.   Việc   xác định căn cứ này có ý nghĩa  rất  to lớn, nó vừa  biểu  hiện  cho phạm  tội  mặc  dù  theo quy định của pháp luật thì người đó phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình. Khi tội phạm xảy ra, người không có hành vi phạm tội mà lại bị truy cứu TNHS thì kẻ phạm tội thực sự sẽ thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Như vậy, làm oan người vô tội có thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, có những trường hợp bỏ lọt tội phạm không gắn liền với việc làm oan người vô tội, đó là trường hợp tội phạm do nhiều người thực hiện nhưng có  người  không  bị  truy cứu người bị oan và đối với toàn xã hội. Người bị oan phải chịu tổn thất khôn lường về vật chất và tinh thần, còn kẻ có hành vi phạm tội nhưng “được” bỏ lọt thì sau lần phạm tội thứ nhất “trót lọt”, sẽ có niềm tin ở thủ đoạn đã được áp dụng và sẽ tiếp tục thực hiện các hành vi phạm tội và như vậy cả xã hội lại  bị đe doạ bởi sự nguy hiểm của hành vi phạm tội ở dạng tiềm ẩn. Như vậy, làm oan người vô tội có thể gây ra hậu quả là để lọt tội phạm và ngược kết quả của “hành trình” minh oan (dù chưa phải  là  kết quả cuối cùng), vừa là cơ sở pháp lý để các CQTHTT khôi phục lại những thiệt hại mà người bị oan đã phải  gánh chịu. Nhìn chung, các nước đều quy định căn cứ xác định một công dân bị oan là một phán quyết của Toà án. Đây có thể là một phán quyết sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Tuy nhiên, một số nước lại chỉ nhấn mạnh việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan khi Toà phúc thẩm tuyên vô tội (hủy bản án kết tội). Theo quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp thì một người được coi là oan khi có tuyên bố của  Toà  Phá  án  rằng ngườiđó vô tội (Phòng hình sự Toà Phá án xét xử lại bản án và bản án được đưa ra xét xử đã được  Toà  Phá  án  ra quyết định huỷ bỏ và xác định sự vô tội). Tại Trung Quốc, theo quy  định  của  các  Điều 21, Điều 22 Luật Nhà nước bồi thường thiệt hại và Khoản 3 trong giải thích của Toà án nhân dân tối cao về việc Toà án nhân dân thực hiện Luật Nhà nước bồi  thường  thiệt hại thì căn cứ xác định oan chính là phán quyết của Toà án tuyên bị cáo vô tội. Theo quy định của pháp luật Nhật Bản  thì  căn  cứ  pháp  lý xác định một người bị oan là quyết định của Toà án tuyên vô tội theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc thủ tục kháng án đặc biệt. Tại Thuỵ Điển,  căn  cứ  pháp  lý  xác định  một  người  bị  oan   l quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định một người bị tạm giữ, tạm giam oan  quá  24  giờ  hoặc quyết định của Toà  án tuyên vô tội. Khác với pháp luật của một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam thừa nhận một người bị oan trong mọi giai đoạn TTHS. Đây là điểm ưu việt của pháp luật nước ta, có như vậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan mới được bảo vệ một cách triệt để. Quyết định mang tính minh oan là quyết định tố tụng đặc thù của các CQTHTT, những quyết định chứng tỏ nỗi oan khuất của một người đã được làm sáng tỏ.  Tuỳ  thuộc  vào  các giai đoạn tố tụng, các CQTHTT có thể ra một trong các quyết ịnh như: quyết định đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ vụ án vì lý do hành vi của họ không cấu thành tội phạm hoặc  họ  không  có  hành  vi phạm tội; quyết định của Toàán xác định bị cáo, người bị kết  án  không  có  tội;  quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt một cách đáng kể hoặc áp dụng điều khoản về tội danh nhẹ hơn.

Quyết định đình chỉ điều tra

Đình chỉ điều tra là việc cơ quan điều tra chấm dứt toàn  bộ  hoạt  động  điều trađối với vụ án cũng như đối với bị can khi có những căn cứ mà Luật TTHS quy định. Khoản 1, Điều 139 của Bộ luật   tố   tụng   hình   sự quyđịnh: “Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong  những  trường  hợp sau:

c)      Có một trong những căn cứ quy định tại Điều 89 Bộ luật này.

d)     Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can thực hiện tội phạm”. Tuy nhiên, không phải quyết định đình chỉđiều   tra   trong   mọi trường tội (hủy bản án kết tội). Theo quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp thì một người được coi là oan khi có tuyên bố của  Toà  Phá  án  rằng người đó vô tội (Phòng hình sự Toà Phá án xét xử lại bản án và bản án được đưa ra xét xử đã được  Toà  Phá  án  ra quyết định huỷ bỏ và xác định sự vô tội). Tại Trung Quốc, theo quy  định  của  các  Điều 21, Điều 22 Luật Nhà nước bồi thường thiệt hại và Khoản 3 trong giải thích của Toà án nhân dân tối cao về việc Toà án nhân dân thực hiện Luật Nhà nước bồi  thường  thiệt hại thì căn cứ xác định oan chính là phán quyết của Toà án tuyên bị cáo vô tội. Theo quy định của pháp luật Nhật Bản  thì  căn  cứ  pháp  lý xác định một người bị oan là quyết định của Toà án tuyên vô tội theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc thủ tục kháng án đặc biệt. Tại Thuỵ Điển,  căn  cứ  pháp  lý  xác định  một  người  bị  oan   là quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định một người bị tạm giữ, tạm giam oan  quá  24  giờ  hoặc quyết định của Toà  án tuyên vô tội. Khác với pháp luật của một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam thừa nhận một người bị oan trong mọi giai đoạn TTHS. Đây là điểm ưu việt của pháp luật nước ta, có như vậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan mới được bảo vệ một cách triệt để. Quyết định mang tính minh oan là quyết định tố tụng đặc thù của các CQTHTT, những quyết định chứng tỏ nỗi oan khuất của một người đã được làm sáng tỏ.  Tuỳ  thuộc  vào  các giai đoạn tố tụng, các CQTHTT có thể ra một trong các quyết định như: quyết định đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ vụ án vì lý do hành vi của họ không cấu thành tội phạm hoặc  họ  không  có  hành  vi phạm tội; quyết định của Toà án xác định bị cáo, người bị kết  án  không  có  tội;  quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt một cách đáng kể hoặc áp dụng điều khoản về tội danh nhẹ hơn.

 Quyết định đình chỉ vụ án

(Vì lý do hành vi của người bị buộc tội không cấu thành tội phạm hoặc  người bị buộc tội không thực hiện hành vi phạm tội). Đây là quyết định mang tính minh oan do Viện kiểm sát ban hành ở giai đoạn truy tố. Theo quy định của Điều 143b của BLTTHS thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong được ban hành vì lý do hành vi không cấu thành tội phạm mới được coi là quyết định mang tính minh oan. Còn trường hợp người bị buộc tội không thực hiện hành vi phạm  tội,  Viện  kiểm  sát có được ra quyết định đình chỉ vụ án hay không thì các điều 89,  142,  143b  của BLTTHS

không quy định rõ. Khoản 1, Điều 89 quy định Viện kiểm sát có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án nếu không có sự việc phạm tộiư tức là không có hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện. Trong thực tiễn và khoa học pháp lý thì “không có sự việc phạm tội” và “người bị buộc tội không thực hiện hành vi

phạm  tội”  là  hai người không có năng lực TNHS thực hiện…).

Thứ hai, đã hết thời hạn điều tra

“oan” và “sai” không được đồng nhất với nhau. Ta không nên dùng cụm từ “oan sai” mà chỉ sử dụng cụm từ “oan, sai” hoặc oan, sai độc lập trong những tình huống thích hợp

khái   niệm  hoàn toàn khác nhau, vì có trường hợp kẻ phạm tội đã “được” CQTHTTbỏ lọt và thay vào theo luật định mà không chứng minh được bị can thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp không chứng minh được bị can thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định đình chỉ được ban hành trong  các  trường hợp khác (đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm đã được đại xá…) không được coi là quyết định mang tính minh những căn cứ tại Điều 89ư BLTTHS, tại Điều 19 của BLHS (tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội), Điều 25 của BLHS miễn trách nhiệm hình sự) và Điều 69 của BLHS (miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên). Vẫn theo phân tích ở phần trên, thì quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát đó là người không thực hiện hành vi phạm tội lại bị truy cứu TNHS. Và như vậy, trong trường hợp này Viện kiểm sát nhân dân sẽ xử lý như thế nào đối với người không  có  hành  vi  phạm tội? Đình chỉ vụ án thì không thể được vì đã có sự việc phạm tội, có lẽ hợp lý nhất là Viện kiểm sát tự mình hoặc yêu cầu cơ quan điều tra huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can và coi quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn là quyết định mang tính minh oan.

 Bản án của Toà án xác định bị cáo, người bị kết án không có tội Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Người bị kết án là người đã bị xét xử và đã bị Toà án có thẩm quyền tuyên bản án có hiệu lực pháp luật. Chỉ Toà án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội. Việc xét xử của Toà án có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thông thường,  một  vụ  án  hình sự được đưa ra xét xử sơ thẩm là bắt buộc còn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm,  tái  thẩm thì một trong những căn cứ  quy định tại các điểm 1,2 Điều 89 (không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm) Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án. Như vậy, điều cần bàn ở đây là, cùng với việc huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại điểm 1,2 Điều 89 thì Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm có đồng thời tuyên người bị  kết án vô tội hay không? Vấn đề này pháp luật TTHS chưa quy định rõ ràng. Điều 255 của BLTTHS quy định: “Hội

đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án nếu có một trong giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm phải đồng thời tuyên  bố người bị kết án vô tội nếu có căn cứ được quy định tại các điểm 1,2 Điều 89ư BLTư THS. Vấn đề này cần được xem xét, bổ sung khi ban hành Bộ luật TTHS mới.

 Quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt một cách đáng kể hoặc áp dụng điều khoản về tội danh nhẹ hơn Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Việc xác định khung, loại  hình phạt,  loại tội danh có ý nghĩa rất lớn trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Theo quy định của BLTTHS thì việc áp dụng hay không áp dụng  biện  pháp ngăn tuỳ thuộc vào các kháng cáo, kháng nghị theo thẩm quyền luật định.

Khác với pháp luật của một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam thừa nhận một người bị oan trong mọi giai đoạn TTHS

Theo Khoản 3, Điều 198 của BLTTHS thì nếu có đủ chứng cứ xác định bị cáo không phạm tội thì Toà án phải ghi rõ trong bản án những chứng cứ xác định bị cáo vô tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền lợi, nghĩa  vụ của họ. Khoản  4, Điều 220 và Điều 223 của BLTTHS  quy  định  khi  có những căn cứ quy  định  tại Điều   89   Bộ   luật   này” và Điều 268 của BLTTHS  quy định: Hội đồng tái thẩm có quyền “huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án”. Theo chúng tôi, để được coi là quyết định mang tính minh oan thì khi ra quyết định huỷ bản án và đình  chỉ  vụ  án  Hội  đồng loại hình phạt. Vì thế, việc xác định sai tội danh, sai khung, loại hình phạt có thể dẫn đến hậu quả là áp dụng sai biện pháp ngăn chặn và như vậy đã làm oan người vô tội. Vì lẽ đó mà quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt hoặc áp dụng điều, khoản về tội danh nhẹ hơn cũng phải được coi là quyết định mang tính minh oan. Việc xác định thế nào là tội danh nhẹ hơn không phải là dễ dàng. Thông tư liên tịch số 10/TTLTưTANDTCư VKSNDTCưBNV ngày 2/1/1998; Điểm 5, Khoản II, Mục B quy định: “Tội danh nặng hơn là tội danh có mức hình phạt cao nhất cao hơn. Trong trường hợp tội danh có mức hình phạt cao nhất bằng nhau thì tội danh nặng hơn là tội danh có mức hìnhphạt   khởi   điểm   cao hơn”. phạm đều có hình phạt chính nặng nhất như nhau thì phải xem xét hình phạt chính khác nhẹ hơn. 5) Nếu hình phạt chính và mức hình phạt như nhau, thì phải xem xét quy định về hình phạt bổ sung. Oan, sai là hiện tượng tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, không những nó gây hậu quả nặng nề, trực tiếp đối với người bị oan, sai mà còn dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, gây tác hại oàn xã hội. Trong quá trình đó, phải có giải pháp đồng bộ, từ việc hoàn thiện pháp luật đến áp dụng pháp luật, từ nhận thức đến hành động của mọi người, đặc biệt là của những người tiến hành tố tụng. 

Phương Pháp Nghiên Cứu Hồ Sơ Vụ Án Hình Sự Và Áp Dụng Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự

Điều gì khiến bạn hài lòng khi chọn mua sách

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015

Nội dung chính xác.

Chất lượng bản in đảm bảo.

Giá thành hợp lý.

Sẽ ra sao nếu bạn sử dụng sách không đảm bảo chất lượng?

Bạn không có được cái nhìn chính xác về

Bạn sở hữu quyển sách có chất lượng không đảm bảo từ giấy, mực in cho đến bìa sách.

Nội dung bạn nắm không đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu và nghiên cứu của bạn.

Để không lặp lại những tình huống nêu trên các bạn có thể chọn bộ tài liệuPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 để có được những thông tin hữu ích cho mình

Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử của Tòa án là một hoạt động thường xuyên và quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm.Thực tiễn cho thấy chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự.Theo đó nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học thì sẽ nâng cao được chất lượng giải quyết vụ án, ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự được thực hiện qua loa, sơ sài thì chất lượng giải quyết vụ án không cao, có thể dẫn đến làm gia tăng tỷ lệ án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn là làm oan sai người vô tội.Chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phụ thuộc nhiều vào kỹ năng, phương pháp nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán, Hội thẩm, theo đó nếu người nghiên cứu có kỹ năng nghiên cứu tốt và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu thì chất lượng nghiên cứu sẽ được nâng cao.

Bên cạnh đó công tác áp dụng pháp luật hình sự nói chung và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nói riêng cũng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.

Do đó việc nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ hồ sơ vụ án hình sự cũng như áp dụng đúng và chính xác pháp luật về hình sự nói chung, Bộ luật tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự.

Nhằm giáp bạn đọc nói chung, những người làm công tác xét xử nói riêng, nâng cao được kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cũng như nâng cao được chất lượng công tác giải quyết vụ án hình sự, Nhà xuất bản Lao Động xuất bản cuốn sách

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015

(Biên soạn theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và văn bản mới nhất) ” do Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp là người có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác xét xử án hình sự biên soạn.

Nội dung cuốn sách gồm những phần chính sau đây:

Phần II. BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 (CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH TỪ NGÀY 01-07-2016).

Phần III. CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 (CÒN HIỆU LỰC THI HÀNH).

Phần IV. CÁC VĂN BẢN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP.

Hy vọng cuốn sách sẽ có giá trị hữu ích đối với bạn đọc.

Sách đẹp, khổ 20*28 cm, dày 584 trang, Giá: 470.000đ. Nộp lưu chiểu quý II/ 2016.

Sách là nguồn kiến thức vô tận

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015

TRUNG TÂM SÁCH LUẬT VIỆT

Về Chế Định Điều Tra Tội Phạm Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Nhã – Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội

1.   Chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự

Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu, giữ vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự (TTHS). Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng. Đặt giai đoạn điều tra trong mối quan hệ với các hoạt động tố tụng khác, người viết bài này đã từng đề nghị nên chia TTHS thành 3 giai đoạn chính, theo đó xây dựng 3 đạo luật riêng biệt là: Luật Điều tra hình sự, Luật Xét xử hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Đạo luật điều tra hình sự sẽ xác định rõ nguyên tắc điều tra, phân định thẩm quyền điều tra, quyền và nghĩa vụ điều tra của các chủ thể tiến hành điều tra, các biện pháp điều tra và biện pháp ngăn chặn… Những nội dung này hiện đang được quy định rải rác trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự.

Để đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, có rất nhiều nội dung cần được bàn thảo. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập sâu ở khía cạnh tổ chức điều tra thông qua việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa các chủ thể mà không đề cập đến các nội dung khác như biện pháp điều tra, biện pháp ngăn chặn, kiểm sát điều tra, các thời hạn trong điều tra, người bị tình nghi phạm tội, bị can, người bào chữa…

2.   Nhận thức chung về Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự

Điều tra tội phạm là hoạt động hành chính – tư pháp, do các chủ thể thuộc hệ thống hành pháp thực hiện. Đó là một loạt các cơ quan khác nhau với nhiều tên gọi khác nhau, để cho thuận tiện, người ta dùng chung khái niệm: Cơ quan điều tra (CQĐT) trong TTHS.

Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 110 BLTTHS và được cụ thể hoá ở Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự. Theo đó, CQĐT được tổ chức trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là một phả hệ tổ chức phức tạp, xét cả về chiều dọc lẫn chiều ngang(1).

Việc phân định thẩm quyền điều tra cho từng loại, và trong mỗi loại là theo cấp điều tra lại càng phức tạp hơn. Có thể nói rằng, tính rành mạch, khoa học trong tổ chức CQĐT và phân chia thẩm quyền điều tra giữa các cơ quan này trong TTHS hiện hành còn ở mức rất tương đối.

Bàn về CQĐT trong TTHS mà không đề cập đến một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây xin được gọi tắt là: Cơ quan khác) thì thật thiếu sót. Cho tới ngày hôm nay, các nhà lập pháp vẫn chưa tìm ra một tên gọi rõ ràng, khả dĩ cho Cơ quan khác này, bởi vì, đây chỉ là một loạt các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (dù một số không ít thuộc lực lượng vũ trang nhân dân) được giao thêm nhiệm vụ tham gia điều tra tố tụng (2).

Với đội ngũ hùng hậu các Cơ quan khác được tổ chức như hiện nay, khó có thể đưa ra kết luận: Vậy thì ai, CQĐT hay Cơ quan khác giữ vai trò chủ đạo trong điều tra hình sự nói chung và trong điều tra tố tụng hình sự nói riêng. Nhiều ý kiến cho rằng, với đội ngũ đông đảo, lại nắm hai loại quyền năng quan trọng là quyền năng quản lý hành chính nhà nước và quyền năng tố tụng hình sự nên thực tế Cơ quan khác đang giữ thế thượng phong trong phát hiện, ngăn chặn và điều tra tội phạm.

Cơ quan khác điều tra tội phạm chủ yếu thông qua hoạt động nghiệp vụ đa dạng của mình. Hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện, làm rõ hành vi có dấu hiệu tội phạm xét cho cùng cũng là hoạt động điều tra hình sự. Bắt đầu từ đây đã xuất hiện hai cụm từ “điều tra hình sự” và “điều tra tố tụng hình sự”, và chúng tôi cho rằng, chừng nào, chúng ta còn chưa phân biệt rạch ròi khái niệm, ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa pháp lý của chúng thi mãi mãi chúng ta còn tiếp tục lúng túng tìm lối thoát cho việc quy định thẩm quyền điều tra nói chung và thẩm quyền điều tra tổ tụng hình sự nói riêng của CQĐT và Cơ quan khác trong tham gia điều tra.

Điều tra phát hiện, tìm chứng cứ buộc tội là chức năng duy nhất và riêng có của CQĐT. Cơ quan điều tra do pháp luật TTHS sinh ra, điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS. Dĩ nhiên, để củng cố thêm các chứng cứ buộc tội, cơ quan này có thể thu thập thêm thông tin ngoài tố tụng, nhưng đó không là chửng cứ và là công việc thứ yếu của CQĐT. Vì vậy, để dễ phân biệt với các cơ quan tham gia điều tra phát hiện tội phạm, đặc biệt là các cơ quan phát hiện, ngăn chặn tội phạm bằng biện pháp nghiệp vụ, biện pháp trinh sát (tình báo), chúng tôi cho rằng, CQĐT trong TTHS chính là cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS, là CQĐT tố tụng hình sự.

Cơ quan khác cũng điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS. Tuy nhiên, Cơ quan khác, như đã nêu, chỉ điều tra ở mức độ giới hạn, mức độ “điều tra ban đầu”. Đặc biệt, đối với nhóm Cơ quan khác trong Công an nhân dân (CAND) thì đa số họ là cơ quan trinh sát, điều tra phát hiện và ngăn chặn tội phạm chủ yểu bằng biện pháp trinh sát. Do việc điều tra theo luật TTHS đối với Cơ quan khác chỉ là thứ yếu, nên để phân biệt với cơ quan chuyên trách, Cơ quan khác nên gọi chung là: Cơ quan tham gia điều tra TTHS.

Cũng cần lưu ý thêm rằng, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngoài hai nhóm cơ quan kể trên, còn có nhiều cơ quan quản lý hành chính nhà nước, bằng hoạt động nghiệp vụ của minh, cũng trực tiếp phát hiện, ngăn chặn tội phạm. Các cơ quan như Cảnh sát giao thông; Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy; cơ quan thanh tra; thuế… thực chất cũng không khác mấy so với đội ngũ đông đảo Cơ quan khác, vấn đề đang đặt ra là tại sao các cơ quan này lại chưa được giao tham gia điều tra tội phạm?

Phân biệt CQĐT với Cơ quan khác, bên cạnh tiêu chí chủ yếu là giới hạn thẩm quyền điều tra, còn là các yếu tố tổ chức và phân chia quyền năng tố tụng trong nội bộ cơ quan. Chẳng hạn, nếu như quyền năng tố tụng trong CQĐT được phân chia cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên thì ở Cơ quan khác, quyền năng tố tụng chỉ tập trung vào mỗi người đứng đầu (và cấp phó được uỷ quyền của họ).

3.   Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra

Về hệ thống CQĐTtrong TTHS: Với cách bố trí thành hai loại, trong mỗi loại lại có từng hệ độc lập với nhau như hiện nay, rõ ràng CQĐT chuyên trách và cơ quan tham gia điều tra là những tập hợp đa hệ, khó có thể có sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và càng khó có sự gắn kết cần thiết với nhau. Từ thực tế này, lâu nay đã có nhiều đề xuất, thậm chí là đã hình thành dự án theo hướng tập hợp các CQĐT thành một hệ thống độc lập, song song tồn tại cùng cơ quan Viện kiểm sát (VKS) và Toà án.

Tuy thấy rõ những bất cập từ cách tổ chức đa hệ của CQĐT và Cơ quan khác, song thật khó đồng tình với ý tưởng sáp nhập tất cả cơ quan điều tra trong TTHS thành một hệ thống. Điều này không phù hợp với cách thức tổ chức hệ thống dựa vào khả năng chuyên môn hoá trong lĩnh vực hành pháp. Mà cơ quan điều tra các loại, xét cho cùng lại là cơ quan hành pháp. Bên cạnh đó, ngay cả người đề ra dự án cũng chưa chứng minh được tính vượt trội hay là hiệu quả kinh tế – xã hội tối ưu do việc sáp nhập cơ quan điều tra mang lại…

Việc phân chia thẩm quyền điều tra giữa các hệ, trong cùng một hệ (cấp trên, cấp dưới) còn thiếu hợp lý, đang làm nảy sinh tình trạng chồng lấn thẩm quyền hoặc đùn đẩy nhau, tranh công, đổ lỗi. Cần lưu ý thêm là tình trạng chồng lấn thẩm quyền cũng tồn tại giữa một bên là các CQĐT, còn bên kia là cơ quan kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Theo quy định tại Điều 112 BLTTHS thì khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra, khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS… Những thẩm quyền này thực chất là thẩm quyền điều tra và điều này lý giải vì sao có người cho rằng điều tra và công tố thực chất là một.

Việc phân chia giai đoạn điều tra thành hai phân đoạn: Điều tra ban đầu do Cơ quan khác đảm nhiệm và Điều tra kết thúc do CQĐT đảm nhiệm cũng chưa thật hợp lý, nhiều trường hợp gây lãng phí về thời gian và nhân lực.

Chủ thể hoạt động điều tra: Theo pháp luật hiện hành bao gồm CQĐT là cơ quan tố tụng và Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên là người tiến hành tố tụng (Điều 33 BLTTHS).

Đối với chủ thể tố tụng là CQĐT, điều đáng lưu ý là quyền năng tố tụng của cơ quan này đã được phân chia cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng và Điều tra viên. Trong trường hợp này, hầu như quyền năng tố tụng của CQĐT đã không còn, và do vậy, việc xác định CQĐT là cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) đã trở nên hình thức.

Đối với Cơ quan khác, mặc dù cũng được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, nghĩa là cũng được giao quyền năng tố tụng hình sự, nhưng cho đến nay, Cơ quan khác và người đứng đầu của cơ quan này vẫn chưa được thừa nhận là cơ quan THTT và người THTT. Chính việc chưa thừa nhận này đã kéo theo nhiều hệ lụy mà rõ nhất là khó xác định trách nhiệm pháp lý tố tụng, trách nhiệm hình sự của những người này khi vi phạm tố tụng đến mức hình sự.

Về những người trực tiếp tham gia vào hoạt động điều tra: Hiện nay, lực lượng làm công tác điều tra có khoảng 30.000 cán bộ, trong đó có khoảng 13.000 Điều tra viên. Riêng lực lượng điều tra trong CAND có hơn 29.000 cán bộ với hơn 12.500 Điều tra viên. Bên cạnh đại đa số Điều tra viên, cán bộ điều tra tận tụy trong công tác, gương mẫu, liêm khiết, chấp hành đúng pháp luật thì vẫn còn một số không nhỏ chưa thực hiện tốt vai trò của người cán bộ điều tra tội phạm, thậm chí vi phạm pháp luật tố tụng. Tình trạng này đòi hỏi phải xem xét lại không chỉ việc phân định thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, việc chỉ huy, chỉ đạo điều tra mà còn là tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm và miễn nhiệm Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, người đứng đầu Cơ quan khác…

4.   Phương án đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự

Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của CQĐT được thể chế hóa trong pháp luật TTHS, cụ thể hơn là ở trong BLTTHS và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự hiện hành. Việc Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13 Dự án Luật Tổ chức điều tra hình sự đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS đang đặt ra vấn đề là nội dung nào về chế định điều tra thì đưa vào BLTTHS, còn nội dung nào thì đưa vào Luật Tổ chức điều tra hình sự. Theo tôi, một khi đã có đạo luật riêng về điều tra tội phạm thì phương án tối ưu là tập trung tất cả những quy định về điều tra tố tụng vào đó, theo đúng mô hình đạo luật về thi hành án hình sự. Trong trường hợp đó, BLTTHS chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động xét xử. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp: Coi xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp.

Đương nhiên, người nêu kiến nghị này cho rằng, ý kiến về xây dựng một đạo luật riêng về điều tra hình sự dẫu hợp lý cũng khó mà được chấp nhận trong bối cảnh hiện nay. Vậy nên, tiếp theo đây, tôi sẽ trao đổi ý kiến theo hướng sửa đổi, bổ sung mô hình điều tra đã được quy định trong BLTTHS.

Thứ hai, vấn đề đầu tiên là thay đổi quan niệm và từ đó sửa đổi quy định về chủ thể điều tra tố tụng. Nếu dừng lại ở quan niệm chủ thể điều tra tố tụng là người được pháp luật giao quyền hạn và trách nhiệm cụ thể trong điều tra tội phạm thì các chủ thể này, theo tôi, chỉ nên là: Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; người đứng đầu Cơ quan khác; Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.

Đưa CQĐT ra ngoài danh sách chủ thể điều tra tội phạm, bởi lẽ mặc dù BLTTHS xác định cơ quan này là cơ quan tố tụng, song thực chất quyền và nghĩa vụ tố tụng dường như đã phân chia hết cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng và Điều tra viên, về mặt tố tụng, CQĐT chỉ còn là danh nghĩa và Thủ trưởng CQĐT chính là người đứng đầu tập thể Điều tra viên.

Tôi cũng không đồng tình khi quy định chức danh cấp phó trong BLTTHS là chủ thể độc lập, người tiến hành tố tụng, cấp phó chỉ nên là người thay mặt cấp trường và không cần thiết phải có quyền và nghĩa vụ TTHS riêng. Khi tiến hành tố tụng, cấp phó nên lấy danh nghĩa Điều tra viên.

Thứ ba, đã đến lúc cần xác định vai trò độc lập của Điều tra viên trong điều tra như Thầm phán trong xét xử và Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm sát Có thể giao quyền và nghĩa vụ tố tụng cho Điều tra viên khi người này được giao điều tra vụ án tương đương quyền và nghĩa vụ tố tụng của Thủ trưởng CQĐT khi trực tiếp tiến hành điều tra quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTHS hiện hành. Theo đó, Điều tra viên khi được phân công điều tra vụ án được: Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định không khỏi tố vụ án; quyết định tách hoặc nhập vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng; quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi; kết luận điều tra vụ án; quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra; trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật…

Điều tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Thủ trưởng CQĐT tuy có quyền phân công và thay đổi Điều tra viên, nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động tố tụng của Điều tra viên.

Trường hợp nhiều Điều tra viên cùng tham gia điều tra vụ án thì Thủ trưởng CQĐT chỉ định một Điều tra viên phụ trách. Điều tra viên này sẽ điều hành việc điều tra và ký các văn bản tố tụng.

-         Cho phép một số cơ quan khác như Cơ quan thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, lực lượng kiểm ngư… cũng được quyền tiến hành điều tra ban đầu những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm thuộc lĩnh vực quản lý của mình.

-         Mở rộng thẩm quyền TTHS cho một số Cơ quan khác đến mức tự tiến hành một số hoạt động điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS để quyết định việc truy tố. Có thể đưa ra quy định là Cơ quan khác, đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn thì được quyền tiến hành điều tra trong thời hạn không quá 30 ngày và chuyển kết luận điều tra cho VKS để quyết định việc truy tố.

-         Đối với Cơ quan khác, vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Công tố viên) là hết sức quan trọng. Không chỉ là chỉ đạo, hướng dẫn Cơ quan khác trong hoạt động điều tra, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra còn là người điều phối, quyết định đường hướng điều tra tiếp theo. Ví dụ: Sau khi tiếp nhận kết quả điều tra và kết luận điều tra của Cơ quan khác chuyển đến, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có quyền: Ra quyết định truy tố; trả hồ sơ cho Cơ quan khác để điều tra bổ sung; chuyển hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra theo thẩm quyền; tự mình tiến hành điều tra bổ sung; đình chỉ điều tra vụ án.

Thứ năm, đối với Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Công tố viên), tôi đề nghị giao quyền và nghĩa vụ tố tụng cho chủ thể này không kém hơn quyền năng tố tụng của Thủ trưởng CQĐT. Và từ đó, sẽ không cần thành lập thêm bất cứ cơ quan điều tra nào trong Viện kiểm sát. Kiểm sát viên – công tố vừa có quyền tự mình tiến hành điều tra, được sử dụng mọi thầm quyền điều tra mà pháp luật TTHS trao cho Thủ trường CQĐT và Điều tra viên. Hơn thế nữa, với tư cách là người thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên – công tố còn có quyền yêu cầu Thủ trường CQĐT, Điều tra viên, Người đứng đầu Cơ quan khác tiến hành điều tra, cung cấp chứng cứ cần thiết. Và như vậy, có thể nói Kiểm sát viên – công tố là chủ thể hàng đầu trong giai đoạn điều tra và là chủ thể điều phối, chỉ đạo điều tra.

-        Cần phân biệt hoạt động công tố với hoạt động kiểm sát. Hai hoạt động này là khác nhau không chỉ về ý nghĩa tồn tại, về mục đích mà còn về chủ thể thực hiện.

-        Hoạt động công tố là hoạt động độc lập, gắn với điều tra thu thập chứng cứ, nặng về hành pháp nên cũng cần được kiểm sát.

-         Công tố trong điều tra phải gắn với công tố trong xét xử. Do đó, Kiểm sát viên – công tố trong giai đoạn điều tra phải là người tiếp tục giữ vai trò công tố trong giai đoạn xét xử.

-         Do hoạt động công tố là đối tượng kiểm sát nên Kiểm sát viên – công tố không được tham gia hoạt động kiểm sát. Những Kiểm sát viên khác (không tham gia hoạt động công tố) sẽ tiến hành hoạt động kiểm sát, kể cả kiểm sát hành vi tố tụng của Kiểm sát viên – công tố.

-         Cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên – công tố là một chức danh tố tụng hình sự nên họ phải độc lập chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định tố tụng của mình (khác với quy định tại khoản 2 Điều 37 BLTTHS là Kiểm sát viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng VKS về những hành vi và quyết định của minh).

Thứ bảy, bên cạnh việc phân định thẩm quyền tố tụng cho các chủ thể tiến hành điều tra mà thực chất là quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chức danh: Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, người đứng đầu Cơ quan khác, Kiểm sát viên – công tố, vấn đề quan trọng không kém là phân định thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra khác hệ, trong cùng hệ và giữa CQĐT và Cơ quan khác, giữa các Cơ quan khác với nhau. Ngoài ra, ngay trong cùng một hệ CQĐT và Cơ quan khác, việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa cấp trên và cấp dưới, việc chuyển giao vụ án, rút vụ án lên để điều tra… cũng còn tồn tại nhiều bất hợp lý, cần sớm được giải quyết.

Đề xuất xây dựng CQĐT với hạt nhân là Điều tra viên (mà thực chất là tương tự CQĐT dự thẩm ở một số nước) như đã nêu, nhiều vấn đề về thẩm quyền điều tra sẽ được giải quyết, về danh nghĩa, chúng ta vẫn có Cơ quan An ninh điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Công an nhân dân, CQĐT an ninh, CQĐT hình sự trong Quân đội nhân dân. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ không còn CQĐT và thay vào đó, theo tôi, nên thành lập các Viện công tố thuộc VKS. Cũng như ở CQĐT, nhân vật trung tâm trong Viện công tố sẽ là các Công tố viên. Trong trường hợp này, chính Viện công tố và các Công tố viên sẽ là người điều hòa, tập trung và chỉ đạo điều tra.

Khi đã có Cơ quan công tố độc lập thuộc VKS thì các mối quan hệ tố tụng hiện nay giữa Cơ quan khác với CQĐT sẽ chuyển thành quan hệ giữa Cơ quan khác với Cơ quan công tố. Các Công tố viên sẽ cùng cộng tác, chỉ đạo và cùng chịu trách nhiệm về kết quả điều tra không chỉ với CQĐT mà cả với Cơ quan khác. Dĩ nhiên, như đã nêu, hoạt động điều tra, hoạt động điều hoà, chỉ đạo điều tra của Viện công tố và của Công tố viên cũng chịu sự kiểm sát điều tra của VKS hữu quan.

(l) Xem Điều 110 BLTTHS.

(2) Xem Điều 111 BLTTHS.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tổng Quan Về Mô Hình Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Thực Trạng Và Phương Hướng Hoàn Thiện trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!