Xu Hướng 12/2023 # Tổng Quan Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tổng Quan Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Quản lý nhà nước về kinh tế là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực Nhà nước thông qua cơ chế quản lý kinh tế nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước với tư cách là tổng thể các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về kinh tế

Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý vĩ mô nền kinh tế

Nhiệm vụ chủ yếu quản lý vĩ mô nền kinh tế là đảm bảo cân đối cơ bản trên bình diện tổng thể nền kinh tế tạo ra môi trường thuận lợi, nhiều cơ hội cho các chủ thể kinh tế trên thị trường đặc biệt là các doanh nghiệp, dẫn dắt nền kinh tế quốc dân phát triển liên tục với tốc độ cao và lành mạnh.

Chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước về kinh tế vĩ mô là vạch ra các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và các chính sách kinh tế đồng bộ. Trên bình diện tổng thể, Nhà nước vừa phải điều tiết vĩ mô đối với các doanh nghiệp, vừa phải phục vụ các doanh nghiệp trên nhiều mặt, thực hiện sự thống nhất hưu cơ giữa vi mô và vĩ mô.

Quản lý nhà nước về kinh tế mang tính quyền lực nhà nước

Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý của Nhà nước đối với hệ thống kinh tế quốc dân, của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, của chính quyền đối với nền kinh tế quốc dân.

Quản lý Nhà nước về kinh tế mang tính quyền lực nhà nước có nghĩa là một mặt, quản lý này lệ thuộc vào chính trị, xuất phát từ chỗ, Nhà nước là bộ phận trung tâm trong hệ thống chính trị xã hội, là công cụ đặc biệt để thực hiện quyền lực chính trị (lập pháp, hành pháp và tư pháp) của giai cấp thống trị đối với giai cấp khác và xã hội. Mặt khác, quản lý này mang tính pháp quyền và thực hiện theo nguyên tắc pháp chế.

Mục tiêu phát triển lấy hiệu quả kinh tế – xã hội là chính

Xuất phát từ hai đặc điểm trên, mục tiêu đặt ra trong quản lý nhà nước về kinh tế là mục tiêu kinh tế – xã hội, mục tiêu này được thể hiện ở mục tiêu tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân bền vững. Hiệu quả kinh tế – xã hội được xem như là tiêu chuẩn để đạt được mục tiêu trên.

Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.

Tính khoa học nằm ở chỗ, các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng.

Còn tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ, các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra.

Quản lý kinh tế có hiệu nhất khi nhà quản lý biết lựa chọn đúng đắn phương pháp quản lý và biết kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý đó vào từng trường hợp, từng đối tượng, từng giai đoạn của nền kinh tế. Đó chính là tài nghệ quản lý của nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.

Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm:

Các phương pháp hành chính

Các phương pháp kinh tế

Các phương pháp giáo dục

Vận dụng tổng hợp các phương pháp quản ký kinh tế của Nhà nước

Nghệ thuật quản lý kinh tế của nhà nước

4. Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế

Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của mình nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế.

4.1. Nhóm công cụ thể hiện mục tiêu quản lý 4.1.1. Đường lối phát triển kinh tế – xã hội

Là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do Đảng cầm quyền của quốc gia xây dựng và thực hiện. Đó là việc xác định trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt đến, sau đó căn cứ vào thực trang của nền kinh tế để tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn tiến hành để đạt được cái đích đó;

Đường lối phát triển kinh tế – xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh, công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường, là tổn thất, đổ vỡ, suy thoái, là hậu quả khôn lương về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế – xã hội trong một thời gian đủ dài. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là sự cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế – xã hội, và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng.

4.1.3. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội

Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là việc định hướng phát triển kinh tế dài hạn, trong đó xác định rõ quy mô và giới hạn cho sự phát triển. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dựa án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả.

Thực chất của quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về không gian và thời gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch ngành.

4.1.4. Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội

Kế hoạch là cụ thể hoá chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lớn.. Các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế.

4.1.5. Chương trình phát triên kinh tế – xã hội

Chương trình phát triển kinh tế – xã hội là tổng hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ: chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc..

Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kỳ và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả.

4.2. Nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật.

Pháp luật kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế.

Chính sách phát triển các thành phần kinh tế;

Chính sách tài chính với công cụ chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế;

Chính sách tiền tệ với công cụ kiểm soát mức cung tiền và lãi suất;

Chính sách thu nhập với các công cụ giá cả và tiền lương;

Chính sách ngoại thương với các công cụ thuế nhập khẩu, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái.

4.4. Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý

Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa. ;

Tài nguyên trong lòng đất;

Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia;

Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp;

Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước.

4.5. Nhóm công cụ đê sử dụng các công cụ trên

Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình ở trên là các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đó chính là các cơ quan hành chính nhà nước, các công sở và các phương tinh kinh tế – kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.

Bài viết trên đã cung cấp những thông tin chi tiết các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Hi vọng rằng bạn đọc đã có được cái nhìn tổng quan về vấn đề này. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào hãy liên hệ với dịch vụ tư vấn làm luận văn thuê của chúng tôi theo hotline: 0915 686 999 hoặc email qua địa chỉ: [email protected] để được tư vấn và giải đáp.

Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế

Quản lý nhà nước về kinh tế là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực Nhà nước thông qua cơ chế quản lý kinh tế nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước với tư cách là tổng thể các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Đặc điểm của quản lý nhà nước về kinh tế

Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý vĩ mô nền kinh tế

Nhiệm vụ chủ yếu quản lý vĩ mô nền kinh tế là đảm bảo cân đối cơ bản trên bình diện tổng thể nền kinh tế tạo ra môi trường thuận lợi, nhiều cơ hội cho các chủ thể kinh tế trên thị trường đặc biệt là các doanh nghiệp, dẫn dắt nền kinh tế quốc dân phát triển liên tục với tốc độ cao và lành mạnh.

Chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước về kinh tế vĩ mô là vạch ra các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và các chính sách kinh tế đồng bộ. Trên bình diện tổng thể, Nhà nước vừa phải điều tiết vĩ mô đối với các doanh nghiệp, vừa phải phục vụ các doanh nghiệp trên nhiều mặt, thực hiện sự thống nhất hưu cơ giữa vi mô và vĩ mô.

Quản lý nhà nước về kinh tế mang tính quyền lực nhà nước

Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý đối với hệ thống kinh tế quốc dân, của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, của chính quyền đối với nền kinh tế quốc dân.

Quản lý Nhà nước về kinh tế mang tính quyền lực nhà nước có nghĩa là một mặt, quản lý này lệ thuộc vào chính trị, xuất phát từ chỗ, Nhà nước là bộ phận trung tâm trong hệ thống chính trị xã hội, là công cụ đặc biệt để thực hiện quyền lực chính trị (lập pháp, hành pháp và tư pháp) của giai cấp thống trị đối với giai cấp khác và xã hội. Mặt khác, quản lý này mang tính pháp quyền và thực hiện theo nguyên tắc pháp chế.

Quản lý nhà nước về kinh tế nhằm mục tiêu phát triển lấy hiệu quả kinh tế – xã hội là chính

Xuất phát từ hai đặc điểm trên, mục tiêu đặt ra trong quản lý nhà nước về kinh tế là mục tiêu kinh tế – xã hội, mục tiêu này được thể hiện ở mục tiêu tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân bền vững. Hiệu quả kinh tế – xã hội được xem như là tiêu chuẩn để đạt được mục tiêu trên.

Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , hỗ trợ spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê , nhận làm bài tập thuê

Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế

Các phương pháp này vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.

Tính khoa học nằm ở chỗ, các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng.

Còn tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ, các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra.

Quản lý kinh tế có hiệu nhất khi nhà quản lý biết lựa chọn đúng đắn phương pháp quản lý và biết kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý đó vào từng trường hợp, từng đối tượng, từng giai đoạn của nền kinh tế. Đó chính là tài nghệ quản lý của nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.

Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm: (i) Các phương pháp hành chính, (ii) Các phương pháp kinh tế, (iii) Các phương pháp giáo dục, (iv) Vận dụng tổng hợp các phương pháp quản ký kinh tế của Nhà nước, (v) Nghệ thuật quản lý kinh tế của nhà nước

Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế

Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của mình nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế.

Nhóm công cụ thê hiện mục tiêu quản lý

(i) Đường lối phát triên kinh tế – xã hội

Là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do Đảng cầm quyền của quốc gia xây dựng và thực hiện. Đó là việc xác định trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt đến, sau đó căn cứ vào thực trang của nền kinh tế để tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn tiến hành để đạt được cái đích đó;

Đường lối phát triển kinh tế – xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh, công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường, là tổn thất, đổ vỡ, suy thoái, là hậu quả khôn lương về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội.

(ii) Chiến lược phát triên kinh tế – xã hội Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế – xã hội trong một thời gian đủ dài. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là sự cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế – xã hội, và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng.

(iii) Quy hoạch phát triên kinh tế – xã hội Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là việc định hướng phát triển kinh tế dài hạn, trong đó xác định rõ quy mô và giới hạn cho sự phát triển. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dựa án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả.

Thực chất của quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về không gian và thời gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoach ngành.

(iv) Kế hoạch phát triên kinh tế – xã hội Kế hoạch là cụ thể hoá chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lớn.. Các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế.

(v) Chương trình phát triên kinh tế – xã hội Chương trình phát triển kinh tế – xã hội là tổng hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ: chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc..

Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kỳ và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả.

Nhóm công cụ thê hiện chuân mực xử sự hành vi của các chủ thê tham gia hoạt động trong nền kinh tế

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật.

Pháp luật kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế.

Nhóm công cụ thê hiện tư tưởng, quan điêm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế

Nhóm này bao gồm: (i) Chính sách phát triển các thành phần kinh tế; (ii) Chính sách tài chính với công cụ chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế; (iii) Chính sách tiền tệ với công cụ kiểm soát mức cung tiền và lãi suất; (iv) Chính sách thu nhập với các công cụ giá cả và tiền lương; (v) Chính sách ngoại thương với các công cụ thuế nhập khẩu, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái.

Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý

Nhóm này bao gồm: (i) Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa, (ii) Tài nguyên trong lòng đất; (iii) Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia; (iv) Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp; (v) Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước.

Nhóm công cụ đê sử dụng các công cụ trên

Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình ở trên là các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đó chính là các cơ quan hành chính nhà nước, các công sở và các phương tinh kinh tế – kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết trong lĩnh vực pháp luật dân sự được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

Câu 7: Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế

Câu 7: Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế

Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức và biện pháp quản lý có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hoạt động quản lý kinh tế, Nhà nước có thể và cần phải thực hiện đồng thời 3 phương pháp chủ yếu sau:

1.1. Phương pháp cưỡng chế (phương pháp hành chính)

1.1.1. Khái niệm và đặc điêm

Phương pháp cưỡng chế là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông qua quyết định dứt khoát và có tính bắt buộc trong khuôn khổ pháp luật lên các chủ thể kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.

Phương pháp này mang tính bắt buộc và tính quyền lực. Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tác động, nếu vi phạm sẽ bị xử lý. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động theo đúng thẩm quyền của mình.

Thực chất của cưỡng chế là dùng sự thiệt hại làm áp lực để buộc đối tượng phải tuân thủ theo mục tiêu quản lý của Nhà nước. Khi cưỡng chế, Nhà nước đưa ra thiệt hại để làm cái khiến cho đối tượng quản lý vì sợ thiệt hại đến mình mà phải theo Nhà nước.

1.1.2. Hướng tác động (Cách thức tác động)

– Tác động về mặt tổ chức: Nhà nước xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia vào hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về mặt tổ chức hoạt động của các chủ thể kinh tế và những quy định về mặt thủ tục hành chính buộc tất cả các chủ thể từ cơ quan nhà nước đến các doanh nghiệp đều phải tuân thủ;

– Tác động điều chỉnh hành động, hành vi của các chủ thể kinh tế là những tác động bắt buộc của Nhà nước lên quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu quản lý của Nhà nước.

1.1.3. Trường hợp áp dụng

Phương pháp cưỡng chế được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi mà hậu quả của nó có thể gây thiệt hại cho cộng đồng, cho Nhà nước. Trong trường hợp đó, Nhà nước phải thực hiện cưỡng chế để hành vi chỉ diễn ra theo một hướng nhất định trong khuôn khổ chính sách, pháp luật.

Ví dụ: những đơn vị nào sản xuất hàng nhái, hàng giả bị Nhà nước phát hiện sẽ phải chịu xử phạt hành chính bằng các biện pháp như nộp phạt, tịch thu tài sản, đình chỉ sản xuất kinh doanh.

1.2. Phương pháp kích thích (phương pháp kinh tế)

1.2.1. Khái niệm và đặc điêm

Phương pháp kích thích là cách thức Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý một cách gián tiếp dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng quản lý, nhằm làm cho đối tượng quản lý tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng chế hành chính mà thông qua những lợi ích, tức là Nhà nước chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt đồng thời đặt ra những khuyến khích kinh tế, những phương tiện vật chất mà những đối tượng quản lý có thể sử dụng để tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

Phương pháp này mở rộng quyền hoạt động cho các chủ thể kinh tế, đồng thời cũng làm tăng trách nhiệm kinh tế của họ.

Lợi ích được dùng làm động lực để kích thích là lợi ích vật chất và danh tiếng.

Danh tiếng đối với doanh nghiệp suy cho cùng cũng là vì lợi ích vật chất. Bởi vì, danh tiếng là điều kiện để có lợi nhuận cao, danh tiếng sinh ra lợi thế thương trường, là lời giới thiệu, tạo uy tín cho doanh nghiệp.

Lợi ích vật chất đối với doanh nghiệp là lợi nhuận mà Nhà nước không thể trực tiếp cho doanh nghiệp, nhưng Nhà nước có thể gián tiếp làm cho doanh nghiệp có lợi nhuận cao bằng nhiều cách khác nhau như chính sách thuế hấp dẫn, chính sách lãi suất thấp, chính sách giá cả hợp lý.

1.2.2. Hướng tác động (Cách thức tác động)

– Nhà nước đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội quy định nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với tình hình thực tế;

– Sử dụng các chính sách thuế, lãi suất, các biện pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để thu hút, khuyến khích các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất theo hướng ích nước, lợi nhà;

– Sử dụng các chính sách ưu đãi kinh tế.

1.2.3. Trường hợp áp dụng

Phương pháp này được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi không có nguy cơ gây hậu quả xấu cho cộng đồng, cho Nhà nước hoặc chưa đủ điều kiện áp dụng phương pháp cưỡng chế. Trên thực tế, có những hành vi của công dân mà không có sự điều chỉnh của Nhà nước sẽ không diễn ra theo chiều hướng có lợi cho Nhà nước, cho cộng đồng; nhưng cũng không có nghĩa là nó gây thiệt hại. Khi đó, nếu Nhà nước muốn họ hành động theo hướng có lợi cho mình, cho cộng đồng, thì Nhà nước sẽ sử dụng lợi ích làm động lực thúc đẩy họ thực hiện theo ý chí của mình.

Ví dụ: Nhà nước muốn các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư vào các vùng miền núi, biên cương, hải đảo để cải thiện đời sống dân cư ở các vùng này. Nếu không có ưu đãi hay khuyến khích của Nhà nước thì các nhà đầu tư chỉ muốn đầu tư vào các vùng đồng bằng, đô thị. Hành vi đầu tư này rõ ràng trái với lợi ích mà Nhà nước mong muốn. Nhà nước phải chia sẻ lợi ích kinh tế với họ bằng các hình thức như giảm thuế, miễn thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ về kỹ thuật.

1.3. Phương pháp thuyết phục, giáo dục

1.3.1. Khái niệm và đặc điêm

Phương pháp thuyết phục, giáo dục là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Phương pháp thuyết phục, giáo dục không dùng sự cưỡng bức, không dùng lợi ích mà là tạo ra sự nhận thức về tính tất yếu khách quan để đối tượng quản lý tự giác thi hành nhiệm vụ.

1.3.2. Hướng tác động (Cách thức thuyết phục, giáo dục)

– Giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;

– Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, hiệu quả;

– Xây dựng tác phong lao động trong thời đại công nghiệp – hiện đại hoá.

1.3.3. Trường hợp áp dụng

Phương pháp thuyết phục, giáo dục cần được áp dụng trong mọi trường hợp và phải được kết hợp với hai phương pháp trên để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Sở dĩ như vậy là do việc sử dụng phương pháp cưỡng chế hay kích thích để điều chỉnh các hành vi của đối tượng quản lý suy cho cùng vẫn là tác động bên ngoài. Một khi không có những tác động từ bên ngoài, các đối tượng rất có thể lại có nguy cơ không tuân thủ các quy định; dó đó hiệu quả không được triệt để, toàn diện. Hơn nữa, bản thân phương pháp cưỡng chế hay phương pháp kích thích cũng phải qua hoạt động thuyết phục, giáo dục thì mới truyền đến được đối tượng quản lý, giúp họ cảm nhận được áp lực hoặc động lực, biết sợ thiệt hại hoặc muốn có lợi ích, từ đó tuân theo những mục tiêu quản lý do Nhà nước đề ra.

Đề Thi Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế

ĐỀ THI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.

Đề bài : Quản lý Nhà nước về kinh tế là gì ? Vì sao nói quản lý Nhà nước vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp ? Để quản lý Nhà nước phải dùng phương pháp nào, các phương pháp này trong các chế độ xã hội khác nhau có gì giống và khác nhau ? Vì sao ?

1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế :

Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế dược thực hiện thông qua cả ba loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.

Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ).

2. Quản lý Nhà nước về kinh tế vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp :

Quản lý Nhà nước về kinh tế là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu riêng và có nhiệm vụ phải thực hiện riêng. Đó là các quy luật và các vấn đề mang tính quy luật của các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giưã các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế của xã hội.

Tính khoa học của quản lý Nhà nước về kinh tế có nghĩa là hoạt động quản lý của Nhà nước trên thực tế không thể phụ thuộc vào ý chí chủ quan hay sở thích của một cơ quan Nhà nước hay cá nhân nào mà phải dựa vào các nguyên tắc, các phương pháp, xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, tức là xuất phát từ các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển.

Để quản lý Nhà nước mang tính khoa học cần :

Tích cực nhận thức các quy luật khách quan, tổng kết thực tiễn để đề ra nguyên lý cho lĩnh vực hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế.

Tổng kết kinh nghiệm, những mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước trên thế

giới.

Áp dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, sự đánh giá khách quan các quá trình kinh tế.

Nghiên cứu toàn diện đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế, không chỉ giới hạn ở mặt kinh tế – kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt xã hội và tâm lý tức là phải giải quyết tốt vấn đề thực chất và bản chất của quản lý.

Quản lý Nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và là một nghề vì nó lệ thuộc không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp v.v… của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.

Tính nghệ thuật của quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện ở việc xử lý linh hoạt các tình huống phong phú trong thực tiễn kinh tế trên cơ sở các nguyên lý khoa học. Bản thân khoa học không thể đua ra câu trả lời cho mọi tình huống trong hoạt động thực tiễn. Nó chỉ có thể đưa ra các nguyên lý khoa học là cơ sở cho các hoạt động quản lý thực tế. Còn vận dụng những nguyên lý này vào thực tiễn cuộc sống phụ thuộc nhiều vào kiến thức, ý chí và tài năng của các nhà quản lý kinh tế. Kết quả của nghệ thuật quản lý là đưa ra quyết định quản lý hợp lý tối ưu nhất cho một tình huống quản lsy.

Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân ( tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế …).

Quản lý Nhà nước về kinh tế là một nghề nghiệp với bộ máy là hệ thống tổ chức bao gồm nhiều người, nhiều cơ quan, nhiều bộ phận có những chức năng quyền hạn khác nhau nhằm đảm bảo tổ chức và quản lý có hiệu quả các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước. Những người làm việc trong các cơ quan đó đều phải được qua đào tạo như một nghề nghiệp để có đủ tri thức, kỹ năng năng lực làm công tác quản lý các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước.

3. Các phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế :

Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh tế.

3.1 Các phương pháp hành chính : Các phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp bằng các quyết đinhj dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình huống nhất định.

Các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý kinh tế thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước.

Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm :

Phương pháp này có hai đặc điểm cơ bản là :

Tính bắt buộc : các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tacs động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng.

Tính quyền lực : các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của mình.

Vai trò của các phương pháp hành chính là xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống; khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.

3.2. Các phương pháp kinh tế : Là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối tượng bị quản lý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động. Các phương pháp kinh tế chính là các phương pháp tác động của Nhà nước thông qua sụ vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế – kỹ thuật; tức là về thực chất các phương pháp kinh tế là một biện pháp để sử dụng các quy luật kinh tế.

Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nằm vững những yêu cầu chặt chẽ sau :

Quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế.

Khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không sử dụng những quyền hạn được phép.

Đặc điểm của các phương pháp kinh tế là nó tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ.

Việc sử dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn được Nhà nước định hướng, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế từng thời kỳ của đát nước. Nhưng đây không phải là những nhiệm vụ gò ép, mệnh lệnh chủ quan mà là những mục tiêu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học và cơ sở chủ động. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng các phương pháp kinh tế theo những hướng sau :

Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từng phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.

Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng v.v…), các biện pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp phát triển sản xuất theo hướng vừa lợi nhà, vừa ích nước.

Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Xu hướng chung ngày nay của các quốc gia là mở rộng việc áp dụng các phương pháp kinh tế. Để thực hiện hiệu quả phương pháp này cần chú ý đến :

Phương pháp giáo dục trong quản lý Nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng quản lý Nhà nước về kinh tế, nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá – tiền tệ, quan hệ thị trường.

Thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các cấp dưới.

Các cán bộ quản lý phải là những người có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết và thông

thạo nhiều loại kiến thức và kinh nghiệm quản lý đồng thời phải có bản lĩnh tự chủ vững vàng.

Phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng của quản lý là con người – một thực thể năng động và là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội. Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý.

Nội dung của phương pháp giáo dục bao gồm :

Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân biệt phải – trái, đúng – sai, lợi – hại, đẹp – xấu, thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với doanh nghiệp.

Phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát đến từng người lao động, có tác đông giáo dục rộng rãi trong xã hội.

Như vậy việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ thuật quản lý, của Nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.

Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức.

Xoá bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân, thu vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đình, đầu óc thiển cận, hẹp hòi, tư tưởng địa phương, cục bộ, bản vị, phường hội, bình quân chủ nghĩa, không chịu để ai hơn mình, ghen ghét, đố kị nhau, tác phong làm việc luộm thuộm, tuỳ tiện, cửa quyền, không biết tiết kiệm thời giờ, thích hội họp.

Xoá bỏ tàn dư tư tưởng phong kiến, thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, thích đặc quyền đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi thường phụ nữ.

Xoá bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức, chủ nghĩa tự do vô Chính phủ “cá lớn nuốt cá bé”.

Xây dựng tác phong đại công nghiệp; tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ chức, tính kỷ luật, đảm nhận trách nhiệm, khẩn trương, tiết kiệm.

Các hình thức giáo dục bao gồm : sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, đài phát thanh, truyền hình…), sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có tính xã hội. Tiến hành giáo dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ triển lãm v.v… sử dụng các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả v.v…

Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mang tính thị trường thuần tuý :

4. Sự giống nhau và khác nhau của các phương pháp quản lý Nhà nước về kinh tế trong các chế độ xã hội khác nhau :

Về bản chất, quản lý kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là khác nhau. Quản lý kinh tế tư bản chủ nghĩa vì một nhóm nhỏ những người giầu, những người này nắm quyền lực kinh tế, đồng thời nắm quyền lực chính trị – Nhà nước của giai cấp tư sản. Quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa vì đại bộ phận người dân lao động vì xoá đói giảm nghèo, vì mục tiêu phát triển – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, Nhà nước xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu và chính quyền nằm trong tay nhân dân không có nghĩa là Nhà nước đó sẽ đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người bằng bất kỳ cách quản lý nào của mình.

Trong nền kinh tế thị trường phát triển :

Trong nền kinh tế, các nguồn lực sản xuất cũng như các hàng hoá và dịch vụ kinh tế được phân bố cho các hoạt động và các mục đích sử dụng khác nhau thông qua cái mà người ta gọi là “cơ chế thị trường”. Việc quyết định xem sản xuất và tiêu thụ cái gì bao nhiêu đều được các đơn vị kinh tế cá thể đưa ra. Những đơn vị kinh tế đưa ra quyết định dựa trên các giải pháp mà họ có trong đó có yếu tố giá thị trường của các loại hàng hoá, dịch vụ và nguồn lực mà họ phải chấp nhận, không được tác động đến. Mô hình kinh tế này nhấn mạnh đến cạnh tranh hoàn hảo và bàn tay vô hình. Vai trò quản lý của Nhà nước không được nhấn mạnh, Nhà nước sử dụng các phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế để quản lý nền kinh

tế song chủ yếu phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản chi phối, không chú trọng tới những vấn đề xã hội.

Chính phủ ngày càng nắm nhiều quyền kiểm soát hơn đối với toàn bộ hoạt động kinh tế, không chỉ thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như các chính sách tài khoá và tiền tệ mà còn thông qua việc :

Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “mệnh lệnh”

Tham gia trực tiếp ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế dưới hình thức các ngành công nghiệp được quốc hữu hóa, các doanh nghiệp Nhà nước và các chương trình đầu tư công cộng.

Kế hoạch hoá kinh tế, điều tiết hoạt động của các công ty tư nhân, đánh thuế các nhà tư doanh và các doanh nghiệp.

Tiến hành và điều tiết các hoạt động ngoại thương…

Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng “thị trường” :

Trên nhiều phương diện, “bàn tay vô hình ” của cơ chế thị trường đã được thay bởi “bàn tay hữu hinh” chỉ đạo của Chính phủ trung ương như một lực lượng kinh tế chủ yếu trong những xã hội tư bản chủ nghĩa này. Nhà nước sử dụng cả phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế để quản lý nền kinh tế.

Đây là nền kinh tế không chỉ dựa trên chế độ sở hữu công cộng đối với toàn bộ các nguồn lực của sanr xuất mà còn dựa trên việc thay thế hoàn toàn cơ chế giá thị trường bằng việc kế hoạch hoá tập trung toàn bộ các hoạt động kinh tế. Tất cả các loại giá cả đều do Nhà nước quyết định. Các kế hoạch tổng thể cho toàn quốc cũng như cho từng vùng được Nhà nước tạo lập ra hàng năm. Nhu cầu và khả năng sẵn có về nguồn lực được cân đối bởi những quyết định phân bổ của Trung ương chứ không phải bởi những tín hiệu của giá cả trong hệ thống thị trường. Trong nền kinh tế này, Nhà nước chỉ sử dụng phương pháp quản lý hành chính và còn rất nhiều hạn chế làm cho nền kinh tế bị kìm hãm không phát triển được.

Trong nền kinh tế hỗn hợp giữa thị trường và kế hoạch hoá :

Các hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường cố gắng hội tụ những tinh hoa của cả hai chế độ : tính đơn giản của cơ chế giá tự động và hiệu quả của chủ nghĩa tư bản thị trường cùng với chủ nghĩa bình quân của hình thức xã hội chủ nghĩa đối với các tư liệu sản xuất và phân phối. Công tác kế hoạch hoá của

Trung ương đóng vai trò kiểm soát trực tiếp. Nhà nước sử dụng kết hợp cả các phương pháp kinh tế và phương pháp hành chính.

đây, những mức độ khác nhau về sở hữu tư nhân đối với các nguồn lực tồn tại song song với quy mô đáng kể của sở hữu Nhà nước và sự tham gia của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Có sự tồn tại song song của hình thức phân bổ nguồn lực và sản phẩm bởi thị trường và giá cả do Nhà nước quy định, cùng với hình thức kế hoạch hoá tập trung và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của nền kinh tế bởi Nhà nước.

là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất với hai hình thức Nhà nước và tập thể là chủ yếu, đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hàng loạt các biện pháp cải cách chính sách kinh tế vĩ mô đã được thực hiện, tạo lập được đồng bộ các yếu tố thị trường, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tài chính, tiền tệ và giá cả. Nhà nước tham gia vào quá trình quản lý kinh tế với tư cách là nhà quản lý vĩ mô, Nhà nước điều tiết các hoạt động thị trường, giữ cho nền kinh tế phát triển ổn định đi theo đúng định hướng do Đảng, Nhà nước đã vạch ra. Nhà nước sử dụng tổng hợp các phương pháp đã nêu ở trên để quản lý nền kinh tế quốc gia, trong đó phương pháp kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất ( khác hẳn với trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì phương pháp hành chính được sử dụng chủ yếu ). Nhờ vậy trong những năm qua nền kinh tế Việt nam đã có những bước phát triển vượt bậc, theo đúng định hướng XHCN.

Trong những năm tới đây, để nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước,chúng ta cần tiếp tục thực hiện đổi mới, sắp xếp và kiện toàn bộ máy Nhà nước và đặc biệt là củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Có như vậy Nhà nước mới đủ thực lực và sức mạnh kinh tế và quản lý để thực hiện tốt vai trò là bà đỡ cho nền kinh tế phát triển, thực hiện tốt chức năng người quản lý vĩ mô nền kinh tế.

Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

Tìm Hiểu Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Đất Đai

Phương pháp quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về đất đai nói riêng có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Xét một cách tổng quát, quản lý nhà nước về đất đai gồm các phương pháp sau.

Phương pháp hành chính

Quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình củng cố và phát triển đất nước. Lĩnh vực này bao gồm nhiều phương pháp khác nhau trong đó không thể không nhắc đến phương pháp hành chính.

Đây là phương pháp tác động mang tính trực tiếp dựa vào mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý, mà thực chất đó là mối quan hệ giữa quyền uy và sự phục tùng.

Phương pháp quản lý hành chính về đất đai của nhà nước là cách thức tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đến các đối tượng trong quan hệ đất đai, bao gồm các chủ thể là cơ quan quản lý đất đai của nhà nước và các chủ thể là người sử dụng đất (các hộ gia đình, các cá nhân, các tổ chức, các pháp nhân) bằng các biện pháp, các quyết định mang tính mệnh lệnh bắt buộc. Đòi hỏi người sử dụng đất phải chấp hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật.

Vậy nên, khi sử dụng phương pháp này phải gắn kết chặt chẽ quyền hạn và trách nhiệm của các cấp quản lý, đồng thời phải cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước và từng cá nhân. Các quyết định hành chính do con người đặt ra muốn có kết quả và đạt hiệu quả cao thì chúng phải là các quyết định có tính khoa học, có căn cứ khoa học, tuyệt đối không thể là ý muốn chủ quan của con người.

Phương pháp kinh tế

Phương pháp kinh tế của nhà nước về quản lý đất đai là cách thức tác động gián tiếp vào đối tượng bị quản lý, thông qua các lợi ích kinh tế để các đối tượng này tự lựa chọn phương án hoạt động của mình sao cho có hiệu quả nhất. Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam, phương pháp kinh tế là một phương pháp mềm dẻo, do vậy nó ngày càng mang tính phổ biến và được coi trọng.

Mặt mạnh của phương pháp quản lý nhà nước này là ở chỗ nó tác động vào lợi ích của đối tượng bị quản lý làm cho họ phải suy nghĩ, tính toán và lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả vừa đảm bảo lợi ích của mình, vừa đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội. Vì vậy, sử dụng phương pháp này vừa tiết kiệm được chi phí quản lý, vừa giảm được tính chất cứng nhắc hành chính, vừa tăng cường tính sáng tạo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Phương pháp tuyền truyền, giáo dục

Phương pháp tuyên truyền, giáo dục là cách thức tác động của nhà nước vào nhận thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác và lòng nhiệt tình của họ trong quản lý đất đai nói riêng và trong hoạt động kinh kế – xã hội nói chung. Mọi đối tượng quản lý suy cho cùng cũng chỉ là con người mà con người là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội và ở họ có những đặc trưng tâm lý rất đa dạng do đó, cần phải có nhiều phương pháp tác động khác nhau trong đó có phương pháp giáo dục và tuyên truyền.

Trong thực tế, phương pháp này thường được kết hợp với các phương pháp khác để nâng cao hiệu quả quản lý. Nội dung của phương pháp giáo dục rất đa dạng, nhưng trước hết phải giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước nói chung; chính sách, pháp luật về đất đai nói riêng thể hiện qua các văn bản luật và văn bản dưới luật.

Các Phương Pháp Quản Lý Hành Chính Nhà Nước

Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là gì? Trình bày các phương pháp quản lý hành chính nhà nước?

Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý thông qua các phương pháp cụ thể để tác động đến các đối tượng quản lý. Trong điều kiện chuyển đổi cơ chế kinh tế và hội nhập hiện nay phải tăng cường hiệu lực quản lý của cơ quan hành chính, một trong những vấn đề đặt ra là phải hoàn thiện các phương pháp hoạt động của các cơ quan đó.

Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức hoạt động của chủ thể quản lý và luôn mang tính quyền lực nhà nước, được áp dụng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Có thể nói quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý được tác động bởi những phương pháp, cách thức nhất định. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính nhà nước, thể hiện ý chí nhà nước và được thể hiện dưới những hình thức nhất định.

Phương pháp quản lý không chỉ bó hẹp trong phạm vi quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý mà còn là cách thức tổ chức, hoạt động của chủ thể quản lý (cách thức phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong một cơ quan hành chính, quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo giữa thủ trưởng cơ quan với nhân viên thuộc quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan).

Phương pháp quản lý hành chính nhà nước chính là cách thức tác động của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục đích đã đề ra. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước được giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành.

Chủ thể thực hiện chức năng quản lý hành chính là các cợ quan hành chính nhà nước và để thực hiện chức năng này cơ quan hành chính nhà nước sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tác động lên các lĩnh vực quản lý và khi áp dụng một phương pháp nào đó phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và thích hợp với các đối tượng là cá nhân hay tổ chức nhất định là yếu tố cực kỳ quan trọng để cơ quan hành chính nhà nước giải quyết nhiệm vụ, chức năng của mình một cách tốt nhất. Các phương pháp được áp dụng phải có ý nghĩa thực tỉễn, linh hoạt, mềm dẻo, đồng thời phải đạt hiệu quả cao.

2. Đặc điểm của phương pháp quản lý hành chính nhà nước

Phương pháp quản lý hành chính nhà nước có những đặc điểm sau:

– Phương pháp quản lý hành chính chủ yếu do cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước áp dụng.

– Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức được áp dụng để tác động đến quá trình tổ chức, hoạt động trong nội bộ cơ quan hành chính và tác động lên đối tượng quản lý là cá nhân, tổ chức để đảm bảo những hành vi xử sự cần thiết.

– Phương pháp quản lý hành chính nhà nước được áp dụng để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.

– Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước và được thực hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định.

Thẩm quyền của cơ quan hành chính và cán bộ, công chức được thực hiện chủ yếu thông qua các phương pháp quản lý hành chính. Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này, hay phương pháp khác phụ thuộc vào thẩm quyền cụ thể do pháp luật quy định cho từng chủ thể quản lý, sử dụng những phương pháp không được pháp luật cho phép là vi phạm pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý hành chính các cơ quan hành chính (chủ thể quản lý) phải lựa chọn những phương pháp phù hợp yêu cầu khách quan của đời sống xã hội, thực hiện được yêu cầu này Nhà nước phải đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực trình độ quản lý trên cơ sở đó lựa chọn, áp dụng những phương pháp thích hợp.

3. Phân loại các phương pháp quản lý hành chính nhà nước

Hiện nay việc phân loại các phương pháp quản lý hành chính theo nhiều cách khác nhau.

3.1. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước thành phương pháp chung và phương pháp riêng

Cách thứ nhất phân loại phương pháp quản lý thành phương pháp chung và phương pháp riêng. Phương pháp riêng được áp dụng trong quá trình thực hiện các chức năng riêng biệt hoặc ở những khâu, những giai đoạn riêng biệt của quá trình quản lý. Phương pháp chung bao gồm:

+ Thuyết phục và cưỡng chế;

+ Phương pháp tác động trực tiếp và gián tiếp, gồm các phương pháp: hành chính, kinh tế, tác động mang tính xã hội;

+ Theo dõi kiểm tra;

+ Điều chỉnh, lãnh đạo chung và quản lý tác nghiệp.

3.2. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước phân loại dựa trên các căn cứ khác

Cách thứ hai phân loại dựa trên một số căn cứ sau. Một là dựa vào bản chất của sự tác động phương pháp quản lý được phân thành phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế. Hai là dựa trên cơ sở mức độ của sự tác động, được phân thành phương pháp lãnh đạo chung, phương pháp quản lý trực tiếp, phương pháp điều chỉnh. Ba là xuất phát từ mục đích được chỉ ra chia làm 3 loại gồm phương pháp quản lý theo chương trình mục tiêu, phương pháp kiểm tra, phương pháp phân tích.

Do tính chất đa dạng và phức tạp của hoạt động quản lý, nên việc phân chia các phương pháp quản lý theo nhiều cách như vậy phụ thuộc vào góc độ nghiên cứu, tiếp cận khác nhau của các nhà khoa học và các nhà quản lý. Mỗi một cách phân loại có một ý nghĩa nhất định đối với hoạt động quản lý hành chính và khó có thể có chung một cách phân loại. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước được phân loại và đề cập trong chương này gồm: phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế.

Sự phân loại này dựa trên khả năng tác động chung đến các ngành, lĩnh vực và đối với các đối tượng quản lý để đảm bảo đạt được những hành vi xử sự cần thiết một cách tự giác hoặc để bắt buộc thực hiện hành vi xử sự cần thiết. Đồng thời, cho thấy các phương pháp được phân loại ở đây là những phương pháp có đặc trưng tồng hợp của hoạt động chấp hành – điều hành và là phương pháp chung nhất để thực hiện hoạt động quản lý. Mối liên hệ của các phương pháp này tạo ra cơ sở để thực hiện các phương pháp quản lý cụ thể khác. Vì vậy, việc phân loại thành phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế là cách phân loại cơ bản, được áp dụng để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.

4. Hệ thống các phương pháp quản lý hành chính 3.1. Phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế – Phương pháp thuyết phục

Thuyết phục là phương pháp chủ yếu được áp dụng trong hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước ta. Thuyết phục nhằm tạo ra ý thức pháp luật của mỗi công dân, trên cơ sở đó công dân tự nguyện, tự giác chấp hành pháp luật. Thuyết phục có vai trò rất to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân lập ra và hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Mọi chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, phương pháp quản lý được sử dụng chủ yếu là phương pháp thuyết phục.

Phương pháp thuyết phục do cơ quan hành chính tiến hành là chủ yếu thông qua tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật, phố biến kinh nghiệm tiến tiến… Thực tiễn quản lý chỉ ra rằng thu hút nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước là cốt lõi của việc nâng cao tính tích cực chính trị, sự sáng tạo của nhân dân trong việc tham gia cùng với Nhà nước giải quyết những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước.

– Phương pháp cưỡng chế

Phương pháp này được áp dụng trong những trường hợp cần thiết đối với những cá nhân, tổ chức không tự nguyện, tự giác cấp hành các quyết định quản lý hoặc vi phạm pháp luật. Cưỡng chế được áp dụng vì lợi ích chung của Nhà nước trong đó có cá nhân, thông qua phương pháp này Nhà nước bảo vệ trật tự, kỷ cương của xã hội. Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cá nhân và tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc cá nhân hay tổ chức đỗ phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của cá nhân hay tổ chức hoặc tự do thân thể của các cá nhân.

Cưỡng chế nhà nước bao gồm: Cưỡng chế hình sự, dân sự, hành chính, cưỡng chế kỷ luật. Những biện pháp cưỡng chế này được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức trong những trường hợp cụ thể, tùy tính chất và mức độ vi phạm những đối tượng đó có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp cưỡng chế. Trong lĩnh vực quản lý hành chính các chủ thể quản lý (cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan đó) có thể áp dụng cưỡng chế hành chính, kỷ luật, cưỡng chế bồi thường vật chất.

Cụ thể đó là quan hệ giữa người quản lý lãnh đạo và cán bộ, công chức thuộc quyền. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế này liền quan trực tiếp đến cán bộ, công chức và được xem xét riêng trong chương địa vị pháp lý hành chính của cán bộ, công chức.

Cưỡng chế hành chính là một dạng cưỡng chế nhà nước chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan đó áp dụng trong trường hợp xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính hoặc ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm pháp chế, trật tự trong quản lý hành chính nhà nước.

Cưỡng chế hành chính bao gồm: Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; các biện pháp khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính; các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp xử lý hành chính khác; các biện pháp phòng ngừa hành chính; các biện pháp được áp dụng trong trường hợp cần thiết vì lý do an ninh, quốc phòng và vì lợi ích quốc gia.

– Các hình thức xử phạt gồm:

Hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền là hai hình thức phạt chính.

Hình thức phạt trục xuất được áp dụng đối với người nước ngoài vi phạm hành chính. Hình thức này có thể áp dụng là hình thức phạt chính hoặc là hình thức phạt bổ sung tùy từng trường hợp cụ thể. Hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là hình thức phạt bổ sung.

Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính gồm: tạm giữ người; tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; khám người; khám phương tiện vận tải đồ vật; khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; bảo lãnh hành chính; quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất; truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn.

Các biện pháp khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính gồm: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm phương tiện; buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại; biện pháp khắc phục hậu quả khác do người có thẩm quyền áp dụng theo quy định của Chính phủ.

Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính gồm: Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng; kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; các biện pháp cưỡng chế khác để thực hiện tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh, buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện, buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phâm độc hại.

Các biện pháp xử lý hành chính khác gồm: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Các biện pháp phòng ngừa hành chính: Những biện pháp này được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng nhằm ngăn ngừa những vi phạm pháp luật có thể xảy ra hoặc là những nguy cơ có thể xảy ra ảnh hưởng tới sinh mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tổ chức.

Kiểm tra giấy tờ: Giấy phép lái xe, bằng tốt nghiệp phổ thông, đại học…

3.2. Phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế – Phương pháp hành chính

Cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình phải sử dụng phương pháp này để thiết lập trật tự quản lý. Đặc trưng của phương pháp này là chủ thể quản lý ra các quyết định pháp luật bắt buộc thi hành đối với đối tượng quản lý. Có nghĩa là phương pháp này tác động trực tiếp đến hành vi của các cá nhân và tổ chức thông qua đó quy định trực tiếp quyền, nghĩa vụ của đối tượng này. Cũng giống như các phương pháp quản lý khác, phương pháp này mang tính quyền lực nhà nước, điều này thể hiện ở thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết đáp ứng các yêu cầu hợp pháp của các nhân, tổ chức, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và thực hiện cưỡng chế trong những trường hợp các quyết định hành chính không được thực hiện. Phương pháp này còn được sử dụng thường xuyên trong quan hệ giữa cơ quan hành chính cấp trên và cơ quan hành chính cấp dưới trong việc thực hiện mệnh lệnh của cấp trên. Có như vậy cơ quan hành chính cấp trên mới tập trung quyền lực để quản lý, điều hành đối với cơ quan hành chính cấp dưới bảo đảm cho hoạt động quản lý được tiến hành hiệu quả, thống nhất.

– Phương pháp kinh tế

Là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua những đòn bấy kinh tế tác động đến lợi ích của các đối tượng này. Hoạt động của đối tượng quản lý chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi được kích thích bởi lợi ích kinh tế, phương pháp này ngày càng được áp dụng rộng rãi nhờ đó mà quản lý đạt hiệu quả cao. Trong điều kiện hiện nay hiệu suất lao động ngày càng được nâng cao, người lao động luôn quan tâm đến kết quả lao động không phải thông qua mệnh lệnh hành chính mà thông qua những khuyến khích vật chất. Phương pháp kinh tế được áp dụng như tiền lương, tiền thưởng, chính sách thuế, quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh… Tạo điều kiện vật chất cho các đối tượng quản lý nhằm phát huy năng lực để hoàn thành nhiệm vụ.

Phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế kết hợp bổ sung cho nhau. Hai phương pháp này được cơ quan hành chính áp dụng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phương pháp hành chính được các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng thể hiện vai trò chủ thể quản lý của mình, nếu không có phương pháp này phương pháp kinh tế không thể đi vào đời sống xã hội.

Phương pháp hành chính được áp dụng trong điều kiện mới ngoài việc khẳng định Nhà nước vẫn duy trì hoạt động lãnh đạo, điều hành chung, bảo vệ lợi ích của Nhà nước nhưng khác với trước đây Nhà nước tạo điều kiện để các đơn vị kinh tế phát huy sự năng động, sáng tạo, tự chủ của mình trong sản xuất kinh doanh. Quá chú trọng đến phương pháp kinh tế dẫn đến vai trò quản lý của Nhà nước giảm sút. Hoạt động quản lý chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi áp dụng đúng đắn hai phương pháp này.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tổng Quan Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!