Bạn đang xem bài viết Tổng Quan Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực Nhà nước thông qua cơ chế quản lý kinh tế nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước với tư cách là tổng thể các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về kinh tếQuản lý nhà nước về kinh tế là quản lý vĩ mô nền kinh tế
Nhiệm vụ chủ yếu quản lý vĩ mô nền kinh tế là đảm bảo cân đối cơ bản trên bình diện tổng thể nền kinh tế tạo ra môi trường thuận lợi, nhiều cơ hội cho các chủ thể kinh tế trên thị trường đặc biệt là các doanh nghiệp, dẫn dắt nền kinh tế quốc dân phát triển liên tục với tốc độ cao và lành mạnh.
Chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước về kinh tế vĩ mô là vạch ra các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và các chính sách kinh tế đồng bộ. Trên bình diện tổng thể, Nhà nước vừa phải điều tiết vĩ mô đối với các doanh nghiệp, vừa phải phục vụ các doanh nghiệp trên nhiều mặt, thực hiện sự thống nhất hưu cơ giữa vi mô và vĩ mô.
Quản lý nhà nước về kinh tế mang tính quyền lực nhà nước
Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý của Nhà nước đối với hệ thống kinh tế quốc dân, của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, của chính quyền đối với nền kinh tế quốc dân.
Quản lý Nhà nước về kinh tế mang tính quyền lực nhà nước có nghĩa là một mặt, quản lý này lệ thuộc vào chính trị, xuất phát từ chỗ, Nhà nước là bộ phận trung tâm trong hệ thống chính trị xã hội, là công cụ đặc biệt để thực hiện quyền lực chính trị (lập pháp, hành pháp và tư pháp) của giai cấp thống trị đối với giai cấp khác và xã hội. Mặt khác, quản lý này mang tính pháp quyền và thực hiện theo nguyên tắc pháp chế.
Mục tiêu phát triển lấy hiệu quả kinh tế – xã hội là chính
Xuất phát từ hai đặc điểm trên, mục tiêu đặt ra trong quản lý nhà nước về kinh tế là mục tiêu kinh tế – xã hội, mục tiêu này được thể hiện ở mục tiêu tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân bền vững. Hiệu quả kinh tế – xã hội được xem như là tiêu chuẩn để đạt được mục tiêu trên.
Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
Tính khoa học nằm ở chỗ, các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng.
Còn tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ, các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra.
Quản lý kinh tế có hiệu nhất khi nhà quản lý biết lựa chọn đúng đắn phương pháp quản lý và biết kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý đó vào từng trường hợp, từng đối tượng, từng giai đoạn của nền kinh tế. Đó chính là tài nghệ quản lý của nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm:
Các phương pháp hành chính
Các phương pháp kinh tế
Các phương pháp giáo dục
Vận dụng tổng hợp các phương pháp quản ký kinh tế của Nhà nước
Nghệ thuật quản lý kinh tế của nhà nước
4. Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tếCông cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của mình nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
4.1. Nhóm công cụ thể hiện mục tiêu quản lý 4.1.1. Đường lối phát triển kinh tế – xã hộiLà khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do Đảng cầm quyền của quốc gia xây dựng và thực hiện. Đó là việc xác định trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt đến, sau đó căn cứ vào thực trang của nền kinh tế để tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn tiến hành để đạt được cái đích đó;
Đường lối phát triển kinh tế – xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh, công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường, là tổn thất, đổ vỡ, suy thoái, là hậu quả khôn lương về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế – xã hội trong một thời gian đủ dài. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là sự cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế – xã hội, và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng.
4.1.3. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hộiQuy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là việc định hướng phát triển kinh tế dài hạn, trong đó xác định rõ quy mô và giới hạn cho sự phát triển. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dựa án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả.
Thực chất của quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về không gian và thời gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch ngành.
4.1.4. Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hộiKế hoạch là cụ thể hoá chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lớn.. Các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế.
4.1.5. Chương trình phát triên kinh tế – xã hộiChương trình phát triển kinh tế – xã hội là tổng hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ: chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc..
Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kỳ và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả.
4.2. Nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tếNhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật.
Pháp luật kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế.
Chính sách phát triển các thành phần kinh tế;
Chính sách tài chính với công cụ chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế;
Chính sách tiền tệ với công cụ kiểm soát mức cung tiền và lãi suất;
Chính sách thu nhập với các công cụ giá cả và tiền lương;
Chính sách ngoại thương với các công cụ thuế nhập khẩu, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái.
4.4. Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý
Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa. ;
Tài nguyên trong lòng đất;
Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia;
Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp;
Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước.
4.5. Nhóm công cụ đê sử dụng các công cụ trênChủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình ở trên là các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đó chính là các cơ quan hành chính nhà nước, các công sở và các phương tinh kinh tế – kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.
Bài viết trên đã cung cấp những thông tin chi tiết các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Hi vọng rằng bạn đọc đã có được cái nhìn tổng quan về vấn đề này. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào hãy liên hệ với dịch vụ tư vấn làm luận văn thuê của chúng tôi theo hotline: 0915 686 999 hoặc email qua địa chỉ: luanvanviet.group@gmail.com để được tư vấn và giải đáp.
Đề Thi Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế
ĐỀ THI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Đề bài : Quản lý Nhà nước về kinh tế là gì ? Vì sao nói quản lý Nhà nước vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp ? Để quản lý Nhà nước phải dùng phương pháp nào, các phương pháp này trong các chế độ xã hội khác nhau có gì giống và khác nhau ? Vì sao ?
1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế :Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế dược thực hiện thông qua cả ba loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ).
2. Quản lý Nhà nước về kinh tế vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp :Quản lý Nhà nước về kinh tế là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu riêng và có nhiệm vụ phải thực hiện riêng. Đó là các quy luật và các vấn đề mang tính quy luật của các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giưã các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế của xã hội.
Tính khoa học của quản lý Nhà nước về kinh tế có nghĩa là hoạt động quản lý của Nhà nước trên thực tế không thể phụ thuộc vào ý chí chủ quan hay sở thích của một cơ quan Nhà nước hay cá nhân nào mà phải dựa vào các nguyên tắc, các phương pháp, xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, tức là xuất phát từ các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển.
Để quản lý Nhà nước mang tính khoa học cần :
Tích cực nhận thức các quy luật khách quan, tổng kết thực tiễn để đề ra nguyên lý cho lĩnh vực hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Tổng kết kinh nghiệm, những mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước trên thế
giới.
Áp dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, sự đánh giá khách quan các quá trình kinh tế.
Nghiên cứu toàn diện đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế, không chỉ giới hạn ở mặt kinh tế – kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt xã hội và tâm lý tức là phải giải quyết tốt vấn đề thực chất và bản chất của quản lý.
Quản lý Nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và là một nghề vì nó lệ thuộc không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp v.v… của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
Tính nghệ thuật của quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện ở việc xử lý linh hoạt các tình huống phong phú trong thực tiễn kinh tế trên cơ sở các nguyên lý khoa học. Bản thân khoa học không thể đua ra câu trả lời cho mọi tình huống trong hoạt động thực tiễn. Nó chỉ có thể đưa ra các nguyên lý khoa học là cơ sở cho các hoạt động quản lý thực tế. Còn vận dụng những nguyên lý này vào thực tiễn cuộc sống phụ thuộc nhiều vào kiến thức, ý chí và tài năng của các nhà quản lý kinh tế. Kết quả của nghệ thuật quản lý là đưa ra quyết định quản lý hợp lý tối ưu nhất cho một tình huống quản lsy.
Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân ( tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế …).
Quản lý Nhà nước về kinh tế là một nghề nghiệp với bộ máy là hệ thống tổ chức bao gồm nhiều người, nhiều cơ quan, nhiều bộ phận có những chức năng quyền hạn khác nhau nhằm đảm bảo tổ chức và quản lý có hiệu quả các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước. Những người làm việc trong các cơ quan đó đều phải được qua đào tạo như một nghề nghiệp để có đủ tri thức, kỹ năng năng lực làm công tác quản lý các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước.
3. Các phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế :Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh tế.
3.1 Các phương pháp hành chính : Các phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp bằng các quyết đinhj dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình huống nhất định.
Các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý kinh tế thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước.
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm :
Phương pháp này có hai đặc điểm cơ bản là :
Tính bắt buộc : các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tacs động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng.
Tính quyền lực : các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của mình.
Vai trò của các phương pháp hành chính là xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống; khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.
3.2. Các phương pháp kinh tế : Là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối tượng bị quản lý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động. Các phương pháp kinh tế chính là các phương pháp tác động của Nhà nước thông qua sụ vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế – kỹ thuật; tức là về thực chất các phương pháp kinh tế là một biện pháp để sử dụng các quy luật kinh tế.
Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nằm vững những yêu cầu chặt chẽ sau :
Quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế.
Khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không sử dụng những quyền hạn được phép.
Đặc điểm của các phương pháp kinh tế là nó tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ.
Việc sử dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn được Nhà nước định hướng, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế từng thời kỳ của đát nước. Nhưng đây không phải là những nhiệm vụ gò ép, mệnh lệnh chủ quan mà là những mục tiêu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học và cơ sở chủ động. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng các phương pháp kinh tế theo những hướng sau :
Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từng phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.
Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng v.v…), các biện pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp phát triển sản xuất theo hướng vừa lợi nhà, vừa ích nước.
Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Xu hướng chung ngày nay của các quốc gia là mở rộng việc áp dụng các phương pháp kinh tế. Để thực hiện hiệu quả phương pháp này cần chú ý đến :
Phương pháp giáo dục trong quản lý Nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng quản lý Nhà nước về kinh tế, nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá – tiền tệ, quan hệ thị trường.
Thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các cấp dưới.
Các cán bộ quản lý phải là những người có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết và thông
thạo nhiều loại kiến thức và kinh nghiệm quản lý đồng thời phải có bản lĩnh tự chủ vững vàng.
Phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng của quản lý là con người – một thực thể năng động và là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội. Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý.
Nội dung của phương pháp giáo dục bao gồm :
Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân biệt phải – trái, đúng – sai, lợi – hại, đẹp – xấu, thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với doanh nghiệp.
Phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát đến từng người lao động, có tác đông giáo dục rộng rãi trong xã hội.
Như vậy việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ thuật quản lý, của Nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.
Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức.
Xoá bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân, thu vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đình, đầu óc thiển cận, hẹp hòi, tư tưởng địa phương, cục bộ, bản vị, phường hội, bình quân chủ nghĩa, không chịu để ai hơn mình, ghen ghét, đố kị nhau, tác phong làm việc luộm thuộm, tuỳ tiện, cửa quyền, không biết tiết kiệm thời giờ, thích hội họp.
Xoá bỏ tàn dư tư tưởng phong kiến, thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, thích đặc quyền đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi thường phụ nữ.
Xoá bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức, chủ nghĩa tự do vô Chính phủ “cá lớn nuốt cá bé”.
Xây dựng tác phong đại công nghiệp; tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ chức, tính kỷ luật, đảm nhận trách nhiệm, khẩn trương, tiết kiệm.
Các hình thức giáo dục bao gồm : sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, đài phát thanh, truyền hình…), sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có tính xã hội. Tiến hành giáo dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ triển lãm v.v… sử dụng các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả v.v…
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mang tính thị trường thuần tuý :
4. Sự giống nhau và khác nhau của các phương pháp quản lý Nhà nước về kinh tế trong các chế độ xã hội khác nhau :Về bản chất, quản lý kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là khác nhau. Quản lý kinh tế tư bản chủ nghĩa vì một nhóm nhỏ những người giầu, những người này nắm quyền lực kinh tế, đồng thời nắm quyền lực chính trị – Nhà nước của giai cấp tư sản. Quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa vì đại bộ phận người dân lao động vì xoá đói giảm nghèo, vì mục tiêu phát triển – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, Nhà nước xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu và chính quyền nằm trong tay nhân dân không có nghĩa là Nhà nước đó sẽ đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người bằng bất kỳ cách quản lý nào của mình.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển :
Trong nền kinh tế, các nguồn lực sản xuất cũng như các hàng hoá và dịch vụ kinh tế được phân bố cho các hoạt động và các mục đích sử dụng khác nhau thông qua cái mà người ta gọi là “cơ chế thị trường”. Việc quyết định xem sản xuất và tiêu thụ cái gì bao nhiêu đều được các đơn vị kinh tế cá thể đưa ra. Những đơn vị kinh tế đưa ra quyết định dựa trên các giải pháp mà họ có trong đó có yếu tố giá thị trường của các loại hàng hoá, dịch vụ và nguồn lực mà họ phải chấp nhận, không được tác động đến. Mô hình kinh tế này nhấn mạnh đến cạnh tranh hoàn hảo và bàn tay vô hình. Vai trò quản lý của Nhà nước không được nhấn mạnh, Nhà nước sử dụng các phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế để quản lý nền kinh
tế song chủ yếu phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản chi phối, không chú trọng tới những vấn đề xã hội.
Chính phủ ngày càng nắm nhiều quyền kiểm soát hơn đối với toàn bộ hoạt động kinh tế, không chỉ thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như các chính sách tài khoá và tiền tệ mà còn thông qua việc :
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “mệnh lệnh”
Tham gia trực tiếp ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế dưới hình thức các ngành công nghiệp được quốc hữu hóa, các doanh nghiệp Nhà nước và các chương trình đầu tư công cộng.
Kế hoạch hoá kinh tế, điều tiết hoạt động của các công ty tư nhân, đánh thuế các nhà tư doanh và các doanh nghiệp.
Tiến hành và điều tiết các hoạt động ngoại thương…
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng “thị trường” :
Trên nhiều phương diện, “bàn tay vô hình ” của cơ chế thị trường đã được thay bởi “bàn tay hữu hinh” chỉ đạo của Chính phủ trung ương như một lực lượng kinh tế chủ yếu trong những xã hội tư bản chủ nghĩa này. Nhà nước sử dụng cả phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế để quản lý nền kinh tế.
Đây là nền kinh tế không chỉ dựa trên chế độ sở hữu công cộng đối với toàn bộ các nguồn lực của sanr xuất mà còn dựa trên việc thay thế hoàn toàn cơ chế giá thị trường bằng việc kế hoạch hoá tập trung toàn bộ các hoạt động kinh tế. Tất cả các loại giá cả đều do Nhà nước quyết định. Các kế hoạch tổng thể cho toàn quốc cũng như cho từng vùng được Nhà nước tạo lập ra hàng năm. Nhu cầu và khả năng sẵn có về nguồn lực được cân đối bởi những quyết định phân bổ của Trung ương chứ không phải bởi những tín hiệu của giá cả trong hệ thống thị trường. Trong nền kinh tế này, Nhà nước chỉ sử dụng phương pháp quản lý hành chính và còn rất nhiều hạn chế làm cho nền kinh tế bị kìm hãm không phát triển được.
Trong nền kinh tế hỗn hợp giữa thị trường và kế hoạch hoá :
Các hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường cố gắng hội tụ những tinh hoa của cả hai chế độ : tính đơn giản của cơ chế giá tự động và hiệu quả của chủ nghĩa tư bản thị trường cùng với chủ nghĩa bình quân của hình thức xã hội chủ nghĩa đối với các tư liệu sản xuất và phân phối. Công tác kế hoạch hoá của
Trung ương đóng vai trò kiểm soát trực tiếp. Nhà nước sử dụng kết hợp cả các phương pháp kinh tế và phương pháp hành chính.
đây, những mức độ khác nhau về sở hữu tư nhân đối với các nguồn lực tồn tại song song với quy mô đáng kể của sở hữu Nhà nước và sự tham gia của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Có sự tồn tại song song của hình thức phân bổ nguồn lực và sản phẩm bởi thị trường và giá cả do Nhà nước quy định, cùng với hình thức kế hoạch hoá tập trung và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của nền kinh tế bởi Nhà nước.
là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất với hai hình thức Nhà nước và tập thể là chủ yếu, đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hàng loạt các biện pháp cải cách chính sách kinh tế vĩ mô đã được thực hiện, tạo lập được đồng bộ các yếu tố thị trường, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tài chính, tiền tệ và giá cả. Nhà nước tham gia vào quá trình quản lý kinh tế với tư cách là nhà quản lý vĩ mô, Nhà nước điều tiết các hoạt động thị trường, giữ cho nền kinh tế phát triển ổn định đi theo đúng định hướng do Đảng, Nhà nước đã vạch ra. Nhà nước sử dụng tổng hợp các phương pháp đã nêu ở trên để quản lý nền kinh tế quốc gia, trong đó phương pháp kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất ( khác hẳn với trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì phương pháp hành chính được sử dụng chủ yếu ). Nhờ vậy trong những năm qua nền kinh tế Việt nam đã có những bước phát triển vượt bậc, theo đúng định hướng XHCN.
Trong những năm tới đây, để nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước,chúng ta cần tiếp tục thực hiện đổi mới, sắp xếp và kiện toàn bộ máy Nhà nước và đặc biệt là củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Có như vậy Nhà nước mới đủ thực lực và sức mạnh kinh tế và quản lý để thực hiện tốt vai trò là bà đỡ cho nền kinh tế phát triển, thực hiện tốt chức năng người quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phíCác Phương Pháp Quản Lý Kinh Tế. Trình Bày Phương Pháp Kích Thích Kinh Tế Trong Quản Lý. Cho Ví Dụ Minh Hoạ.
Các phương pháp quản lý kinh tế. Trình bày phương pháp kích thích kinh tế trong quản lý. Cho ví dụ minh hoạ.. Giải đáp 2 câu hỏi ✅về lý thuyết quản lý kinh tế hay trong thời gian thi công chức thuế:
Các phương pháp quản lý kinh tế. Trình bày phương pháp kích thích kinh tế trong quản lý. Cho ví dụ minh hoạ.
Hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Có thể sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các công cụ đó như thế nào? Ví dụ thực tế để phân tích cơ chế tác động của 1 công cụ vào hoạt động của nền kinh tế mà anh (chị) nắm vững.
Phương pháp quản lý kinh tế là tổng thể các cách thức và biện pháp quản lý có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hoạt động quản lý kinh tế nhà nước có thể và cần phải thực hiện đồng thời 3 phương pháp chủ yếu, đó là:
+ Phương pháp kích thích kinh tế.
+ Phương pháp thuyết phục, giáo dục.
1. Phương pháp kinh tế là cách tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối tượng quản lý lựa chọn phương án hoạt động sản xuát kinh doanh có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.
2. Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động, điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh tế không phải bằng cưỡng chế, mệnh lệnh hành chính mà bằng lợi ích. Có nghĩa là dùng cái lợi (lợi nhuận) mà các doanh nghiệp, doanh nhân ham muốn làm động lực để hướng hành vi của họ đi theo mục đích mong muốn của nhà nước.
3. Nhà nước sử dụng các công cụ kích thích kinh tế:
+ Các công cụ của chính sách tài chính: Thuế và chi tiêu Chính phủ.
+ Các công cụ của chính sách tiền tệ: Kiểm soát mức cung tiền và lãi suất
+ Các công cụ của chính sách thu nhập: Giá cả và tiền lương.
+ Các công cụ của chính sách thương mại: Thuế nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu, tỷ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế.
4. Vai trò của phương pháp kinh tế:
+ Thông qua việc vận dụng phương pháp kinh tế nhà nước tạo ra áp lực kinh tế và kích thích kinh tế cần thiết đối với các chủ thể nhằm động viên tính tích cực của họ để đạt được mục tiêu nhà nước đề ra.
+ áp dụng phương pháp kinh tế cũng có nghĩa nhà nước tác động 1 cách gián tiếp vào nền kinh tế làm nó vận động theo các qui luật khách quan và hướng tới mục tiêu mong muốn.
+ Trong nền kinh tế thị trường thì phương pháp kinh tế phải chiếm vai trò chủ đạo trong việc vận dụng các phương pháp trong quản lý nhà nước về kinh tế.
5. Phương pháp kinh tế được sử dụng trong những trường hợp sau:
+ Có khả năng tạo ra sự đồng chiều về lợi ích của đối tượng quản lý và của nhà nước, tức là khi nhà nước đưa ra các tình huống, các nhiệm vụ và các điều kiện vật chất để kích thích phải làm sao đảm bảo được là nếu các doanh nghiệp, doanh nhân thực hiện những nhiệm vụ đó thì vừa đem lại mục tiêu của nhà nước, đồng thời chính họ cũng phải có lợi. Nếu chỉ đem lại lợi ích cho nhà nước còn bản thân họ chẳng được gì hoặc được quá ít thì không bao giờ kích thích được Họ.
+ Khi nhiệm vụ của nhà nước đưa ra có thể lựa chọn được. Điều này có nghĩa là với mong muốn của nhà nước đặt ra, nếu các doanh nghiệp thực hiện được thì rất tốt nhưng nếu chưa thực hiện được ngay thì cũng chưa ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước. Còn trong trường hợp nếu việc thực hiện đòi hỏi bức xúc, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi íhc của đất nước thì nhà nước không thể dùng biện pháp kích thích kinh tế mà phải dùng biện pháp hành chính để bắt buộc đối tượng quản lý thực hiện.
6. Những yêu cầu khi thực hiện phương pháp kinh tế:
+ Phải hoàn thiện các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường.
+ Phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho cấp dưới.
+ Đòi hỏi cán bộ quản lý phải có 1 trình độ và năng lực về nhiều mặt.
* Ví dụ minh hoạ: (tự cho)
1. Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
2. Công cụ quản lý của nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
3. Hệ thống công cụ quản lý kinh tế của nhà nước bao gồm các nhóm:
a. Công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu của quản lý:
+ Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
+ Tiêu chuẩn, chất lượng, qui cách sản phẩm.
+ Chương trình, dự án.
b. Công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự, hành vi trong các quan hệ kinh tế khi thực hiện các mục tiêu nói trên bao gồm: Hiến pháp; các đạo luật, các nghị quyết của Quốc hội; nghị quyết, nghị định của Chính phủ và quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, thông tư, chỉ thị của các Bộ và cơ quan thuộc Bộ.
c. Công cụ thể hiện các tư tưởng, quan điểm của nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã dề ra: Chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách ngoại thưong (thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá…).
d. Các công cụ vật chất thuần tuý bao gồm:
+ Đất đai, rừng núi, sông hồ, các ngồn nước.
+ Tài nguyên trong lòng đất.
+ Các nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa.
+ Hệ thống Ngân hàng Trung ương.
+ Kho bạc Nhà nước.
+ Hệ thống dự trữ, bảo hiểm quốc gia.
+ Doanh nghiệp nhà nước và vốn và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp.
e. Công cụ để sử dụng các công cụ nói trên:
+ Bộ máy quản lý nhà nước.
+ Cán bộ, công chức nhà nước.
Khái Niệm Và Các Phương Pháp Quản Lý Hành Chính Nhà Nước
Quản lí hành chính nhà nước (QLHCNN) là gì? Khái niệm quản lý hành chính nhà nước, các phương pháp quản lý hành chính nhà nước hiện hành theo quy định mới nhất năm 2023.
Quản lí hành chính nhà nước (QLHCNN) là quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành pháp hoặc QLHCNN là một hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. Hoạt động quản lí này được các chủ thể có thẩm quyền thực hiện thông qua những phương pháp QLHCNNnhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết. Có bốn phương pháp QLHCNN bao gồm phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.
+ Phương pháp QLHCNN là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý.
+ Những phương pháp quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước được thể hiện dưới những hình thức QLHCNN nhất định (ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật…) và được tiến hành trong giới hạn do pháp luật quy định.
– Các phương pháp quản lý phải có khả năng quản lý lên các lĩnh vực chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước.
– Phương pháp quản lý phải đa dạng, thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau.
– Phương pháp quản lý phải có khả năng đem lại hiệu quả cao.
– Phương pháp quản lý phải mềm dẻo và linh hoạt.
– Phương pháp quản lý phải có tính sáng tạo.
– Phương pháp quản lý phải hoàn toàn phù hợp với đường lối chính trị quy định chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ thể.
Các phương pháp QLHCNN bao gồm phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.
+ Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
+ Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh… làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.
+ Chủ thể áp dụng phương pháp cưỡng chế phải là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như: cơ quan công an, ủy ban nhân dân…
+ Đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định như: cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
+ Cưỡng chế hình sự: là biện pháp cưỡng chế do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi phạm tội.
+ Cưỡng chế dân sư: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm dân sự, gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể hoặc công dân.
+ Cưỡng chế kỷ luật: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với những cán bộ công chức có hành vi vi phạm kỷ luật nhà nước.
+ Cường chế hành chính: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục đích ngăn chặn hay phòng ngừa các vi phạm pháp luật…
+ Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng cách đơn phương quy định nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.
+ Phương pháp này được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật. Các quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể quản lý do pháp luật quy định. Ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp chỉ được ra chỉ thị, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khuôn khổ, chức năng, quyền hạn của mình do pháp luật quy định.
Tóm lại, phương pháp hành chính là phương thức tác động đến cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý thông qua quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh và sự phục tùng.
Luật sư tư vấn pháp luật trong quản lý hành chính trực tuyến qua tổng đài:
+ Đây là phương pháp tác động gián tiếp đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế như việc quy định chế độ thưởng, xử phạt.
+ Phương pháp kinh tế được thể hiện trong việc sử dụng đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
Cập nhật thông tin chi tiết về Tổng Quan Các Phương Pháp Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!