Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Bún Làm Từ Gì? Phụ Gia Cho Bún Tươi được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong ẩm thực châu Á, bún là loại thực phẩm dạng sợi tròn, mềm, tạo sợi qua khuôn và luộc chín trong nước sôi. Là một nguyên liệu, thành phần chủ yếu để chế biến nhiều món ăn mà tên món ăn thường có chữ bún ở đầu. Như bún cá, bún mọc, bún chả, bún thang, bún qua cầu Vân Nam (Trung Quốc), bún Laksa (Malaysia), bún bò Nam Bộ, bún bò Huế, bún thịt nướng,… Bún là một trong những loại thực phẩm phổ biến nhất trong cả nước, chỉ xếp sau các món ăn dạng cơm, phở. Cùng tìm hiểu xem bún làm từ gì và phụ gia sử dụng trong bún tươi.
Bún làm từ gì – Nguyên liệu
Để tạo ra sợi bún thơm ngon cần sử dụng hai nguyên liệu chính: Gạo tẻ và muối
Gạo tẻ
Bún được làm từ gạo tẻ, hay nói chính xác hơn là tinh bột gạo tẻ được chắt lọc qua quá trình lên men. Gạo sau khi thu mua về sẽ được ngâm trong bồn từ vài tiếng, đem nghiền mịn rồi chắt bỏ nước chua để thu được tinh bột gạo.
Thông thường, gạo được chọn làm bún là loại gạo “nở” được xay xát từ thóc cũ đã lưu kho từ 1 tháng đến 6 tháng. Sở dĩ chọn gạo cũ là do gạo cũ có đặc tính nở, xốp, khô, không dính giúp sợi bún dai mịn, không bị dính khuôn.
Tỷ lệ giữa amylose và amylopectin sẽ quyết định tính dẻo của nguyên liệu khi nấu chín và độ nhớt của dung dịch tinh bột trong nước. Hàm lượng này thay đổi theo độ mới cũ của gạo.
Tiêu chuẩn cho gạo làm bún: Gạo dùng để làm bún là loại gạo tẻ cũ từ 3-6 tháng, trắng, có hàm lượng tinh bột cao, khô xốp, độ nát thấp, không bị mốc, không bị mọt, không lẫn tạp chất.
Muối
Tuy không phải thành phần chính nhưng muối lại đóng một vai trò rất quan trọng cho việc hình thành sợi bún.
Muối nhiều sẽ ức chế quá trình hoạt động của vi sinh vật, nguyên nhân làm hư hỏng bún. Tuy nhiên, nồng độ các phân tử trong muối cao có thể ảnh hưởng đến các liên kết khác có trong gạo, khiến hạt gạo dễ bị trương nở quá mức.
Nồng độ muối vừa phải sẽ giúp ức chế vi sinh vật. Đồng thời hỗ trợ làm các liên kết trong hạt gạo chặt chẽ hơn, hạt gạo khó trương nở hơn.
Nồng độ muối quá thấp thì sẽ khó bảo quản bún được lâu (vi sinh vật phát triển). [ Theo Wikipedia]
Phân biệt bún và phở
Bún và phở cùng làm từ bột gạo tẻ nhưng có một số đặc điểm khác nhau như sau:
Thứ nhất, rõ ràng nhất về mặt hình thức, bún sợi nhỏ, tiết diện tròn, màu trắng tinh, phở sợi to, dẹt, tiết diện hình chữ nhật, màu trắng đục.
Thứ hai, bột gạo làm bún sau khi đẩy qua lỗ nhỏ thành sợi được thả ngay vào nồi nước sôi luộc khoảng một phút còn phở thì phải hấp, tráng như bánh cuốn rồi mới cắt sợi.
Thứ ba, bột bún phải được lên men còn bột phở xay ra phải nấu ngay cho khỏi chua.
Phân biệt bún và một số thực phẩm dạng sợi khác
Về cơ bản bún, mì sợi, bánh phở, bánh đa, miến hay hủ tiếu khô đều sử dụng tinh bột của ngũ cốc, chủ yếu là gạo tẻ. Chúng có quy trình làm bột và ra thành phẩm gần tương tự nhau. Tuy vậy, giữa chúng ít nhiều có sự phân biệt nhất định theo thành phần nguyên liệu hoặc phương thức chế biến: Bún được làm thủ công, sử dụng tinh bột gạo tẻ, sợi có tiết diện tròn, mềm. Mì sợi dùng tinh bột gạo tẻ hoặc bột mì, đôi khi kết hợp với một số nguyên liệu khác như trứng (mì trứng). Mì được cắt sợi vuông hoặc sợi tròn nhỏ và thường được phơi khô. Bánh phở dùng tinh bột gạo tẻ, tráng mỏng và cắt thành sợi dài.
Bánh đa có cách làm gần tương tự như bánh phở nhưng có thể kết hợp với cả bột đao, và thành phẩm thường được phơi khô; có loại bánh đa như bánh đa cua dùng bột gạo kết hợp với thịt cua, phơi khô. Miến có sợi tiết diện hình vuông nhỏ, thường làm từ bột đao, bột dong, phơi khô thành phẩm. Một sản phẩm khác, thịnh hành tại miền Nam Việt Nam, gần tương tự như bún là món hủ tiếu, tuy có sợi nhỏ, dai và dài nuột hơn sợi bún.
Bún làm từ gì? Phụ gia cho bún tươi
Phụ gia bảo quản Nasa R102 plus
Sản phẩm giúp kéo dài thời gian sử dụng bún, hạn chế việc hư hỏng do vi sinh vật.
Thông thường quá trình ép nước chua sẽ diễn ra trong một thời gian khá lâu, khiến thời gian sản xuất bị kéo dài ra và thời gian sử dụng của bún bị ngắn lại. Để khắc phục nhược điểm trên, người ta có thể thay cách ép nước chua truyền thống bằng máy ly tâm. Tuy nhiên, không phải cơ sở nào cũng có điều kiện để thay đổi về công nghệ, máy móc.
Một phương pháp khá đơn giản khác thường được sử dụng đó là sử dụng hợp chất bảo quản. Lúc trước, các cơ sở thường lựa chọn benzoate để tăng thời gian sử dụng bảo quản của sợi bún. Tuy nhiên, sản phẩm này lại phải sử dụng ở một hàm lượng tương đối nhiều (1 g/ 1kg bột ướt). Ngoài ra, những năm gần đây, người dân đã có xu hướng sử dụng thực phẩm sạch, ít sử dụng phụ gia vô cơ, hóa chất.
Từ những nguyên do trên, dòng sản phẩm bảo quản Nasa R102 Plus ra đời. Nó đáp ứng được những yêu cầu cần thiết cho một loại bảo quản.
Sản phẩm có thành phần từ các muối hữu cơ.
Hiệu quả bảo quản cao, tuyệt đối an toàn cho người sử dụng.
Một ưu điểm lớn của Nasa R102 Plus là hàm lượng sử dụng rất thấp (
100g cho 300kg bột ướt
), giúp đảm bảo về mặt kinh tế cho cơ sở sản xuất.
Phụ gia tạo dai, chống gãy, làm khô bề mặt Gusto Lk07
Như đã đề cập ở trên, chất lượng gạo quyết định rất lớn đến sợi bún thành phẩm. Nếu gạo còn quá mới, sợi bún rất dễ dính lên băng tải. Ngoài ra, nếu gạo xấu thì sợi bún không có độ dai, rất dễ bị gãy.
Sản phẩm Gusto Lk07 với thành phần Phosphat giúp làm khô, ráo bề mặt. Phụ gia hỗ trợ làm dai, chống gãy cho sợi bún trong quá trình làm chín (hấp).
Hàm lượng sử dụng thấp, an toàn cho người sử dụng và được Bộ Y tế cho phép là những ưu điểm nổi bật của Gusto Lk07.
Phụ gia làm trắng- Starfresh 9
Sản phẩm giúp tạo trắng cho sợi bún, tránh tình trạng xỉn màu, giúp hỗ trợ quá trình bảo quản cho bún. Hàm lượng sử dụng thấp (0.01-0.1 g/ kg bột ướt); sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm từ bột như bún, phở, bánh tráng…
CÔNG TY TNHH LUÂN KHA
95 Đường 4B, KP2, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân, TP.HCM
Bạn muốn đăng ký nhận mẫu thử hoăc muốn tư vấn thêm về sản phẩm.
Vui lòng liên hệ Ms Phượng Tiền: 0909.886.527
Email: sale5@luankha.com
Rất mong sẽ là đối tác đồng hành cùng quý khách hàng !!!
cách làm bún từ gạo xay
cách làm bún tươi truyền thống
cách làm bún tươi bằng máy
cách làm bún tại nhà không cần máy
bún vắt
miến làm từ gì
cách làm bún sạch tại nhà
kỹ thuật làm bún
Phở, Hủ Tiếu Hay Bún Bò
Thời tiết da vào Thu…là luc nhung mon an nuoc nhu la Pho, Bun Bo hay la Hu tieu My Tho…rat la duoc cac ba noi tro lua chon cho ngay cuoi tuan. Co lan toi di Michigan tham gia dinh Co ban TS…la nguoi sinh tai Hue…hom do Co da nau cho toi an mon Bun Bo Hue la mon an cua vung Song Huong Nui Ngu. Va mon Bun Bo Hue duoc noi den duoi day… Chuc Quy Ban vui …Viet Ha.
Bún bò Huế
Nước ta có 3 miền, mỗi miền có những món ăn khác nhau: Người Bắc ăn phở, người Nam ăn hủ tiếu, người Trung ăn bún bò. Nhìn chung như vậy. Dĩ nhiên vài nơi có những đặc sản khác như Quảng Nam có mì Quảng, Bình Định có bánh tráng, kể sao hết được.
Mì làm bằng bột mì, bún làm bằng bột gạo. Bột mì có nhiều ca-lo-ri hơn bột gạo nên người sinh sống ở xứ lạnh thường ăn mì, người xứ nóng ăn gạo. Ở xứ ta thì ngược lại, ngoài Bắc, ngoài Trung lạnh thì ăn phở, bún bò làm bằng bột gạo, miền Nam xứ nóng thì ăn hủ tiếu; mì làm bằng bột mì.
Có thể các món ăn nầy gốc gác từ bên Tàu di cư sang ta: Hoặc theo gót chân phiêu bạt của người Lạc Việt thuở xa xưa mà xuống lưu vực sông Nhị hoặc theo người Tàu chạy trốn nhà Thanh như Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài, Mạc Cửu mà ỏ định cưõ ở đồng bằng sông Cửu Long. Nghe chữ “hủ tiếu” thì rõ. “Hủ tiếu” đâu phải là tiếng của người Nam, nó là tiếng Tàu rặc được phiên theo âm Việt.
Phở là tiếng Tàu hay tiếng ta? Nhưng phở quả là món ăn gốc tự bên Tàu. Người Pháp không phiên âm tiếng phở. Toàn Quyền Đông Pháp Pasquier gọi nước mắm là “nước mắm”, không gọi nó là “xì dầu” hay dịch ra tiếng Pháp là một loại “xốt” lấy ra từ cá. Trong khi đó thì người Pháp gọi phở là “Soupe de Chinoise”. Sao lại là món “xúp” của Tàu. Họ từng thấy bên Tàu cũng có phở hay họ cũng bị ám thị rằng văn minh Việt Nam bắt nguồn từ trong văn minh Trung Hoa?
Nói như thế thì bún bò không có nguồn gốc ngoại lai. Bún bò là rất Việt Nam , rất “dân tộc”. Bún là tiếng ‘nôm’, không gốc gác họ hàng gì với tiếng Tàu cả. Bò là con bò, thịt bò, cũng là tiếng “nôm” không dính dáng gì tới “ngưu” là tiếng người Tàu gọi chung cả trâu lẫn bò. Miếng thịt bò ngênh ngang nằm trong tô bún thì gọi nó là thịt bò, không ai gọi nó là “ngưu nhục”.
Nếu phở là “Soupe de Chinoise” thì tô phở chắc phải theo chân người Lạc Việt hay Tàu mà xuống đất Nam Việt, tức là vùng sông Nhị ngày nay. Nói thế cũng chưa chắc đúng. Biết đâu sứ Việt Nam khi qua Trung Hoa thấy tô phở ngon mà rước về, không có cờ quạt, lọng che như người xưa đón quan trạng vinh qui mà phải học thuộc lòng cách nấu rồi dấu lén trong trí, như kiểu ông Trạng Bùng dấu hột bắp nếp (*) trong búi tóc để đem về nước Việt làm giống. Người Tàu thường tự khoe là nước của Thiên Triều, cao hơn các dân tộc chung quanh một bậc nhưng không mấy khi hào phóng mà chia cho chư hầu một hột giống bắp, giống đậu, hoặc cách chế biến một món ăn, một tô phở, mặc dù người Tàu bóc lột chư hầu không thiếu phần triệt để.
Về bún bò thì đâu có riêng gì Huế mới có. Quảng Trị cũng có bún bò vậy, còn Quảng Bình thì sao? Qua khỏi đèo Hải Vân, bún bò Đà Nẵng trở thành một món ăn “lưu lạc” nơi xứ lạ quê người. Nó nằm lu thu một mình, lạc lỏng giữa đám mì Quảng ồn ào như ở hải cảng Đà Nẵng nhưng lại chẳng cô đơn khi vào tới thủ phủ miền Nam.
Gốc gác tô bún bò là những cộng bún nằm trong tô thịt bò có nước xáo thịt bò mà không có thịt heo. Có lẽ miền Trung có những ngọn đồi thoai thoải thuận tiện cho việc nuôi bò, nhưng khi tô bún bò “định cư” ở Cố Đô thì nó có phần “thay da đổi thịt”. Bên cạnh bún và thịt bò, người ta thêm vào đó một miếng giò heo. Đó là những cái chân của con heo đã cạo trắng, không còn chút lông, cái móng già đã được lấy đi. Miếng giò heo được chặt làm đôi, mỗi bên mỗi móng vì chân heo chỉ có hai móng hoặc là một khoanh tròn phần trên của chỗ móng heo, đầy lên những da và thịt. Tại sao lại giò heo mà không là thịt heo, như tên gọi của nó: “Bún bò giò heo” (Không ai gọi “Bún bò thịt heo”). Lối ăn như thế là theo cách của người Tàu. Người Tàu cho rằng tinh chất của mỗi động vật tụ lại nơi chân của nó cho nên chân là phần bổ nhứt trong cơ thể con vật.
Do đó, chúng ta thấy nhiều món ăn làm bằng chân động vật bổ và ngon đáo để. Đó là món chân vịt nổi tiếng của nhà hàng “Lạc Quần” Chợ Lớn nằm trên đại lộ Trần Hoàng Quân hay món chân vịt của nhà hàng Quốc Tế, Cần Thơ. Một vài tiệm ăn nhỏ ở Hà Tiên cũng có món chân vịt nầy, giá rẻ vì tại các cù lao trong vịnh Thái Lan nằm gần Hà Tiên người ta nuôi nhiều vịt bằng thứ cá vụn ngư phủ đánh bắt được nhưng ít khi chở lên bán ở Saigon. Thi sĩ Nguyễn Hoàng Thu, tác giả tập thơ “Nét Gầy và Mây”, một người bạn tù cải tạo của tôi, kể cho nghe hồi anh làm lễ thành hôn ở Phước Long, nơi nầy người ta nuôi dê khá nhiều nhưng ít ai biết làm thịt dê. Một người Tàu biết nghề tình nguyện giúp anh bạn, chỉ đòi tiền công bằng bốn cái chân dê. Đã là thịt dê mà lại ăn bốn cái chân, không biết có ai kinh nghiệm để cho rằng nó hơn hay thua Viagra.
“Bò teo heo nở” là kinh nghiệm các bà đầu bếp. Vì vậy, trước khi bị miếng giò heo “bề thế” tấn công, các miếng thịt bò đã vội teo lại khi đôi đủa của người đầu bếp lật qua lật lại chúng trong nồi thịt xáo. Không như thịt heo chặt từng miếng to, thịt bò được thái mỏng, không quá mỏng để khi nó teo lại người ta không thấy nó ở đâu cả, ướp gia vị tiêu hành nước mắm trước khi cho vào nồi xáo. Khi thịt bò vừa chín, người ta cho nó vào nồi nước bún bò.
Để nước xáo được trong, không như nồi nước lèo phở, nấu lần thứ nhứt sôi, nổi bọt thì đổ nước đi nấu lại; người nấu bún bỏ vào nồi một trái thơm gọt vỏ hoặc vài muỗng me khô, một bó sả. Tuy nhiên, người ta thường nấu với thơm hơn me chua vì chất thơm làm cho giò heo mau mềm mà vẫn dòn.
Ngoài miếng giò heo, tô bún bò Huế cầu kỳ hơn với những miếng chuối bắp xắt lát (*), với những cọng rau quế trắng mà người ta cho rằng thơm hơn cọng rau quế đỏ. Chất chát của chuối bắp sẽ đẩy những mỡ, gia vị ra khỏi lưỡi, để cho cái lưỡi được “sạch”, miếng thịt heo ăn tiếp sau sẽ ngon hơn. Các thứ thịt trong tô bún bò giò heo không có mùi tanh, kể cả miếng giò heo to, nó có mùi béo ngậy, kích thích giác quan người ăn. Cho nên có người ăn bún bò, không như khi ăn phở, không cần ăn thêm rau quế. Rau chỉ làm cho miếng ăn thơm hơn. Người nấu bún bò không mua loại heo nuôi theo kiểu công nghiệp. Giò heo họ nấu phải là thứ heo cỏ, lông đen, nhỏ con do người ta nuôi theo lối thủ công. Giò heo không lớn quá, mỡ không nhiều quá, da không dày quá mà lại dòn, nước ngọt. Bún bò giò heo là món ăn của người Huế, nói riêng. Người Huế lại thích ăn ớt. Người Nam Kỳ ít thích ăn ớt, thấy tô bún ngon nhưng chỉ cứ ngồi nhìn, không dám đụng đũa. Trên mặt nồi bún là một lớp váng đỏ au do ớt bột tao với mỡ. Mặc dù người bán bún đã lấy cái vá chao trên mặt nồi cho váng ớt tan ra hai bên trước khi múc nước cho vào tô bún, bề mặt tô bún vẫn là một lớp ớt đỏ lóng lánh mỡ. Thế mà trên bàn, đôi khi còn có thêm một dĩa ớt sừng trâu hay ớt mọi (ớt hiểm) hay một chén tương ớt. Vừa ăn, thực khách vừa xuýt xoa vì cay, có khi toát mồ hôi, rớm nước mắt, trong cái bấc lạnh của vùng Châu Á Gió Mùa từ biển Đông thổi về mới đúng với cái thú ăn bún bò trong mùa lạnh.
Khi chiến tranh lan tràn rộng hơn, nhiều người miền Nam ra phục vụ ngoài Trung, người ta bỗng thấy xuất hiện những tô bún bò có giá sống. Thế là không xong rồi. Khó có thể có sự hòa hợp hòa giải “loạn xà ngầu” giữa tô phở Hà Nội, tô bún bò giò heo Huế và tô hủ tiếu Nam bộ. Thật đấy, người khó tính chẳng bao giờ chịu một tô bún bò giá sống nửa Nam nửa Trung. Ăn bún bò Huế không ít khi tôi nhớ tới bún bò Quảng Trị, quê tôi. Bún bò Quảng Trị “Chơn chất” hơn. Bún bò là bún bò, không có cái đuôi “giò heo” theo sau.
Khi tôi mới lớn, ăn bún bò, thấy nồi nước xáo của mấy chị, mấy mự (mợ) mấy dì bà con xa gần bên ngoại tôi là nồi đất, chưa “hiện đại” như sau nầy để có nồi nhôm. Bún làm bằng gạo trắng, nhiều khi gạo đỏ, và cọng bún lại nhỏ hơn cọng bún của tô bún bò Huế. Thuở ấy, cả thị xã chỉ có mấy tiệm ăn, người ta bán phở: phở nước phở xào chớ không bán bún bò bao giờ. Muốn ăn bún bò, phải ăn bún gánh của những người đi bán dạo. Sau nầy, khi tôi xa xứ rồi mới nghe nói tới những quán bún bò giò heo bên bờ sông Thạch Hãn, gần Ty
Thông Tin, hay bún bò giò heo trên đường Phan Thanh Giản như người ta nói. Với Huế, người ta có thể nhắc tới Vĩ Dạ qua hình ảnh “Thuyền chở trăng”, “Hoa bắp lay”, hay “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” như trong thơ Hàn Mặc Tử. Quả thật tôi không về Vĩ Dạ để xem trăng ở vườn nhà ai mà lại chui vào chợ Vĩ Dạ ăn bún bò viên. Bún bò viên không có giò heo, mà chỉ có những viên thịt bò to gần bằng ngón chân cái, ăn một lần, nhớ một đời. Nó không phải là thứ thịt bò xay như ở Saigon hay bên xứ Mỹ nầy. Người ta xắt nhỏ miếng thịt bò rồi bỏ vào cối đá quết cho thật nhuyễn như làm nem chã. Quết xong, miếng thịt dính chặt vào nhau như miếng cao su non. Thịt xay thường rã rời, không dính chặt với nhau như miếng thịt quết. Sau đó, người bán nêm gia vị sao cho vừa miệng người ăn. Làm việc nầy, người chủ không cần dấu nghề như các tiệm nem chả của người Bắc ở Saigon, nhưng nêm sao cho được ngon là rất điều khó cho ai muốn học nghề. Tôi biết ăn bún bò viên Vĩ Dạ chỉ là một sự tình cờ. Thưởng thức món ngon ấy chưa được bao lâu thì xảy ra biến cố tết Mậu Thân, tôi đành nhập ngủ, để lại phía sau những tô bún bò viên từ bấy đến nay chưa từng được trời cho hưởng lại cái lộc ăn ấy một lần nữa. Tôi vốn dĩ có tính bướng. Đi ăn giỗ nhà bà con, tôi không ưa những món chay giả mặn. Ăn chay mà cũng có món nem, chả, sườn, giò và cả bún bò giò heo. Món ăn chay không ngon hay tôi có định kiến với những món ăn giả mặn đó. Mấy năm làm “giáo tại gia” nhà một ông chú họ, mỗi rằm và mồng một cả nhà ăn chay, nếu nhằm ngày nghỉ không bận đi học, thế nào tôi cũng ra quán bún bò Mai Lợi phía ngoài cửa Đông Ba, bên cạnh vườn hoa, cách nhà tôi không xa để ăn một tô bún bò mà tôi thường gọi đùa là “Trả thù đời”. Đời bắt tôi tu nhưng chẳng bao giờ tôi chịu tu. Với bao nhiêu tô bún bò trong đời, khi xuống địa ngục chắc tôi sẽ ở tầng chót và kiếp sau hóa thành “Trư Bát Giới”. Biết đâu đó lại là điều vui!
Bún bò giò heo Huế cũng mang “Tính giai cấp” như trong cộng đồng nó hiện hữu. Càphê Lạc Sơn là nơi lui tới của những người có tiền có bạc, công chức, sĩ quan thì bún bò ở đây tô vừa to, cục giò cũng vừa to và làm nhẹ túi tiền của khách thưởng thức. Muốn ăn tô bún ngon thật sự thì lên quán cô Ba đầu dốc Nam Giao hay bún bò Mụ Rớt ở Ngự Viên. Bún bò Ngự Viên mới xuất hiện khoảng đầu thập niên 1960, khi Ngự Viên không còn nữa, đã biến thành một xóm lao động nhà cửa chen chúc. Nghĩ tội nghiệp cho các công chúa, cung phi ngày xưa. Hồi ấy làm gì có bún bò Ngự Viên cho vua “ngự” hay các nàng dùng để “thời”.
Cảnh “tang thương” ấy ngày xưa công chúa cung phi gánh chịu đã đành, người đời nay đâu tránh khỏi. Tết Mậu Thân, ông Rớt bị Việt Cọng bắn ngay trước cửa nhà ông, vì tội ông ta bán bún bò ngon cho “tên ngụy ăn vào cho sảng khoái để mạnh tay đánh phá cách mạng” như họ thường lý luận một cách triệt để hay ông có tham gia đảng phái Quốc Gia mà họ gọi là “phản cách mạng”. Tới tiệm mụ Rớt ăn tô bún, chưa chắc người ta quên đi hình ảnh ông Rớt bị bắn chết nằm chèo queo trên mặt đường, mất đi cái vui thuở binh đao chưa về tận xóm Ngự Viên nầy.
Vốn có cuộc sống “kín cổng cao tường”, các bà các cô gái Huế không mấy khi ra ngồi tiệm ăn bún bò. Cắn miến thịt heo to, ớt đỏ dính quanh mồm, vừa ăn vừa hít hà hay xì xụp giữa chỗ đông người là việc không mấy khi họ chịu làm. Thế nhưng không phải họ không được ăn những tô bún ngon. Họ ở nhà ăn bún gánh, là bún của những người gánh bán dạo từng nhà. Đừng tưởng rằng những tô bún gánh nầy ít ngon. Thật ra, có gánh còn ngon hơn cả bún bò mụ Rớt hay cô Ba. Người sành ăn không ăn bún gánh sớm. Họ chờ hơi trưa, khi bụng đói hơn chút nữa, khi nồi nước xáo rặc bớt nước, cô lại. Đó là lúc “cao điểm” của một tô bún bò ngon. Mỗi người bán gánh có một khu vực riêng, coi như giang sơn của họ, một thứ luật bất thành văn, người ở giang sơn bên cạnh ít khi xâm lăng vào. Do đó, trong những người bán bún gánh với nhau, không có chuyện cải cọ tranh giành khách ăn. “Cộng đồng bún bò gánh” đó có trật tự kỷ cương hơn bất cứ một cộng đồng người Việt nào.
Buổi sáng, khi trời còn mờ mờ, người ta thấy các chị, các dì gánh những gánh bún bò nối đuôi nhau từ phía bên kia cầu An Cựu, cống Phát Lát như một toán lính hành quân đi dọc theo một trục lộ. Lò than còn cháy đỏ xua bớt chút lạnh còn vướng vất của buổi sớm mai, có khi bếp lửa còn khói tuông ra, loảng dần trong không khí. “Đạo quân bún gánh” đó qua khỏi cầu An Cựu tỏa ra nhiều nhánh, rẽ tay trái lên An Lăng, Phú Cam, Bến Ngự, Nam Giao, Ga Huế, hay rẽ phải xuống Vĩ Dạ, chợ Cống. Đông nhứt vẫn là những gánh bún vượt qua cầu Trường Tiền xuống phố Đông Ba, Ô Hồ, qua Gia Hội hay lên Thượng Tứ, tiến chiếm các mục tiêu trong nội thành, vào tận Lương Y, Tây Lộc. Nếu tò mò hỏi, chúng ta biết hầu hết những người bán bún gánh đều ở xóm An Cưụ. Đó là nghề truyền thống của một cái xóm nhỏ, nổi tiếng như loại “nem An Cựu” nếu so với “nem Thủ Đức” thì Thủ Đức thua xa.
Vào Saigon, nhớ Huế, đố ai khỏi nhớ tô bún bò Huế. Người ta có thể ghé quán Hạnh Lợi trên đường Hiền Vương, gần ngã tư Pasteur để “làm một chầu cho đã nhớ”. Hạnh Lợi có nhiều món ăn Huế: Nem chả, bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc bọc tôm thịt nhưng tôi chỉ thích có bún bò. Nó là Huế bậc nhứt trong những món ăn Huế. Chã ở đây vẫn ngon hơn chã Quốc Hương trên đuờng Trần Hưng Đạo. Chả Huế làm bằng thịt quết, không thêm bột nên miếng chả vị ngọt hơn. Người Saigon cái gì cũng vội: Ăn vội, đi vội, nói vội theo cuộc sống văn minh. Họ không có thì giờ ngồi nhâm nhi miếng chã để phân biệt cái nào là thịt, cái nào là bột lạt lẽo trong miếng chả đang ăn.
Nếu chỉ muốn ăn có mỗi một món bún bò, người ta đến “Bún Bò Quốc Việt” trên đường Lê Văn Duyệt, chỗ gần cuối đường. Quán nầy trông có vẽ bình dân, ghế bàn xộc xệch, dành cho lính tráng gốc Huế hơn là khách văn nhân; nhưng tô Bún Bò Quốc Việt không kém tô bún bò Huế chính cống. Năm 1970, tôi có cô bạn nữ quân nhân người Nam, tên là Nguyễn T. Thanh Nh. làm việc cùng cơ quan, một người hễ khi tôi nói gì về Huế thì vễnh tai, tròn xoe hai mắt như cố ghi vào trí vào lòng những gì tôi nói. Một lần tôi đãi cô ăn bún bò ở đây. Nghe ăn bún bò, cô ta thích lắm, muốn “ăn cho biết”. Nhưng khi tô bún được bưng ra thì cô ta chỉ ngồi nhìn, không dám cầm đũa. Hỏi, cô ta trả lời: “ỚÙt thế làm sao ăn, sợ quá!”
Sau 1972, vì sợ chiến tranh, người Huế khăn gói vào sống Saigon nhiều hơn nên trong hành trình Nam Tiến của họ có mang theo hình ảnh tô bún bò Huế. Do đó, sau 1972, Saigon bỗng rộ lên nhiều tiệm bún bò. Saigon đã bị Huế xâm lăng cũng như mấy trăm năm trước, tô hủ tiếu gốc Tàu chế ngự thị trường ăn uống Saigon. Bún bò cũng không sống nỗi với Cọng Sản, chúng cũng vượt biên và nhờ lòng ưu ái của nền đa văn hoá Mỹ, tô bún bò giò heo Huế nay đã định cư ở Cali và vài nơi khác, chưa biết bao giờ nhập quốc tịch Mỹ.
Tôi ước ao tô bún bò sẽ không bị Mỹ hóa: Thêm một miếng Hamberger chẳng hạn. Dù sao, tô bún bò khi chưa bị Mỹ hóa thì vẫn còn bản sắc dân tộc Việt, bưng tô bún bò, nuốt những sợi bún phải chăng là nuốt vào lòng “sợi nhớ sợi thương”./ (*) Dẻo như cơm nếp. Có khi người ta gọi là bắp trắng theo màu sắc. (*) Bắp chuối xắt thành từng lát thật mỏng. Món ăn rất thông dụng của người Việt ăn sống hoặc nấu canh chua như người Nam.
Chiết xuất từ http://baomai.blogspot.com/
Share this:
Like this:
Like
Loading…
Tìm Hiểu Giá Máy Làm Kem Tươi Để Kinh Doanh Kem
đắt hay rẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Mua được Giá máy làm kem tươimáy làm kem tươi giá rẻ chưa hẳn đã là “của ôi”. Ngược lại, sở hữu máy làm kem tươi đắt đỏ cũng chưa chắc cho hiệu quả tốt nhất. Mức giá máy như thế nào là phù hợp để bạn đầu tư kinh doanh kem?
1. Các yếu tố quyết định giá máy làm kem tươi
Máy làm kem tươi đến từ những thương hiệu nổi tiếng, uy tín sẽ có giá bán cao hơn. So với máy làm kem thương hiệu Việt, máy nhập khẩu nguyên chiếc từ nước ngoài cũng đắt đỏ hơn. Các thương hiệu máy làm kem ít tiếng tăm, thậm chí không rõ xuất xứ có giá bán rất rẻ. Chọn mua máy làm kem có thương hiệu, bạn sẽ được bảo đảm về chất lượng, chính sách bảo hành.
Báo giá máy kem còn tùy thuộc vào chất lượng model máy. Model công suất và kích thước nhỏ, ít tính năng có giá rẻ hơn loại cao cấp. Tuy nhiên, không phải máy có nhiều tính năng và công suất lớn là loại máy chất lượng nhất. Chất lượng máy làm kem được đánh giá theo khả năng làm việc đáp ứng nhu cầu sử dụng. Bạn không nhất thiết phải mua loại máy cao cấp đắt tiền. Hãy chọn mua máy làm kem phù hợp nhất với mục đích sử dụng.
2. Chọn máy làm kem có giá bán và tính năng phù hợp
“Nghìn lẻ” thương hiệu, model và giá máy kem tươi có khiến bạn khó khăn lựa chọn? Thay vì mất nhiều thời gian tìm hiểu thị trường, bạn hãy nghiên cứu máy làm kem Hải Âu. Hải Âu là thương hiệu uy tín dẫn đầu thị trường máy làm kem tại Việt Nam. Với chứng chỉ châu Âu CE Marking, tiêu chuẩn ISO 9001:2015 và hàng loạt giải thưởng danh giá; Hải Âu xứng tầm là lựa chọn chất lượng khi mua máy làm kem.
Model HAK 322 máy làm kem Hải Âu
Kích thước máy làm kem HAK 322 nhỏ nhắn, thích hợp cho không gian nhỏ. Mức giá máy HAK 322 hiện đang là 33 triệu đồng. Sản lượng làm kem của máy đạt 18-25 lít/giờ. Thiết kế máy có 3 vòi ra kem, 2 ngăn chứa, có hệ thống làm kem tươi, công suất 1800W. HAK 322 có thể sử dụng làm kem trong gia đình, quán cà phê, nhà hàng nhỏ.
Kích thước model HAK 313 lớn hơn HAK 322, tuy nhiên máy không có hệ thống làm kem tươi. Công suất máy đạt 2000W, sản lượng 25-30 lít/giờ, có 3 vòi ra kem và 2 ngăn chứa. Kết cấu máy nhỏ gọn, có bánh xe di chuyển và giá máy làm kem tươi HAK 313 là 36 triệu đồng. Các quán cà phê, trà sữa, quán giải khát có thể sử dụng máy HAK 313 để thêm kem vào menu.
Sự đa dạng model máy làm kem Hải Âu thích hợp cho nhiều mô hình kinh doanh kem
Dòng máy làm kem Hải Âu HAK 323
Sản lượng làm kem, công suất của HAK 323 tương đương model HAK 313. Nhưng do máy có hệ thống làm kem tươi nên giá bán cao hơn, ở mức 41 triệu đồng. Mô hình kinh doanh kem phù hợp sử dụng model máy này là quầy kem trong trường học; khu vui chơi, trung tâm thương mại. Các tiệm bánh, trà sữa, quán cà phê, khách sạn cũng có thể chọn model HAK 323.
Giá model HAK 525 hiện nay là 70 triệu đồng; hoàn toàn tương xứng giá trị sử dụng của máy. Trong một giờ làm việc, máy có thể cho sản lượng 40-50 lít. Hệ thống 5 vòi ra kem với 3 ngăn chứa tiện lợi, công suất 3000W mạnh mẽ. Chức năng làm xốp kem của HAK 525 giúp kem tươi thêm thơm ngon tuyệt hảo.
Dòng máy làm kem Hải Âu HAK 635 cao cấp
Kích thước, sản lượng máy làm kem HAK 635 lớn nhất trong các model máy làm kem Hải Âu. Sản lượng 45-55 lít/giờ hoàn toàn đáp ứng nhu cầu sản xuất kem ở những mô hình đông khách nhất. Dù kích thước lớn nhưng máy không hề cồng kềnh, vẫn dễ dàng di chuyển nhờ bánh xe chắc khỏe. Tương xứng với các đặt tính này, giá máy làm kem HAK 635 là 78 triệu đồng.
Xử Lý Nước Thải Sản Xuất Bún Tại Đồng Nai ➡️ Tân Huy Hoàng
Hệ thống xử lý nước thải sản xuất bún hiệu quả
973 Lượt xem
Đánh giá post
Giới thiệu về hệ thống xử lý nước thải sản xuất bún ➡️ hiệu quả xử lý cao
Tổng quan về nước thải ngành sản xuất bún
Nước thải sản xuất bún bắt nguồn từ những công đoạn:
Xử lý gạo trước khi chế biến: nước thải trắng sữa, chứa nhiều tinh bột, vitamin, vi lượng,… chiếm khoảng 20 – 30%
Nước thải từ quá trình ngâm luộc chiếm 40% lượng nước.
Nước thải quá trình vệ sinh làm sạch máy móc và thiết bị.
Nước thải sản xuất bún có hàm lượng ô nhiễm chủ yếu từ các chất hữu cơ dễ phân hủy, các hàm lượng ô nhiễm khác như COD, BOD, N, P,.. vượt gấp nhiều lần với chỉ số cho phép. Bên cạnh đó, nước thải sản xuất bún còn gây ra nhiều mùi hôi khó chịu. Thiết kế xây dựng hệ thống xử lý nước thải sản xuất bún hiệu quả và tối ưu chi phí được rất nhiều cơ sở, làng nghề quan tâm.
Quy trình công nghệ xử lý nước thải sản xuất bún
Thuyết minh quy trình xử lý nước thải sản xuất bún
Nước thải sản xuất bún được đưa về hầm Biogas trước khi đi vào hệ thống xử lý. Hầm Biogas có nhiệm vụ xử lý các chất hữu cơ và giảm thiểu lượng khí thải độc phát sinh, loại bỏ các mầm bệnh đồng thời cung cấp một lượng khí đốt. Nước thải từ hầm Biogas sẽ tràn theo đường ống đến bể điều hòa.
Bể điều hòa: tại bể điều hòa được trang bị máy sục khí để cung cấp khí cho bể. Thực hiện điều hòa nồng độ và lưu lượng chất thải, tránh xảy trường hợp lắng cặn gây mùi hôi cho bể. Nước chảy qua bể Anoxic.
Bể Anoxic kết hợp với bể Aerotank xử lý khử tổng hợp các hàm lượng BOD, NH4+, khử NO3- thành N2,..nước thải từ bể Aerotank tuần hoàn trở lại bể Anoxic.
Bể lắng sinh học: nước thải di chuyển vào ống trung tâm xuống đáy bể sau đó di chuyển từ phía lưới lên tràn qua máng cưa chảy qua bể khử trùng. Lượng bùn lắng xuống đáy bể sẽ được thu gom và xử lý định kỳ. Nước thải được dẫn đến bể khử trùng.
Tư vấn xử lý nước thải cho doanh nghiệp ➡️ Tân Huy Hoàng
Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Bún Làm Từ Gì? Phụ Gia Cho Bún Tươi trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!