Xu Hướng 12/2023 # Sự Thật Về Calcium Và Vitamin D # Top 21 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Sự Thật Về Calcium Và Vitamin D được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Mối liên hệ giữa sữa, calcium và loãng xương lại trở thành một vấn đề thời sự. Một chị bạn chuyền cho tôi xem một bài báo tiếng Việt [mà tôi cũng đã xem qua trước đây] nói rằng uống sữa có hại cho xương. Bài báo đó, cũng như bao nhiêu bài báo viết về khoa học ở VN, trích dẫn một cách có chọn lọc từ những bài báo phổ thông ở nước ngoài, và có vài thông tin chưa đầy đủ. Nói một cách ngắn gọn: người Việt chúng ta cần calcium để xây dựng bộ xương chắc, dẻo và khoẻ mạnh.

Vấn đề

“The countries with the highest rates of osteoporosis are the ones where people drink the most milk and have the most calcium in their diets. The connection between calcium consumption and bone health is actually very weak, and the connection between dairy consumption and bone health is almost nonexistent” (1).

Calcium và sức khỏe xương

Sự thật về mối liên hệ giữa sữa, calcium và xương ra sao? Để trả lời câu hỏi này, tôi phải điểm qua vài thông tin rất cơ bản [mà có lẽ đa số các bạn cũng đã biết] và đặt thông tin trong bối cảnh để thấy tầm quan trọng của calcium đối với bộ xương chúng ta. Tôi sẽ đánh số những đoạn văn để các bạn dễ theo dõi trong khi đề cập đến những thực tế trong phần sau của cái note này.

1. Calcium là một chất khoáng rất cần thiết không chỉ cho xương mà còn cho các cơ quan bộ phận khác.

Chúng ta cần calcium để xây dựng bộ xương lúc còn trẻ và duy trì bộ xương lúc về già. Chúng ta cần calcium để chuyển tải các tín hiệu thần kinh và kiểm soát nhịp đập của tim và cơ bắp. Ngoài ra, cơ thể chúng ta cần calcium để cùng với vitamin D và fibronogen giúp đông máu. Do đó, cơ thể chúng ta mà thiếu calcium là rất nguy hiểm, không chỉ cho xương mà còn cho sự sống còn.

2. Xương chúng ta được cấu thành từ khoáng chất calcium và chất keo (collagen).

Khoảng 60% trọng lượng của xương là do calcium, và phần lớn còn lại la collagen và nước. Có hai loại calcium trong xương là calcium phosphate và calcium carbonate. Calcium giúp cho xương chúng ta chắc. Chất keo giúp cho xương dẻo dai.

3. Xương là “ngân hàng” của calcium 

Khoảng 99% hàm lượng calcium trong cơ thể chúng ta nằm trong xương và răng. Cũng có thể ví von rằng xương là một “nhà kho” chứa calcium. Còn 1% còn lại là lưu hành trong máu. Chúng ta không thể nào sống sót mà thiếu 1% đó!

4. Nồng độ calcium trong máu

Nồng độ calcium trong máu dao động rất thấp, chỉ khoảng 8.5 đến 10 mg/dL, nhưng nếu nồng độ này suy giảm chỉ một chút thôi là chúng ta … rất mệt và chết như bỡn. Khi nồng độ calcium trong máu suy giảm một số triệu chứng sẽ xuất hiện như móng tay dễ bị gãy, co giãn cơ bắp bị suy giảm, hay tê tay tê chân, mất trí nhớ, và ảo giác.

5. Vai trò calcium

Vì vai trò quan trọng của calcium, nên tất cả các hiệp hội về nội tiết, loãng xương, khớp, v.v. đều khuyến cáo mỗi ngày chúng ta nên tiếp thu khoảng 1000 mg calcium. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trung bình mỗi ngày người Việt chỉ tiếp thu khoảng 300-400 mg calcium mà thôi, và đó là một liều lượng quá thấp so với nhu cầu cơ thể chúng ta cần.

6. Chúng ta tiếp thu calcium chủ yếu từ hai nguồn: thực phẩm và bổ sung

Thực phẩm giàu chất calcium bao gồm sữa, rau xanh và đậu. Bổ sung calcium có thể mua từ các tiệm dược phẩm. Sữa là thực phẩm có hàm lượng calcium lớn nhất. Tính chung, cứ 200 ml sữa bò thì tương đương với 240 mg calcium; 200 ml yoghurt thì bằng 260 mg calcium; 200 ml sữa đậu nành tương đương với 210 mg calcium.

Calcium phải đi chung với vitamin D

Đó là những thông tin cơ bản, bây giờ tôi sẽ nói thêm về cơ chế và những mối tương tác giữa calcium, vitamin D, và một loại hormone quan trọng có tên là PTH. Khi nồng độ calcium trong máu bị giảm thì cả một hệ thống nội tiết được kích hoạt. Đầu tiên là tuyến cận giáp tiết ra hormone cận giáp (PTH); PTH kích thích tế bào huỷ xương osteoclasts để lấy calcium từ xương và thải ra hệ thống tuần hoàn. Do đó, khi PTH tăng trong máu thì đó là tín hiệu cơ thể cần calcium và mật độ xương đang suy giảm. Điều này cũng có nghĩa là nếu chúng ta không ăn uống đủ calcium và nếu cơ thể không hấp thu tốt thì chúng ta sẽ mất xương.

Hấp thu calcium cần đến một hormone khác: vitamin D.

Chúng ta sản xuất vitamin D từ da và thận, nhưng nguồn vitamin D chính vẫn là ánh nắng mặt trời. Khi da chúng ta tiếp xúc ánh nắng mặt trời, vitamin D sẽ qua hai giai đoạn chuyển hóa. Lần thứ nhất là qua gan để thành 25OHD (không active), và lần thứ hai qua thận thành1-25OHD (active). Chính 1-25OHD giúp hấp thu calcium. Tất cả sự tương tác giữa PTH, 1,25D, và tế bào huỷ xương hoạt động nhịp nhàng với nhau và liên tục để đảm bảo cơ thể chúng ta có đủ nồng độ calcium trong máu. Khi hệ thống này bị rối loạn, chúng ta sẽ mắc chứng cường cận giáp (PTH quá cao), hoặc suy cận giáp (PTH quá thấp), hoặc nhuyễn xương (osteomalacia), hoặc loãng xương (osteoporosis).

Những lí giải trên chỉ để nói lên một ý rất quan trọng rằng calcium phải “song hành” cùng vitamin D. Chúng ta có thể ăn uống giàu chất calcium, hay có thể bổ sung calcium, nhưng nếu thiếu vitamin D thì … cũng như không, vì calcium sẽ bài tiết ra đường nước tiểu hết. Điều này cũng có nghĩa là nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ xem xét đến calcium, hay chỉ xem xét vitamin D là sai lầm nghiêm trọng. Trong quá khứ đã có nhiều sai lầm như thế vì người ta (nhà khoa học) quên cái cơ chế sinh học của calcium và vitmin D. Một nghiên cứu khoa học chỉ có ý nghĩa khi xem xét cả hai calcium và vitamin D.

Chứng cứ về calcium và vitamin D đến xương

Nhưng trong y văn, không phải thông tin nào cũng có giá trị như nhau, mà chúng ta phải biết chọn lọc thông tin. Chỉ có những nghiên cứu công bố trên các tập san chính thống và có impact factor cao mới đáng tin cậy. Đó là những tập san JAMA, BMJ, NEJM, American Journal of Clinical Nutrition, Journal of Bone and Mineral Research, Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, Osteoporosis International, Bone. Còn những tập san có impact factor thấp hay “ngoại đạo” (như Bone Research của Tàu) thì không đáng đọc. Ngoài ra, còn phải xem xét tác giả là ai, xuất phát từ labo nghiên cứu nào trên thế giới. Những phân tích tổng hợp từ Tàu thì phải dè chừng vì họ làm chưa chắc tốt; chỉ có những nhóm nghiên cứu trong “bộ lạc” thì mới đáng quan tâm.

Dựa trên những tiêu chuẩn trên, chúng ta thử điểm qua vài phân tích tổng hợp trên các tập san quan trọng:

(a) Sữa và gãy xương.

(b) Calcium và mật độ xương (BMD).

BMD là một chỉ số lâm sàng rất quan trọng cho xương. Người có BMD càng cao thì xương càng chắc. Một phân tích tổng hợp công bố trên BMJ vào năm 2023 (3), tổng hợp 59 công trình nghiên cứu RCT để nhằm trả lời câu hỏi là bổ sung calcium, kể cả uống sữa, có lợi cho mật độ xương hay không. Kết quả cho thấy BMD ở nhóm với bổ sung calcium qua đường thức ăn có BMD cao hơn nhóm chứng từ 0.6 đến 1%. Ngoài ra, các tác giả còn phát hiện bổ sung calcium (qua viên thuốc) tăng BMD 0.7 đến 1.8%.

Điều thú vị là tác giả kết luận rằng tăng calcium qua nguồn thực phẩm chỉ làm tăng một chút xíu BMD và có thể chẳng dẫn đến giảm gãy xương! (“Increasing calcium intake from dietary sources or by taking calcium supplements produces small non-progressive increases in BMD, which are unlikely to lead to a clinically significant reduction in risk of fracture.”) Theo tôi, đây là một kết luận sai lầm. Mật độ xương chỉ giảm khoảng 0.5% mỗi năm (ở người cao tuổi), do đó bổ sung calcium làm tăng đến 1% BMD có nghĩa là tương đương với 2 năm trì hoãn giảm BMD. Và, như thế thì ảnh hưởng của bổ sung calcium là tốt, chứ sao lại kết luận là chỉ “small” được. Ngoài ra, tác giả không có số liệu về gãy xương, nên suy luận về gãy xương chỉ là võ đoán.

(c) Calcium và gãy xương.

Trong loãng xương, gãy xương là một “outcome” rất quan trọng, quan trọng hơn cả BMD. Nghiên cứu này cũng là một phân tích tổng hợp trên 26 RCT (4), nhằm trả lời câu hỏi bổ sung calcium có giảm nguy cơ gãy xương hay không. Kết quả cho thấy bổ sung calcium giảm nguy cơ gãy xương 11% (hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương dao động trong khoảng 4 đến 19%); giảm nguy cơ gãy xương cột sống 14% (dao động từ 0 đến 26%). Phân tích cho nguy cơ gãy cổ xương đùi thì kết quả không có ý nghĩa thống kê.

(d) Calcium và gãy cổ xương đùi.

Đây là một phân tích tổng hợp nhằm trả lời câu hỏi bổ sung calcium có làm giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi? Gãy cổ xương đùi là một outcome quan trọng trong loãng xương, vì bệnh nhân chết sớm sau khi bị gãy xương. Các tác giả phân tích trên 12 nghiên cứu đoàn hệ, 5 RCT (5). Kết quả của các nghiên cứu đoàn hệ cho thấy bổ sung calcium không giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi ở nữ (tỉ số nguy cơ 1.01; 0.97-1.05) hay ở nam giới (tỉ số nguy cơ 0.92; 0.82-1.03). Phân tích trên dữ liệu RCT cho thấy bổ sung calcium giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi 8% nhưng không có ý nghĩa thống kê (tỉ số nguy cơ 0.92; 0.81 – 1.05).

Tuy nhiên, tác giả kết luận rất ư là lệ thuộc vào thống kê. Họ viết bổ sung calcium không làm giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi (“Pooled results from randomized controlled trials show no reduction in hip fracture risk with calcium supplementation, and an increased risk is possible.”) Thật ra là có giảm (8%), nhưng mức độ giảm có thể là 20% nhưng cũng có xác suất nhỏ tăng 5%. Nói cách khác, kết quả còn bất định, chưa kết luận có hay không có ảnh hưởng. Phân tích này cũng có vấn đề vì họ không xem xét đến calcium + vitamin D.

(e) Calcium + vitamin D và gãy xương

Như nói trên, nhiều nghiên cứu trong quá khứ phạm phải sai lầm là không xem xét calcium và vitamin D “song hành.” Năm ngoái, một nghiên cứu được công bố trên tập san Osteoporosis International (6) nhằm trả lời câu hỏi là bổ sung calcium và vitamin D (viết tắt CaD) có giảm gãy xương hay không. Các tác giả phân tích dữ liệu trên 8 RCT, và kết quả cho thấy bổ sung CaD giảm nguy cơ gãy xương 15% (hiệu quả dao động trong khoảng 2 đến 27%). Ngoài ra, bổ sung CaD cũng giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi 30% (dao động 13 đến 44%).

Những kết quả này cũng nhất quán với kết quả của chúng tôi được công bố năm ngoái trong hội nghị loãng xương quốc tế ở Atlanta. Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng bổ sung CaD không làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch hay đột quị. Tính chung, lợi ích CaD vẫn cao hơn nhiều so với tác hại (nếu có). Nghiên cứu của chúng tôi chưa được chính thức công bố trên một tập san y khoa (đang duyệt) nhưng Tạp chí Endocrinology Advisor có đưa tin và phỏng vấn tôi vào năm ngoái (7).

Tình hình sử dụng Calcium và vitamin D ở Việt Nam

Những gì tôi trình bày trên là chuyện bên Tây và chuyện khoa học. Bây giờ, tôi quay lại tình hình ở Việt Nam. Những nghiên cứu của chúng tôi và đồng nghiệp ngoài Bắc (8-9) cho thấy rất nhiều phụ nữ thiếu vitamin D. Ở Sài Gòn, gần 50% phụ nữ thiếu vitamin D, còn ở Hà Nội tỉ lệ này là 70-80%. Đó là một thực tế rất đáng ngại, vì thiếu vitamin D dẫn đến nhiều hệ quả sức khoẻ.

Nghiên cứu của chúng tôi còn chỉ ra là đa số phụ nữ Việt Nam hấp thu rất ít calcium. Tính trung bình lượng calcium từ thực phẩm ở phụ nữ Việt Nam chỉ dao động trong khoảng 300 đế 500 mg/d (8). Như đề cập trong điểm 5 ở trên, mỗi chúng ta cần phải có calcium 1000 mg/ngày để duy trì xương chắc và bền và cho nhiều hoạt động khác của cơ thể.

Như vậy, tình hình ở Việt Nam là đa số người dân vừa thiếu calcium vừa thiếu vitamin D. Điều này giải thích tại sao tỉ lệ loãng xương ở phụ nữ Việt Nam là gần 30% (ở những người sau mãn kinh) và 10% (ở nam giới trên 50 tuổi). Thực tế này nói lên rằng những quan ngại về sữa, calcium ở Việt Nam là … rất vô lí. Mình đã thiếu (chứ đâu phải thừa) mà sợ calcium làm hại cho xương?! Báo chí phương Tây tỏ ra quan ngại về bổ sung calcium cũng vô lí, vì bằng chứng khoa học tôi trình bày trên cho thấy bổ sung calcium, qua thực phẩm hay viên thuốc, có hiệu quả giảm nguy cơ loãng xương và giảm nguy cơ gãy xương.

Hỏi: Calcium có quan trọng cho xương không? – Đáp: Rất quan trọng, vì calcium là một khoáng chất làm nên xương và giúp cho xương chúng ta chắc.

Hỏi: Tôi có thể “tiếp thu” calcium từ đâu? – Đáp: Từ hai nguồn chính là thực phẩm, đặc biệt là sữa, và bổ sung qua viên thuốc. Nhưng calcium phải đi liền với vitamin D.

Hỏi: Nghe nói bổ sung calcium không có hiệu quả giảm loãng xương mà còn tăng nguy cơ đột quị? – Đáp: Không đúng. Bổ sung calcium và vitamin D tăng mật độ xương (làm cho xương mạnh hơn), giảm nguy cơ gãy xương. Bằng chứng về bổ sung calcium và vitamin D và đột quị là chưa thuyết phục.

======

(1) https://saveourbones.com/osteoporosis-milk-myth/

(2) Bischoff-Ferrari H, et al. Milk Intake and Risk of Hip Fracture in Men and Women: A Meta-Analysis of Prospective Cohort Studies. J Bone Miner Res 2011; 26:833-839.

(3) http://www.bmj.com/content/351/bmj.h4183

(4) http://www.bmj.com/content/351/bmj.h4580

(5) http://ajcn.nutrition.org/content/86/6/1780.long

(6) https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4715837/

(8) Ho-Pham L, et al. Vitamin D status and parathyroid hormone in a urban population in Vietnam. Osteoporosis International, 2011;22:241–248.

(9) Nguyen HTT, et al. Vitamin D deficiency in northern Vietnam: Prevalence, risk factors and associations with bone mineral density. Bone 2012; 51: 1029–1034.

Sự Khác Nhau Giữa Vitamin D Và Vitamin D3

Đây là một trong nhiều vitamin cần thiết bởi cơ thể con người để phát triển và phát triển . Vitamin D thực sự là có sẵn trong hai hình thức, Vitamin D. và Ergocalciferol, hay còn gọi là vitamin D3 và vitamin D2.

Đầu tiên thứ nhất. Vitamin D có thể được tìm thấy trong 2 hình thức. Vitamin D2 được sản xuất bởi các nhà máy hoặc nấm. Bạn sẽ bổ sung, tăng cường các loại thực phẩm như sữa, nước trái cây hay ngũ cốc. Tuy nhiên, vitamin D3 được hình thành khi cơ thể tổng hợp ánh sáng mặt trời trên bề mặt của nó. Nó chủ yếu xảy ra thông qua Vitamin D3 cũng có thể thu được sản phẩm động vật tiêu thụ. các tiếp xúc của da với tia UVA và UVB.

Nó cũng thú vị để lưu ý rằng kể từ khi nó được sản xuất trong cơ thể, vitamin D là thực sự được coi là một hormone và không thực sự là một vitamin! Vitamin D là rất quan trọng vì nó điều chỉnh việc sản xuất phốt pho và canxi trong cơ thể.

Các Vitamin D mà bạn mua sẵn sàng trên các truy cập trong hình thức thuốc thực sự có thể rất có hại mà không có giám sát. Bạn thấy đấy, một trong các hình thức của vitamin D, tức là vitamin D2 bị phá vỡ bởi cơ thể thành chất khác nhau. Một số các chất này có thể rất có hại cho cơ thể. Vitamin D3 được chia cơ thể thành một chất gọi là calcitrol, mà thực sự có tính chất chống ung thư rất quan trọng.

Bổ sung vitamin D có thể được thực hiện từ một trong hai loài thực vật hoặc động vật. Tuy nhiên, nếu bạn đang tìm kiếm một bổ sung vitamin D3, bạn sẽ xem xét chỉ những nơi có sẵn thông qua bổ sung động vật.

Vitamin D thường được thêm vào một số loại thực phẩm, để làm cho họ có lợi. Vitamin D r ất phổ biến để tìm thấy nó trong ngũ cốc hoặc nước trái cây.

Một khác biệt quan trọng là vitamin D2 có thời hạn sử dụng ngắn hơn so với vitamin D3. Điều này làm giảm hiệu lực của các vitamin nếu nó được sử dụng để bổ sung vitamin.

1. Vitamin D được sản xuất bởi cả thực vật và động vật. Vitamin D3 là đặc biệt được tìm thấy trên da của động vật, như là một sản phẩm phụ của tổng hợp. 2. Vitamin D không phải là mang lại lợi ích trong tất cả các hình thức của nó. Vitamin D2, một trong các hình thức của vitamin D có thể gây độc cho cơ thể. Vitamin D3 là tốt cho cơ thể. 3. Bạn có thể nhận được vitamin D từ thực phẩm tăng cường hoặc như thuốc. Tuy nhiên, vitamin D3 chỉ có sẵn ở dạng viên thuốc hoặc trong chất lỏng. Họ hiếm khi được tìm thấy trong thực phẩm. 4. Bổ sung cho hai loại vitamin có nguồn gốc khác nhau. 5. Các hình thức của vitamin D2 có thời hạn sử dụng ngắn hơn so với hình thức D3.

Bổ Sung Vitamin D Hiệu Quả, Chọn Vitamin D3 Hay Vitamin D2?

Vitamin D là dưỡng chất cần thiết cho xương và các hoạt động của cơ thể

Vitamin D là một vitamin tan trong chất béo, giúp thúc đẩy hấp thu calci, phát triển xương và đóng vai trò quan trọng trong chức năng miễn dịch của cơ thể. Thông thường, da của chúng ta tổng hợp vitamin D dưới ánh sáng mặt trời, tuy nhiên nếu bạn không thường xuyên đi ra ngoài, việc bổ sung vitamin D có thể thông qua chế độ dinh dưỡng hàng ngày.

Vitamin D có 2 dạng chính là:

Vitamin D2 (ergocalciferol)

Vitamin D3 (cholecalciferol)

Vitamin D3 có nhiều trong động vật, vitamin D2 có nhiều trong thực vật

Vitamin D3 chỉ có trong các thực phẩm có nguồn gốc động vật. Vitamin D2 có nhiều trong thực vật và thực phẩm tăng cường.

Các thực phẩm giàu vitamin D3: cá nhiều dầu, dầu cá, gan, lòng đỏ trứng, bơ, thực phẩm bổ sung vitamin D3.

Các thực phẩm giàu vitamin D2: nấm (phát triển dưới tia UV), thực phẩm chức năng bổ sung vitamin D2.

Vitamin D3 giúp bổ sung vitamin D hiệu quả hơn

Cả vitamin D2 và D3 đều được hấp thụ vào máu, tuy nhiên chúng sẽ được gan chuyển hóa theo hai cách khác nhau. Gan chuyển hóa vitamin D2 và D3 thành 2 dạng calcifediol – dạng vitamin D phản ánh lượng vitamin D trong cơ thể.

Trong nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy, vitamin D2 cung cấp ít calcifediol hơn vitamin D3 ở lượng tương đương. Trong một nghiên cứu với 32 phụ nữ lớn tuổi cho thấy, sử dụng vitamin D3 giúp bổ sung gấp đôi nồng độ calcifediol so với sử dụng vitamin D2 ở một liều tương đương.

Chất lượng vitamin D2 thấp hơn vitamin D3

Các nghiên cứu cũng cho thấy, vitamin D2 nhạy cảm hơn với độ ẩm và sự thay đổi nhiệt độ. Do đó, vitamin D2 có thể dễ bị ảnh hưởng về chất lượng. Tuy nhiên, những thay đổi chất lượng này chưa được các nhà khoa học chứng minh có ảnh hưởng đến sức khỏe hay không.

Làm thế nào để cải thiện vitamin D trong cơ thể?

Theo Viện Y học Hoa Kỳ, mức vitamin D khuyến nghị mỗi ngày cho người trưởng thành là 400-800 IU (10-20mcg), liều bổ sung tương đương là từ 1000-2000IU (25-50mcg).

Những thực phẩm giàu vitamin D:

Một số thực phẩm giàu vitamin D

Ăn các loại nấm (được tiếp xúc với tia UV)

Bổ sung dầu cá, dầu gan cá

Ăn cá nhiều dầu 2 lần 1 tuần

Uống các loại sữa hoặc nước cam được bổ sung vitamin D

Ăn trứng, bơ

Đi ra ngoài ít nhất 1 lần 1 ngày để da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời lúc sáng sớm.

Mỹ Linh H+ (Theo Healthline) – Theo HEALTH+

Vitamin D2 Khác Vitamin D3 Như Thế Nào?

Vitamin D, Vitamin D2, Vitamin D3? Vitamin D2 khác Vitamin D3 như thế nào? Cơ thể chúng ta cần loại Vitamin D nào? 1. Vitamin D2 và Vitamin D3 khác nhau về thành phần hoá học

Chúng ta cùng quay lại lớp hóa học! Thực tế, có một số loại vitamin D khác nhau, hai trong số đó được tìm thấy trong các loại chất bổ sung: vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Nhưng hai dạng vitamin D này khác gì nhau và loại nào là tốt nhất?

2. Vitamin D3 có ở đâu?

Vitamin D₃ (cholecalciferol) là dạng vitamin D được cơ thể chúng ta tự nhiên tạo ra sau khi da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời trực tiếp. Các chất bổ sung vitamin và thực phẩm có thể chứa Vitamin D3. Chẳng hạn như sữa tăng cường Vitamin D, cá béo, dầu gan cá và lòng đỏ trứng. Tuy nhiên, cơ thể chỉ có thể thực sự sử dụng vitamin D3 cho đến khi nó được gan và thận thay đổi thành một dạng vitamin D hoạt động.

Vì vitamin D3 được tìm thấy tự nhiên trong cơ thể con người, nó thường là loại vitamin D được ưu tiên bổ sung. Các sản phẩm của , Mommy’s Bliss chứa loại vitamin D, loại Vitamin D3 này, được lấy từ lanolin có nguồn gốc từ len cừu.

3. Vitamin D2 có ở đâu?

Vitamin D₂ (ergocalciferol) cũng có thể được tìm thấy trong các chất bổ sung và đến từ các nguồn thực vật và / hoặc nấm được chiếu xạ. Có một số tranh cãi về việc nên sử dụng vitamin D₂ như một chất bổ sung. Vì nó không phải là dạng vitamin D tự nhiên do cơ thể tạo ra. Bằng chứng cũng cho thấy cơ thể chúng ta có thể lưu trữ vitamin D3 tốt hơn vitamin D2 và vitamin D3. Làm tăng nồng độ vitamin D trong máu nhanh hơn. Tương tự như vitamin D3, vitamin D2 vẫn cần kích hoạt bởi gan và thận. Một chất bổ sung có sẵn có chứa vitamin D2 (ergocalciferol) là Vegan Ddrops®.

4. Còn loại Vitamin D nào không?

Có một dạng thứ ba của vitamin D, 25-hydroxyvitamin D hoặc 25 (OH) D (calcidiol), được sản xuất tự nhiên trong gan. Đây là dạng vitamin D dồi dào nhất được tìm thấy trong máu. Và là dạng được đo trong các xét nghiệm máu để xác định mức độ vitamin D trong cơ thể người. Hình thức này thực sự vẫn chưa hoạt động trong cơ thể, nhưng nó là một chất chuyển hóa báo hiệu sự hiện diện của vitamin D trong cơ thể.

1,25-hydroxy vitamin D (1,25 (OH) 2D) là dạng hoạt động của vitamin D trong cơ thể. Nó được tạo ra bởi thận từ Vitamin D 25 (OH) trong máu. Khi vitamin D hoạt động liên kết với thụ thể vitamin D (VDR). Nó hoạt động như một công tắc bật một số hoạt động di truyền. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hơn 200 gen mục tiêu cho vitamin D hoạt động trong hầu hết các cơ quan của cơ thể.

Theo khuyến cáo của các tổ chức ý tế thế giới, nên bổ sung Vitamin D3 cho trẻ sơ sinh mỗi ngày để đảm bảo nhu cầu Vitamin D cho trẻ.

Trẻ dưới 1 tuổi cần bổ sung Vitamin D3 từ ngay những ngày đầu sau sinh với lượng 400IU / ngày. Tương đương với 1 giọt như của loại Vitamin D3 Ddrops của Canada.

Trẻ trên 1 tuổi vẫn cần tiếp tục bổ sung Vitamin D3 nếu thời gian tiếp xúc ánh nắng mặt trời buổi trưa ít hơn 15 – 30 phút / ngày. Liều lượng là 600IU mỗi ngày.

Các loại Vitamin D3 bổ biến được ưu chuộng là Vitamin D3 Ddrops của Canadavà Vitamin D3 hữu cơ Mommy’s Bliss của Mỹ.

Việc bổ sung Vitamin D là cần thiết cho trẻ sơ sinh. Bên cạnh đó trẻ sơ sinh cũng cần rất nhiều dưỡng chất khác cho sự phát triển về thể chất và trí não. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi. Theo khuyến cáo của WHO, nên cho trẻ sơ sinh bú mẹ tối thiệu đến 2 tuổi.

Sữa mẹ cung cấp những chất dinh dưỡng và kháng thể “độc nhất” chỉ có ở sữa mẹ. Các kháng thể độc nhất này giúp tăng cường sức đề kháng của trẻ sơ sinh. Chúng giúp trẻ phòng tránh các bệnh nguy hiểm cũng như dễ dàng hồi phục hơn khi bị bệnh.

Cách Sử Dụng Vitamin D3 Cho Trẻ Sơ Sinh (Vitamin D3 Ddrops của Canada)

Bài Viết Tham khảo :

MILENA – Nuôi con bằng sữa mẹ nhàn tênh!

Sự Khác Biệt Giữa Các Vitamin D3 Và D2

Sự khác biệt giữa các vitamin D3 và D2

Vitamin D3 là một trong những chất bổ sung nổi tiếng nhất trong ngành công nghiệp y tế. Người ta ước tính rằng hơn 40 phần trăm dân số bị thiếu vitamin D , đóng vai trò trung tâm trong mọi việc, từ điều chỉnh tâm trạng đến điều chỉnh các tế bào miễn dịch trong cơ thể và hơn thế nữa. Không chỉ vậy, đây còn là một trong số ít các chất dinh dưỡng khó có được từ các nguồn thực phẩm, làm cho việc bổ sung hoàn toàn cần thiết trong nhiều trường hợp.

Vậy sự khác biệt giữa vitamin D so với D3 là gì? Và vitamin D3 tốt cho việc gì? Hãy đọc tất cả mọi thứ bạn cần biết về vi chất dinh dưỡng quan trọng này và nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn như thế nào.

Vitamin D3 là gì?

Thật không may, thiếu vitamin D là một vấn đề phổ biến và một số nhóm nhất định có nguy cơ thiếu hụt cao hơn. Đặc biệt, người lớn tuổi, những người tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hạn chế và những người thừa cân / béo phì hoặc có làn da sẫm màu có nguy cơ cao hơn.

Vitamin D3 so với Vitamin D2

Vậy sự khác biệt giữa vitamin D và vitamin D3 là gì? Vitamin D có sẵn ở hai dạng: vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Vitamin D3 chủ yếu được tìm thấy trong thực phẩm động vật, chẳng hạn như cá, gan, trứng và dầu gan cá tuyết. Trong khi đó, vitamin D2 chủ yếu có trong nấm và thực phẩm tăng cường, chẳng hạn như ngũ cốc.

Cả hai cũng có sẵn ở dạng bổ sung là tốt. Sự khác biệt lớn nhất giữa vitamin D2 so với D3 thực sự nằm ở cách chúng được chuyển hóa trong cơ thể. Trên thực tế, một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nội tiết và Chuyển hóa cho thấy vitamin D3 có hiệu quả gần gấp đôi khi tăng mức vitamin D trong máu so với vitamin D2.

Vì lý do này, thông thường nên chọn bổ sung vitamin D3 bất cứ khi nào có thể để tối ưu hóa sự hấp thụ và nhận được nhiều lợi ích nhất cho bạn. Uống bổ sung vitamin D3 là một cách hiệu quả để tăng cường hấp thụ canxi, tăng cường sức khỏe của xương, hỗ trợ quản lý cân nặng và hơn thế nữa.

Những lợi ích

Thúc đẩy giảm cân

Tăng cường sức mạnh xương

Cải thiện chức năng miễn dịch

Tăng cường sức khỏe tâm thần

Có thể giúp chống lại các tế bào ung thư

1. Thúc đẩy giảm cân Quản lý cân nặng là một trong những ứng dụng phổ biến nhất của vitamin D3. Thật thú vị, các nghiên cứu thực sự cho thấy rằng mức vitamin D có xu hướng thấp hơn ở những người có lượng chất béo cơ thể cao hơn. Một số nghiên cứu cũng cho thấy rằng bổ sung vitamin D có thể tăng cường giảm cân và tăng cường đốt cháy chất béo . Ví dụ, một nghiên cứu được thực hiện bởi Khoa Y tế Xã hội và Dự phòng tại Đại học Laval ở Canada đã chứng minh rằng bổ sung canxi và vitamin D làm tăng giảm cân và giảm mỡ so với nhóm đối chứng.

2. Tăng cường sức mạnh xương

3. Cải thiện chức năng miễn dịch

4. Tăng cường sức khỏe tâm thần

5. Có thể giúp chống lại các tế bào ung thư

Thực phẩm

Dầu gan cá – 1 muỗng canh: 1.360 đơn vị quốc tế (hơn 100% DV)

Cá hồi hoang dã – 3 ounces: 447 IU (hơn 100 phần trăm DV)

Cá thu – 3 ounces: 306 IU (76 phần trăm DV)

Cá ngừ – 3 ounce: 154 IU (39 phần trăm DV)

Cá mòi – 2 con cá mòi: 47 IU (12 phần trăm DV)

Gan bò – 3 ounces: 42 IU (11 phần trăm DV)

Trứng – 1 quả trứng: 41 IU (10 phần trăm DV)

Trứng cá – 1 muỗng canh: 37 IU (9 phần trăm DV)

Làm thế nào để có được nhiều hơn trong chế độ ăn uống của bạn

Phơi nắng là một trong những cách dễ nhất và hiệu quả nhất để đáp ứng nhu cầu vitamin D của bạn. Đối với hầu hết, năm đến 30 phút phơi nắng hai lần một tuần là đủ để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của bạn. Tuy nhiên, đối với những người khác, có thể khó có đủ vitamin D từ ánh sáng mặt trời, đặc biệt là trong mùa đông hoặc nếu bạn sống ở một số khu vực địa lý nhất định. Người lớn tuổi và những người có làn da tối màu cũng không tổng hợp vitamin D trong da một cách hiệu quả và có thể cần đưa các nguồn vitamin D khác vào chế độ ăn uống để đáp ứng yêu cầu của họ.

Ngoài việc bao gồm nhiều loại thực phẩm vitamin D3 trong chế độ ăn uống của bạn, việc bổ sung vitamin D cũng có thể vô cùng hữu ích. Uống vitamin D3, đặc biệt, có thể giúp tăng mức vitamin D trong máu để bảo vệ chống lại sự thiếu hụt.

Bổ sung vitamin D3

Bổ sung vitamin D có thể là một cách nhanh chóng và thuận tiện để đáp ứng nhu cầu của bạn đối với loại vitamin tan trong chất béo quan trọng này, đặc biệt nếu bạn có nguy cơ thiếu hụt. Nếu bạn chọn dùng một loại, hãy nhớ chọn vitamin D3 thay vì vitamin D2 để tối đa hóa sự hấp thụ và nhận được giá trị cao nhất cho số tiền của bạn. Bạn cũng nên uống vitamin D trong bữa ăn, vì nó đòi hỏi một nguồn chất béo tốt để được hấp thụ trong cơ thể.

Bạn có thể tự hỏi: Tôi nên uống bao nhiêu vitamin D3 mỗi ngày ? Hiện tại, chế độ ăn uống được khuyến nghị (RDA) cho vitamin D như sau:

400 IU: trẻ sơ sinh 0 tuổi12 tháng

600 IU: trẻ em và người lớn 1-70 tuổi

800 IU: người lớn trên 70 tuổi

Tuy nhiên, nhiều người tin rằng liều vitamin D3 được khuyến nghị thậm chí còn cao hơn và các chất bổ sung thường chứa liều tới 5.000 IU mỗi ngày. Do đó, tốt nhất là làm việc với bác sĩ của bạn để xác định liều lượng phù hợp với bạn để ngăn ngừa các triệu chứng thiếu hụt.

Theo Dr.Axe

So Sánh Vitamin D2 Và Vitamin D3: Nên Chọn Loại Nào?

Hầu hết chúng ta đều biết đến vitamin D với lợi ích nổi bật là tốt cho xương khớp và nâng cao miễn dịch. Trên thực tế, dưỡng chất này bao gồm hai dạng là D2 và D3. Câu hỏi đặt ra, liệu vitamin D2 và D3 khác nhau như thế nào, đâu là loại tối ưu nhất? Hãy dành ít phút để tìm câu trả lời ngay sau đây. 

Vitamin D là thành phần vô cùng quan trọng đối với nhiều chức năng sống của cơ thể. Nó tồn tại dưới hai dạng phổ biến là D2 và D3 trong tự nhiên, cũng như ở các loại thực phẩm bổ sung. Bài viết này sẽ nêu bật những điểm khác biệt chính giữa hai loại trên.

Khám phá vitamin D2 và vitamin D3

Xét về khía cạnh lý thuyết, vitamin D là thuật ngữ dùng để mô tả những hợp chất có cấu trúc hóa học tương đồng. Cho đến nay, các nhà khoa học đã tìm ra được 5 loại vitamin D, nhưng nhiều nhất vẫn là 2 loại đã đề cập ở đầu bài.

Thực chất, ergocalciferol và cholecalciferol đều ở dạng bất hoạt. Khi vào cơ thể, nhờ các phản ứng chuyển hóa đặc hiệu tại gan và thận, chúng mới chuyển sang dạng có hoạt tính. Tuy nhiên, những enzyme tham gia vào quá trình này sẽ không hoàn toàn giống nhau ở cả hai loại.

Vitamin D2 và D3 khác nhau như thế nào?

Ngày nay, nhiều người dành phần lớn thời gian ở nhà hoặc ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nên dễ gặp phải tình trạng thiếu hụt vitamin D. Giải pháp lúc này sẽ là bổ sung vitamin D thông qua chế độ ăn và sử dụng các loại viên uống hỗ trợ.

Với lựa chọn thứ hai, nếu quan sát kỹ trên nhãn dinh dưỡng, bạn sẽ nhận thấy một số sản phẩm chứa vitamin D ở dạng ergocalciferol hoặc cholecalciferol. Để biết được đâu là loại tối ưu nhất với mình, bạn cần hiểu rõ những điểm khác biệt sau:

1. Nguồn thực phẩm chứa vitamin

Vitamin D2 và D3 khác nhau như thế nào? Ngoài cấu trúc hóa học thì câu trả lời chính là ở nguồn gốc hình thành. Đối với vitamin D2, loại này chủ yếu có trong thực vật hoặc nấm hoang dã khi tiếp xúc với tia UV B. Ngoài ra, một số thực phẩm tăng cường (fortifield food) như sữa hay ngũ cốc cũng có sự hiện diện của ergocalciferol trong thành phần.

Trong khi đó, vitamin D3 lại đến từ nguồn động vật, chẳng hạn như các loại cá béo, dầu gan cá, lòng đỏ trứng … Bên cạnh những thực phẩm giàu vitamin D3 vừa liệt kê, cơ thể người hoàn toàn có khả năng tự tổng hợp nên dưỡng chất này.

Bằng chứng là trên da chúng ta có chứa hợp chất gọi là 7 – dehydrocholesterol. Chất này đóng vai trò là tiền thân của vitamin D, nhờ bức xạ tia cực tím nó chuyển hóa thành vitamin D3 dạng hoạt động. Lượng D3 sản sinh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như độ che phủ của mây, quần áo và việc sử dụng kem chống nắng.

Trên thực tế, việc sản xuất vitamin D ít gây tốn kém nên có rất nhiều dạng viên uống bổ sung khác nhau ra đời. Quan sát nhãn thành phần của các sản phẩm này, cả vitamin D2 và D3 đều được tính theo đơn vị quốc tế IU. Ngoại trừ những viên có hàm lượng cao từ 50.000 IU trở lên cần có sự chỉ định của các sĩ, số còn lại đều có sẵn ở dạng không kê đơn.

2. Cách tổng hợp vitamin D trong cơ thể

Lời giải cho thắc mắc vitamin D2 và D3 khác nhau như thế nào đó là cách tổng hợp và sự gia tăng nồng độ vitamin D trong máu. Theo đó, khi được cơ thể hấp thụ cả vitamin D2 và D3 đều được gan chuyển hóa lần lượt thành 25 – hydroxyvitamin D2 và 25 – hydroxyvitamin D3 (gọi tắt là 25D hoặc calcidiol).

Calcidiol tồn tại rất nhiều trong máu và nồng độ chất này phản ánh trực tiếp lượng vitamin D có trong cơ thể. Chính vì thế, khi đến bệnh viện và được chỉ định làm xét nghiệm kiểm tra mức vitamin D thì có thể hiểu người ta đang đo lượng calcidiol của bạn. Thêm vào đó, calcidiol là dạng có hoạt tính của vitamin D. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hơn 200 thụ thể khác nhau liên kết với calcidiol trong rất nhiều cơ quan ở người.

Đã có rất nhiều thử nghiệm khác nhau so sánh hiệu quả giữa việc bổ sung D2 và D3 xem chất nào sẽ tạo ra nồng độ calcidiol cao hơn. Điển hình là một khảo sát của viện Y tế Quốc gia Hoa kỳ trên nhóm đối tượng là phụ nữ cao tuổi, sau mãn kinh và được xác định là thiếu hụt vitamin. Những người này đều được uống bổ sung một liều cao vitamin D2 hoặc D3. Kết quả thu được cho thấy vitamin D3 tạo ra lượng calcidiol gấp đôi so với D2.

Thử nghiệm lâm sàng dùng liều cao 50.000 IU vitamin D2 và D3 hai lần một tuần kéo dài trong suốt 10 tuần cũng cho kết quả tương tự.

3. Hiệu quả hấp thụ

Vitamin D2 và D3 khác nhau như thế nào còn phải nhắc đến hiệu quả hấp thụ giữa cả hai nữa. Theo như các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh hiệu quả giữa việc bổ sung D2 và D3 vào năm 2012 cho thấy, vitamin D3 làm gia tăng và duy trì nồng độ calcidiol tốt hơn.

Mặc dù một vài nghiên cứu đã chỉ ra việc dùng hằng ngày hoặc uống một liều vitamin D2 có hiệu quả tương đương với D3, nhưng tác dụng đó chỉ kéo dài trong thời gian ngắn. Lý giải cho vấn đề này, các chuyên gia cho rằng, cholecalciferol có ái lực cao hơn với protein liên kết với vitamin D, cũng như thụ thể của vitamin D.

Một số ý kiến khác lại đề cập đến việc vitamin D3 là chất nền ưu tiên cho enzyme hydroxylase. Enzyme này đóng vai trò chuyển hóa tiền vitamin D thành dạng có hoạt tính. Hơn nữa, cần lưu ý rằng vitamin D2 là dạng kém bền hơn. Theo đó, dưỡng chất này vô cùng nhạy cảm với nhiệt độ và độ ẩm.

Theo báo cáo được đăng tải trên Tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng Hoa Kỳ, để đạt được hiệu lực lâu dài như vitamin D3, nếu dùng vitamin D2 thì buộc phải tăng liều lượng cao hơn rất nhiều lần.

Từ những phân tích trên, hẳn là bạn đã biết được đâu là dạng vitamin D tối ưu nhất. Để bổ sung vitamin D3, bạn có thể lựa chọn sử dụng các loại thực phẩm sau đây:

Các loại cá béo như cá hồi, cá trích, cá ngừ …

Dầu gan cá

Sữa và các chế phẩm từ sữa như phô mai

Trứng

Một cách đơn giản hơn nữa để nhận được dưỡng chất này đó chính là tắm nắng buổi sớm. Mỗi ngày, bạn chỉ cần dành ra khoảng từ 10 – 15 phút đón ánh nắng ban mai là đã đáp ứng đủ nhu cầu về vitamin D.

Trên thị trường hiện nay có khá nhiều loại thực phẩm bổ sung vitamin D khác nhau, tuy nhiên tốt nhất bạn nên sử dụng dạng bổ sung đầy đủ 17 vitamin và khoáng chất thiết yếu cho cơ thể. Ngoài ra, khi chọn sản phẩm bổ sung vitamin D3, bạn cũng cần chú ý đến liều lượng phù hợp với nhu cầu hằng ngày là 400 IU.

Hy vọng rằng bài viết trên đã gỡ rối thắc mắc vitamin D2 và D3 khác nhau như thế nào cho bạn. Bên cạnh “vitamin ánh nắng” bạn cần chú ý hơn đến việc cân đối những dưỡng chất khác như canxi và vitamin K để xây dựng hệ xương chắc khỏe và nâng cao hệ miễn dịch cho bản thân và gia đình.

Tài liệu tham khảo

Vitamin D2 vs. D3: What’s the Difference? – https://www.healthline.com/nutrition/vitamin-d2-vs-d3

Should You Take Vitamin D2 or Vitamin D3? – https://www.verywellfit.com/which-form-of-vitamin-d-is-better-d2-or-d3-2507730

Vitamin D vs. D3: Differences, similarities, and which is better for you – https://www.singlecare.com/blog/vitamin-d-vs-d3/

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Thật Về Calcium Và Vitamin D trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!