Bạn đang xem bài viết Sự Ra Đời Của Tổ Chức Cộng Sản Và Phong Trào Đấu Tranh Giải Phóng Dân Tộc Ở Tỉnh Nam Định (1929 được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Sự ra đời của tổ chức cộng sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở tỉnh Nam Định (1929-1945)
Page Content
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Để phát triển, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào tạo
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THEO ĐƯỜNG LỐI CỘNG SẢN
Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Nam Định.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Để phát triển, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Giữa năm 1925, Lê Hồng Sơn, phái viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ Quảng Châu về Nam Định gặp Đinh Chương Dương đặt vấn đề vận động thanh niên yêu nước ở Nam Định sang Quảng Châu học tập. Sự kiện này diễn ra tại ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự và một số cơ sở ở Cát Đằng, huyện Ý Yên.
Từ giữa năm 1926 đến đầu năm 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển mạnh mẽ ở Nam Định, đến cuối năm 1927, đã có đến tám chi hội hoạt động. Tháng 9-1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã cử Nguyễn Danh Đới làm đại diện cho Kỳ bộ về Nam Định tổ chức họp mặt với ba cán bộ chủ chốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Định là Nguyễn Văn Hoan, Vũ Huy Hào và Trần Trung Tín. Một Ban chấp hành Tỉnh bộ lâm thời gồm ba người do Nguyễn Văn Hoan làm bí thư đã được thành lập. Đến cuối năm 1928, các chi hội đã lan rộng đều trên phạm vi toàn tỉnh, từ thành phố xuống nông thôn. Mùa hè năm 1928, Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh) đã lập ra tờ Dân cày để phục vụ công tác tuyên truyền quần chúng. Báo tồn tại đến ngày 1-5-1931 thì phải đình bản.
Từ khi có tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra quyết liệt, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi Nam Định (ngày 23-11-1928), cuộc đình công của toàn bộ phu kéo xe Nam Định (ngày4-10-1929), đặc biệt là cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi (tháng 3-1929) đã gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh cả nước.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập. Ngày 19-6-1929, Ban Tỉnh ủy lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định được thành lập, bao gồm Nguyễn Hới (Bí thư), Phạm Văn Ngọ và Lê Ngọc Rư. Trụ sở của Ban Tỉnh ủy được đặt tại ngôi nhà số 12, phố Năng Tĩnh và một số ngôi nhà khác ở thôn Mỹ Trọng, xã Mỹ Xã. Ngay từ đợt đầu tiên, ở Nam Định đã có 250 hội viên được kết nạp vào Đảng, trong đó công – nông chiếm đa số (75%).
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định đã tỏ rõ sức chiến đấu và khả năng tổ chức của mình bằng việc phát động nhiều cuộc đấu tranh sôi nổi ở các nhà máy. Chỉ trong vòng hơn một tháng đã nổ ra bốn cuộc bãi công của thợ Nhà máy đèn (ngày 19-6); thợ nề (ngày 4-7); thợ nhuộm, thợ guồng Nhà máy sợi (từ ngày 7 đến 18-7-1929) và nữ công nhân máy lờ từ ngày 20 đến 21-7-1929. Tất cả các cuộc bãi công đều thu được thắng lợi.
Nam Định trong cao trào cách mạng 1930-1931.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngay sau đó Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định trở thành một Đảng bộ thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này là bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, tạo nên chuyển biến lớn cho phong trào cách mạng Nam Định.
Đầu tiên là cuộc đấu tranh của nữ công nhân Nhà máy chiếu ngày 15-3-1930, sau đó 10 ngày là cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân Nhà máy sợi với mức độ quyết liệt và quy mô lớn chưa từng có. Cuộc đấu tranh của gần 4.000 công nhân Nhà máy sợi trong 21 ngày gian khổ chính thức mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931 của toàn tỉnh và cũng góp phần vào cao trào cách mạng toàn quốc do Đảng lãnh đạo. Từ ngày 25-7 đến 25-9-1930, liên tiếp nổ ra sáu cuộc bãi công, biểu tình của công nhân xưởng dệt Nhà máy sợi và Nhà máy tơ. Các hoạt động khác như cuộc mít tinh ngày 22-10-1930, kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vào tối 6-11 và ngày 7-11-1930 diến ra khắp nơi. Tháng 2-1931, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thôn bộ, sau đó cùng với tờ báo Tiền phong, Tỉnh ủy còn xuất bản thêm tờ Nông dân (sau đổi là Hưởng ứng) để tuyên truyền đường lối cách mạng cho đảng viên và quần chúng nông thôn.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã ghi lại một trang sử vẻ vang trong lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân Nam Định.
Nam Định trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương 1936-1939.
Mùa hè năm 1936, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ nhất, quyết định tạm gác khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày”, lập Mặt trận nhân dân phản đế (sau đổi là Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Từ ngày 31-10-1935 đến ngày 6-10-1937 tại Nam Định đã nổ ra 33 cuộc đấu tranh – một kỷ lục về các cuộc đấu tranh từ trước tới giờ. Nổi bật là cuộc đấu tranh có quy mô lớn chưa từng thấy của 8.000 công nhân Nhà máy sợi kéo dài hơn một tháng từ 2-2-1937 đến 3-3-1937.
Tháng 5-1937, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập lại do Đặng Hữu Rạng làm bí thư, sau đó Trần Hoạt được cử làm bí thư. Lúc này ngoài các đại lý sách báo cánh tả của Đảng tuyên truyền các sách báo cách mạng và tiến bộ, nhiều sách báo từ Hà Nội chuyển về cũng được phân phát khắp nơi như: Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp), Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡi của Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ)… Tháng 3-1938, Tỉnh ủy tổ chức một cuộc mít tinh với hơn 4.000 người tham gia, lấy danh nghĩa là đưa tiễn Công sứ Alơmăng, nhưng thực chất là cuộc biểu dương lực lượng đòi tự do lập nghiệp đoàn, tự do hội họp, đòi tăng lương… ngay tại sân ga Nam Định.
NAM ĐỊNH TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1939-1945)
Chống khủng bố, khôi phục phong trào.
Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Không chỉ Pháp mà xứ Đông Dương thuộc Pháp cũng bị lôi kéo vào chiến tranh. Cùng với việc vơ vét, lùng bắt trai tráng thanh niên vào lính phục vụ chiến tranh, thực dân Pháp thẳng tay triệt phá phong trào cách mạng, tiến công vào Đảng Cộng sản.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ sáu (11-1939) về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, Tỉnh ủy Nam Định đã quyết định ba nhiệm vụ trước mắt là: Củng cố các cơ sở đảng, tiếp tục duy trì phát triển các tổ chức quần chúng; tuyên truyền, giáo dục nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ nâng cao tinh thần quyết tâm chống đế quốc, giải phóng dân tộc; lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi thiết thực.
Đầu năm 1940, Đảng bộ đã thành lập Đoàn thanh niên phản đế gồm 15 người chọn từ Đoàn Thanh niên dân chủ chuyển sang. Đảng bộ đã tổ chức các hoạt động phù hợp như treo cờ Đảng, phát tán truyền đơn ở những nơi quan trọng, kêu gọi đấu tranh chống tăng giờ làm, chống bắt phu, bắt lính, sung công tài sản,…
Cuối tháng 9-1940, quân Nhật tiến vào chiếm đóng Đông Dương, toàn dân tộc ta lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”. Trong bối cảnh đó, tiếng súng khởi nghĩa ở Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), Nam Kỳ, Đô Lương đã thôi thúc mạnh mẽ tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Cờ Đảng lại tung bay trên cây gạo ở Trình Xuyên (Vụ Bản). Đội tự vệ ở Hà Cát được thành lập.
Đầu tháng 5-1941, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ tám họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị tiếp tục hoàn thiện việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Đảng trong tình hình mới, quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), xây dựng lực lượng cách mạng cả về chính trị và quân sự, cả ở miền núi, nông thôn và thành thị, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Cao trào kháng Nhật, cứu nước (tháng 3-1945 đến tháng 8-1945).
Ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính quân sự, lật đổ chính quyền thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Cùng với chính sách quân sự phát xít, chính sách vơ vét cạn kiệt lương thực, thực phẩm của Nhật đã khiến cho 212.218 nguời dân Nam Định chết thê thảm trong nạn đói đầu năm 1945.
Mặc dù phát xít Nhật dùng mọi thủ đoạn để khống chế phong trào cách mạng, nhưng ở nhiều nơi quần chúng đã phẫn uất tiến hành phá tài sản của Nhật, tự vệ thành phố đốt kho xăng dầu ở bến đò Chè (Thành phố Nam Định), đốt kho đay ở làng Gạo (Vụ Bản)…
Sau Hội nghị Ban Cán sự tại Quần Liêu nghiên cứu Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, phong trào cách mạng tại Nam Định lại được tăng cường lực lượng, cao trào cách mạng ngày càng dâng cao. Đặc biệt, đội tuyên truyền xung phong của Tỉnh hoạt động rất tích cực, có bắn súng, đốt pháo, diễn thuyết và phát truyền đơn liên tiếp, khắp nơi.
Khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong khoảng thời gian rất ngắn (từ ngày 9-3-1945 đến tháng 8-1945), Đảng bộ Nam Định đã gấp rút xây dựng lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa. Ngày 14-8-1945, Nhật Hoàng phải tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo điều kiện khách quan hết sức thuận lợi cho cách mạng Việt Nam bùng nổ.
Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng đã phát bản Quân lệnh số 1, hiệu triệu toàn dân vùng lên giành chính quyền.
Từ ngày 17-8 đến ngày 22-8, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và mặt trận Việt Minh, nhân dân ở các địa phương đã nhất tề nổi dậy đập tan bộ máy thống trị của đế quốc, phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Ngày 17-8, khởi nghĩa thành công ở huyện Trực Ninh.
Ngày 18-8, khởi nghĩa thành công ở huyện Nam Trực.
Chiều tối ngày 18-8, Đội Danh dự đã phát báo, dùng loa phóng thanh tuyên truyền khởi nghĩa ở Chợ Rồng, hàng ngàn người kéo tới dự tạo thành cuộc mít tinh lớn.
Trước khí thế mãnh liệt của quần chúng, ngày 19-8, chính quyền bù nhìn và phát xít Nhật đã phải trả thả hầu hết các chính trị phạm bị giam giữ.
Trong đêm 20 và sáng ngày 21-8, truyền đơn kêu gọi nhân dân mít tinh được rải khắp nơi. Chiều hôm đó, cả thành phố là một rừng cờ đỏ sao vàng. Đến 3 giờ chiều, cuộc mít tinh khai mạc. Gần ba vạn quần chúng hân hoan hưởng những giờ phút độc lập đầu tiên trong đời. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định được thành lập gồm bảy người do Đặng Châu Tuệ làm chủ tịch. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Nam Định do Nguyễn Văn Hoan làm chủ tịch ra mắt nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định diễn ra nhanh gọn. Chỉ trong vòng sáu ngày (từ 17-8 đến 22-8), toàn bộ chính quyền địch từ tỉnh đến huyện đã sụp đổ hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân. Với cuộc cách mạng Tháng Tám, lịch sử Nam Định cùng cả nước bước sang một trang mới.
Sự Ra Đời Và Sứ Mệnh Lịch Sử Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đối Với Giai Cấp, Dân Tộc Và Xã Hội
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua 90 năm lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam luôn ý thức được vị trí, vai trò, trọng trách của mình trước vận mệnh dân tộc, tương lai của đất nước, tạo ra những dấu mốc quan trọng của cách mạng Việt Nam “Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(1).
ĐCS Việt Nam – chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời mang bản chất giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của ĐCS Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết định.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác – con đường cách mạng vô sản”(2). Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(3). ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo nhân dân cùng một lúc phải làm tư sản cách mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do ĐCS lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;… “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”;… Làm cho nước Việt Nam được độc lập;… giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;… đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân”.
90 năm qua, Đảng ta đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc ta đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc và đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược; lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia làm hai miền, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi đế quốc Mỹ đưa quân vào xâm lược miền Nam (năm 1965), tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc (năm 1964), Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đánh cho Mỹ cút (năm 1973), đánh cho ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (ngày 30/4/1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ – La tinh.
Cách mạng Việt Nam hiện nay đã chuyển sang giai đoạn mới. Những mục tiêu cơ bản của cách mạng do Đảng xác định từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay đang được thực hiện. Đất nước đã được độc lập, nhân dân được tự do. Tuy nhiên, đời sống của nhân dân lao động vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế đất nước vẫn chưa phát triển mạnh. Đảng ta chỉ rõ: “Nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,… sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”(4),… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Các thế lực thù địch, cơ hội thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam đã thực hiện nhiều hoạt động thâm độc nhằm gây chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi Đảng ta đang tiến hành thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì các thế lực thù địch càng ráo riết dùng mọi thủ đoạn để chống phá Đảng, đòi “đổi mới thể chế chính trị” ở Việt Nam. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật, kích động, lôi kéo những người bất mãn với chế độ, bôi nhọ, nói xấu Đảng và Nhà nước… gây ra sự bất ổn về chính trị ở một số nơi, gây hoài nghi về vai trò, khả năng lãnh đạo của Đảng, nhằm từng bước làm mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng với mưu đồ tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với giai cấp, dân tộc và xã hội.
Có hay không vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với giai cấp và xã hội, câu hỏi này chỉ có người dân Việt Nam mới có câu trả lời chính xác. Chính nhân dân – chứ không phải ai khác mới là cán cân chân lý, là người đánh giá chính xác nhất vai trò, uy tín của Đảng, là người có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn sự lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Những kẻ bán nước cầu vinh, vụ lợi chính trị tuyên truyền bịa đặt, giả danh, giả nghĩa… thì không đủ tư cách, nhân phẩm để có tiếng nói trong vấn đề này. Dù họ có nỗ lực đến đâu và cố tình bịa đặt “bóp méo sự thật” đến mức độ nào thì kết quả nhận được cũng sẽ là sự tuyệt vọng. Đảng ta không có quyền lợi nào khác ngoài quyền lợi được phục vụ nhân dân, được phục vụ đất nước và trên thực tế Đảng ta đã là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cho dù thời cuộc có thay đổi phức tạp, khó khăn, nhưng người dân Việt Nam vẫn một lòng theo Đảng; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội ngày càng được khẳng định.
Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(5). Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”(6). Vấn đề đặt ra hiện nay là, mọi tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương, cán bộ, đảng viên phải nắm vững toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo; đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm; quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2023 của Bộ Chính trị (khóa XII) về: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đó là những vấn đề cơ bản, cấp thiết nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và toàn diện, song bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Với bản lĩnh đã được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua và làm tốt sứ mệnh lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó. Mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của các thế lực thù địch nhằm làm mất uy tín, danh dự, phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với giai cấp và xã hội chắc chắn sẽ vị vạch trần và thất bại. Bởi vậy, Đảng cần kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới./.
Ghi chú:
(1) ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.12.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.1995, tr.314.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.267 – 268.
(4), (5), (6) ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H.2023, tr.18-19, tr.217, tr.199.
Trung tướng, TS Lê Huy Vịnh – Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Theo: http://tcnn.vn
Chế Độ Cộng Sản Nguyên Thủy Và Tổ Chức Thị Tộc
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. Nhưng những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước và pháp luật lại nảy sinh chính trong xã hội đó.
Để tìm hiểu về xã hội cộng sản nguyên thủy, trước hết cần nghiên cứu cơ sở kinh tế của nó, bởi vì cơ sở kinh tế là yếu tố cơ bản quyết định đời sống xã hội. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người chưa có nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân mình, họ luôn luôn trong tình trạng mềm yếu, hoảng sợ và bất lực trước những tai họa của thiên nhiên thường xuyên xảy ra, năng suất lao động thấp … Trong những điều kiện và hoàn cảnh đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ những thành quả lao động chung. Để có thể cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ những thành quả lao động, một nguyên tắc phân phối đặc trưng đã hình thành, đó là nguyên tắc bình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không có ai có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người này chiếm đoạt tài sản của người kia. Xã hội chưa phân chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
Chính những điều kiện kinh tế đó đã quyết định đời sống xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy. Tế bào cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc. Thị tộc là kết quả của một quá trình tiến hóa lâu dài. Nó xuất hiện ở một giai đoạn khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định.
Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại, nó đã đặt nền móng cho việc hình thành hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên trong lịch sử – hình thái kinh tế – xã hội cộng sản nguyên thủy. Tổ chức thị tộc đã thực sự là một tổ chức lao động và sản xuất, một bộ máy kinh tế – xã hội.
Cơ sở kinh tế đặc trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã quyết định mối quan hệ giữa người với người trong tổ chức thị tộc. Mọi người đều tự do, bình đẳng, không một ai có đặc quyền, đặc lợi đối với người khác trong cùng một thị tộc. Trong thị tộc đã tồn tại sự phân công lao động, nhưng mới chỉ là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực hiện các loại công việc khác nhau chứ chưa mang tính xã hội.
Thị tộc tổ chức theo huyết thống. Ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân, do phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc, các thị tộc đã được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần dần, sự phát triển của kinh tế xã hội đã tác động làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân; mặt khác địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay đổi. Người đàn ông đã giữ vai trò chủ đạo trong đời sống thị tộc và chế độ mẫu hệ đã chuyển thành chế độ phụ hệ.
Anh Hùng Giải Phóng Dân Tộc
Anh hùng giải phóng dân tộc
Thứ Năm, ngày 7 tháng 5 năm 2023 – 08:27
A-
Cỡ chữ: A+
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc đều lần lượt thất bại, phong trào cứu nước của nhân dân ta đứng trước khủng hoảng sâu sắc về đường lối.
Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước, Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt. Người đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin; bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất mới của thời đại mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm 1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
Đình Hồng Thái, nơi Bác Hồ dừng chân dầu tiên tại Tân Trào 21.5.1945
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Ngay sau khi giành độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ Đảng và giữ vững chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính” phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đi theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; và chính trong quá trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Theo Báo Tuyên Quang
Tổ Chức Cuộc Thi “Tìm Hiểu Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Và Đảng Bộ Tỉnh Bình Định”
Tổ chức Cuộc thi “Tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bình Định”
Cuộc thi “Tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bình Định” được tổ chức nhằm hướng tới kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930 – 3.2.2023); 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 45 năm giải phóng tỉnh Bình Định (31.3.1975 – 31.3.2023), giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30.4.1975 – 30.4.2023); chào mừng Đại hội đảng các cấp.
Cuộc thi “Tìm hiểu Lịch sử truyền thống cách mạng thành phố Quy Nhơn”. Ảnh N.M
Cuộc thi phát động từ ngày 19.5.2023 và nhận bài dự thi đến hết ngày 30.11.2023. Tất cả cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh Bình Định đều có thể tham gia.
Cuộc thi nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất là giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ hiểu rõ quá trình hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh Bình Định; nâng cao lòng tự hào, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân, nhất là tuổi trẻ Bình Định tiếp tục rèn luyện, cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thiết thực thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng.
Cuộc thi là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, có tác dụng giáo dục chính trị đối với toàn thể cán bộ, đảng viên, sinh viên, học sinh, quân và dân trên địa bàn tỉnh.
A.T
Vai Trò Của Nguyễn Ái Quốc Tại Hội Nghị Hợp Nhất Các Tổ Chức Cộng Sản Ở Việt Nam
(TG) – Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời gắn liền với công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người quyết định thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản vào mùa xuân năm 1930, tạo ra bước ngoặt mới cho phong trào cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc triệu tập thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở Việt Nam xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (thành lập tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (thành lập tháng 1/1930). Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản đã chứng minh sự thắng thế của xu hướng cộng sản trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Ba tổ chức cộng sản ra đời tiếp tục thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Các chi bộ của các tổ chức cộng sản đã trực tiếp lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng ở nhiều xí nghiệp, đồn điền. Từ tháng 4/1929 đến tháng 4/1930 có 43 cuộc bãi công của công nhân. Phong trào đã có sự phối hợp hành động thống nhất giữa các cuộc đấu tranh, giữa các địa phương trong cả nước.
Tuy nhiên, 3 tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, không có lợi cho cách mạng. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam, ngày 5/3/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Khoảng tháng 5/1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị sau này hãy tổ chức. Nhóm Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông Dương). Một số khác, sau đó đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hoà đầu tiên. Nhóm Bắc Kỳ tìm hết cách để phá hoại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vì họ cho rằng: hội đó quá đông và cơ hội chủ nghĩa nên nó có thể làm lu mờ ảnh hưởng và công tác của Đảng Cộng sản trong quần chúng. Nhóm An Nam ra sức giữ cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tiếp tục hoạt động vì họ cho rằng: Hội có thể lợi dụng để tập họp tầng lớp trí thức và giai cấp tiểu tư sản. Đó là mối bất hoà thứ hai. Cả hai đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày cũng rộng ra bấy nhiêu”(1)
Sự chia rẽ, mất đoàn kết đã làm phân tán sức mạnh chung của phong trào, điều này nếu để lâu sẽ không có lợi cho cách mạng. Yêu cầu của cách mạng Việt Nam lúc này phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Nắm được tình hình của cách mạng Đông Dương, với vai trò là một tổ chức lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị cho những người cộng sản ở Đông Dương về việc phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản. Thư gửi những người cộng sản Đông Dương ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương”(2).
Tài liệu nói trên của Quốc tế Cộng sản là một văn kiện chính trị rất quan trọng đối với những người cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, tài liệu này được bí mật gửi qua đường liên lạc của Đảng Cộng sản Pháp nên mãi đến tháng 2/1930 mới đến được Sài Gòn, chuyển cho Xứ ủy Nam Kỳ
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động tại Xiêm. Người vẫn thường xuyên theo dõi tình hình của cách mạng Việt Nam. Sau khi nhận được tin tức về sự chia rẽ của cách mạng Việt Nam, mặc dù chưa nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, song Nguyễn Ái Quốc đã chủ động lên đường đi Trung Quốc, viết thư gửi các tổ chức cộng sản để bàn về vấn đề hợp nhất. Trong báo cáo gửi Quốc tế cộng sản ngày 18/2/1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “tôi đi Trung Quốc, tới đó vào ngày 23/12. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của 2 nhóm Đông Dương và An Nam, chúng tôi họp vào ngày 6/1… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8/2”(3).
Nhận được thư triệu tập của Nguyễn Ái Quốc, các đại biểu của 2 tổ chức lập tức lên đường. Các đại biểu đều rất vui mừng vì nghĩ sẽ được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người mà tất cả đã “biết từ lâu nhưng chưa từng gặp mặt… Từ lâu, chúng tôi vẫn ao ước có một người mà ai cũng phải thừa nhận là vô tư, là hiểu biết sâu rộng về cách mạng hơn hẳn chúng tôi, để nhận xét và giúp chúng tôi giải quyết mọi vấn đề phức tạp. Người đó chính là đồng chí Vương….Chúng tôi đến Hương Cảng vào dịp Tết Canh Ngọ”(4).
Như vậy, mặc dù chưa nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, song Nguyễn Ái Quốc bằng nhãn quan chính trị nhạy bén của mình đã chủ động triệu tập thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Sự thành công này không phải chỉ xuất phát từ cái danh là đại diện của Quốc tế Cộng sản, có quyền quyết định mọi vấn đề của cách mạng Đông Dương mà còn xuất phát từ chính uy tín của bản thân đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Triệu tập thành công hội nghị là thắng lợi bước đầu để Hội nghị hợp nhất được diễn ra tốt đẹp.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất
Việc hợp nhất là vấn đề phức tạp, bởi lẽ các tổ chức cộng sản trước đây đã nhiều lần họp bàn để hợp nhất nhưng đều không thành công. Các vấn đề như hợp nhất như thế nào? tổ chức nào còn, tổ chức nào mất? tên Đảng là gì? Đường lối ra sao? đều là những vấn đề rất nhạy cảm mà bản thân các tổ chức cộng sản không thể giải quyết được. Hội nghị hợp nhất cần phải có người đủ cả tâm, tầm, trí chủ trì để đưa hội nghị đi đến thành công.
Thực tế là Hội nghị hợp nhất đã diễn ra rất sôi nổi với sự tranh luận gay gắt giữa cả 2 nhóm đại biểu Đông Dương và An Nam. Theo đồng chí Nguyễn Thiệu- đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng tham dự Hội nghị hợp nhất thì những ý kiến đầu tiên của cả hai nhóm “cũng chỉ luẩn quẩn ở chỗ muốn đưa đồng chí Vương đến chỗ là quan tòa phán quyết những đúng sai”(5) của mỗi bên. Khi bàn đến vấn đề hợp nhất thì cũng không bên nào chịu bên nào. Bên này thì cho rằng bên kia tổ chức quá phức tạp, bên kia lại bảo bên này tổ chức vô nguyên tắc, hẹp hòi. Ngay tên Đảng là gì cũng xảy ra bất đồng chính kiến, “các đại biểu nhóm Đông Dương đề nghị giữ lại cái tên Đông Dương Cộng sản Đảng. Các đại biểu nhóm An Nam không đồng ý như vậy, cho rằng đó là cái tên của một nhóm cộng sản cũ rồi, không nên dùng lại làm gì”(6). Cuộc tranh luận giữa hai bên có lúc gay gắt tưởng chừng như lại tan vỡ đến nơi.
Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, trên cương vị là người chủ trì Hội nghị, bằng tài trí và kinh nghiệm hoạt động chính trị của mình, Người đã khéo léo tháo gỡ từng bất đồng, đưa Hội nghị đi đến thành công.
Về vấn đề hợp nhất như thế nào, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của cả hai bên. Đồng chí cho rằng: “Thực ra nhóm nào cũng có cái đúng, cũng có cái sai, nhưng mục đích của cuộc họp này không phải là để chỉ trích lẫn nhau… mà mục đích duy nhất của cuộc họp này là hợp nhất…. Muốn thu hút hết thảy những người, những nhóm người tình nguyện chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản vào một tổ chức cộng sản thống nhất thì bây giờ phải thành lập một Đảng Cộng sản mới, theo đúng đường lối, chủ trương của Quốc tế Cộng sản, có chính cương mới, điều lệ mới, sách lược mới”(7).
Về vấn đề tên Đảng, trước sự tranh luận gay gắt giữa hai bên, đồng chí Nguyễn Ái Quốc lại từ tốn phân tích: “Đông Dương là cái tên chỉ những nước ở trên bán đảo giữa Ấn Độ và Trung Quốc, như thế gồm có Miến Điện, Xiêm La, Mã Lai, Miên, Lào và ba kỳ của nước chúng ta; cho nên thường người ta muốn chỉ Miên, Lào và nước chúng ta thì dùng cái tên “Đông Dương thuộc Pháp” (Indochine Française); nhưng không ai dại gì mà dùng cái tên “Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc Pháp”. An Nam là cái tên người Trung Quốc vẫn quen dùng từ lâu để gọi nước ta; nhưng hiện tại đối với người Pháp và thế giới, trên bản đồ, An Nam chỉ là Trung Kỳ. Rốt lại chỉ có cái tên Việt Nam là đúng hơn hết và thích hợp nhất. Đối với người Trung Quốc, cái tên Việt Nam cũng quen chẳng kém gì cái tên An Nam; đối với thế giới thì dần dần người ta cũng quen. Nước ta đang bị bọn đế quốc chiếm cứ, nhân dân ta phải có nhiều hành động quật khởi thì rồi người ta mới biết đến tên tuổi. Cái tên “Đảng Cộng sản Việt Nam” không còn lẫn vào đâu được, mọi người sẽ không còn nghĩ đến một tổ chức cũ nào cả.”(8).
Đồng chí còn phân tích thêm: Dầu sao cái tên Đảng vẫn không phải quan trọng hàng đầu, mà quan trọng hàng đầu chính là đường lối, chính sách, chủ trương và thành phần của Đảng. Nhưng vì rằng, mọi người dự cuộc họp đều tha thiết tìm cho Đảng một cái tên thật thích hợp, nên sau ý kiến đưa ra của các đại biểu quốc tế, các đại biểu hãy suy nghĩ thêm xem có tìm ra một cái tên nào tốt hơn không, và hôm sau sẽ tiếp tục bàn bạc.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam
Thống nhất về tên Đảng là một vấn đề quan trọng song cũng chưa quan trọng bằng việc thống nhất về đường lối chính trị của Đảng. Trong bối cảnh cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, sự thống nhất về đường lối chính trị cấp thiết hơn sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắt tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên đã bao quát được những vấn đề chiến lược và sách lược đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác định: phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Nhiệm vụ cơ bản của tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng là đánh đổ đế quốc, phong kiến giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, sớm hình thành tư tưởng phân hóa giai cấp địa chủ phong kiến, tập trung đánh đế quốc và Việt gian tay sai, giải phóng dân tộc. Về lực lượng cách mạng, trên cơ sở lấy giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng chính do giai cấp công nhân lãnh đạo, mở rộng đoàn kết với các giai cấp, các tầng lớp và toàn thể dân tộc. Về phương pháp cách mạng đó là sử dụng sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân để lật đổ ách thống trị của đế quốc, tay sai, lập nên chính phủ cộng hòa. Về mối quan hệ với cách mạng thế giới, Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Về vai trò của Đảng lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tuy vắn tắt nhưng đã xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đã giải quyết nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân. Độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Điều đáng chú ý ở chỗ, trong nội dung bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên có nhiều điểm khác biệt so với đường lối của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ. Đó là sự khác biệt trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, chống đế quốc và chống phong kiến; Vấn đề đánh giá khả năng tham gia cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác ngoài công nhân và nông dân; Vấn đề về tên Đảng.
Nếu như Quốc tế Cộng sản đặt nặng vấn đề đấu tranh giai cấp, coi giai cấp tư sản và phong kiến nói chung đều là cừu địch của cách mạng, Đảng phải là đảng chung của 3 nước Đông Dương, tên Đảng phải là Đảng Cộng sản Đông Dương. Thì Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng, ở Việt Nam, nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải được đặt lên hàng đầu, cách mạng chỉ chủ trương đánh đổ bọn tư sản và phong kiến tay sai phản động, còn lại phải “hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ về phe vô sản giai cấp”(9), ngay cả đối phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ phản cách mạng thì cũng phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Đối với vấn đề tên Đảng, Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, vẫn giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia song chỉ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy có thể thấy rằng, vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1 đến 7/2/1930) là hết sức to lớn. Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được rất nhiều những thành công to lớn. Đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tổng Phú Trọng đã khẳng định “Chưa bao giờ chúng ta có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín quốc tế như ngày nay”. Chứng kiến sự phát triển của đất nước, chúng ta lại càng thấy được vai trò to lớn của Đảng, tầm quan trọng của sự kiện Đảng ra đời và công lao to lớn của của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tại Hội nghị hợp nhất này./.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, t.2, tr.34-35.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, t.1, tr.614.
(3), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.3, tr.12-13, 3.
(4),(5), (6), (7), (8) Nguyễn Đức Tài, Võ Văn Bé, Đinh Thị Mỹ Vân:Bác Hồ với Đại hội Đảng, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2023, tr.13, 134, 136, 134-136, 137.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, H, 1999, t.4, tr.7
Lê Đức Thuận Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Ra Đời Của Tổ Chức Cộng Sản Và Phong Trào Đấu Tranh Giải Phóng Dân Tộc Ở Tỉnh Nam Định (1929 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!