Bạn đang xem bài viết Sự Khác Biệt Giữa Tiếng Đức Và Tiếng Việt được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1) Động từ tiếng Đức khi dùng trong câu phải chia cho chủ ngữ, tiếng Việt không có sự chia động từ.
2) Tiếng Đức có thể hoán vị vị trí của chủ ngữ và các thành phần khác qua động từ được chia, tiếng Việt thì nói theo trình tự Subjekt-Prädikat-Objekt (Chủ ngữ-Vị ngữ-Thành phần bổ sung), không thể hoán vị được.
3) Có bốn cách trong tiếng Đức, tiếng Việt không có sự chia cách. Cứ ai được nhắc đến trước sẽ là chủ ngữ, là thủ phạm.
5) Danh từ trong tiếng Đức có thể được ghép lại từ nhiều loại từ khác nhau thành một danh từ mới có ý nghĩa phức tạp và nhiều khi dài tới 50, 60 chữ hoặc hơn. Tiếng Việt không có sự ghép danh từ này.
6) Tiếng Đức có ba giống, giống đực, giống cái, giống trung. Tiếng Việt không có giống rõ ràng, chỉ có „cái, con” và “thằng”.
7) Tính từ trong tiếng Việt luôn đứng đằng sau danh từ và không có sự biến đuôi theo giống, số và cách. Tính từ trong tiếng Đức đa số đứng đằng trước danh từ và có 72 khả năng biến hóa (Tôn Ngộ Không?).
8) Động từ trong tiếng Đức rất phức tạp, đôi khi cũng rất trìu tượng cầu kỳ. Nhiều động từ chỉ dành riêng cho người hoặc thú vật hay là cây cỏ. Ví dụ động từ „ essen = ăn” chỉ dùng cho người. Các loài động thực vật phải dùng động từ khác (fressen). Ngoài ra càng ngày càng có nhiều động từ có xuất xứ từ các ngôn ngữ khác được sử dụng trong tiếng Đức. Thêm nữa bất cứ một hành động nào cũng có thể tạo nên một động từ mới. Ví dụ động từ „ googeln” được xuất phát từ hành động vào mạng Internet dùng máy tìm của hãng Google để tìm một cái gì đó. Cách đây 20 năm không có động từ này. Những động từ tương tự như thế này hầu như không thể xẩy ra trong tiếng Việt, vì thế nên trong công nghệ vi tính chúng ta bị thiệt thòi nhiều. Có lẽ tiếng Việt cũng cần có một vài cải cách cho phù hợp với trào lưu chung.
9) Đại từ nhân xưng trong tiếng Việt do văn hóa cổ (Nho giáo) nên rất phong phú. Tiếng Đức tương đối đơn giản. Chỉ một chữ „ du ” ta cũng có thể dịch ra rất nhiều từ khác nhau trong tiếng Việt.
10) Khi đọc số hàng chục trong tiếng Đức người ta đọc số hàng đơn vị trước rồi mới đến hàng chục. Ví dụ số 23 thì đọc là „ dreiundzwanzig “. Mà khi viết thì người ta lại viết số hai trước số ba. Điều này tưởng là nhỏ nhặt nhưng thực ra rất khó chịu không những chỉ đối với người nước ngoài học tiếng Đức mà ngay cả đối với người Đức.
Sự Khác Biệt Giữa Tiếng Đức Và Tiếng Anh
Dựa trên số liệu thống kê mới nhất năm 2023, tiếng Anh là ngôn ngữ được nói nhiều thứ ba trên thế giới. Khoảng 379 triệu người được tìm thấy ở 137 quốc gia nói tiếng Anh là ngôn ngữ đầu tiên của họ. Phần lớn trong số họ là ở Bắc Ireland. Mặt khác, tiếng Đức được xếp hạng 17 trong số các ngôn ngữ được nói nhiều nhất trên toàn thế giới. Khoảng 76,1 triệu người ở 28 quốc gia sử dụng tiếng Đức là ngôn ngữ đầu tiên của họ.
Kết hợp tất cả các người nói (người bản ngữ và người nói song ngữ), khoảng 1.132.366.680 người nói tiếng Anh, so với 132.176.520 người nói tiếng Đức.
Tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức tại quốc gia Đức. Nó cũng được nói bởi một lượng dân số lớn ở Trung u, đặc biệt là ở các vùng của Áo, Bỉ, Thụy Sĩ, Liechtenstein và Nam Tyrol ở Ý. Hơn nữa, tiếng Đức còn là một trong những ngôn ngữ chính thức của tiếng Ba Tư và là ngôn ngữ chính thức tại Ba Lan, Opole Voivodeship. Ngược lại, tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong văn hóa pop và phương tiện truyền thông Đức. Do sự tương đồng của chúng, người nói tiếng Anh dễ dàng học tiếng Đức vì người Đức thấy việc học tiếng Anh dễ dàng hơn.
Tiếng Đức được xếp hạng 17 là ngôn ngữ được nói nhiều nhất trên toàn thế giới, nhưng lại được xếp thứ hai sau tiếng Anh về các ngôn ngữ Tây Đức được nói nhiều nhất. Họ ngôn ngữ Ấn- Âu nhánh Tây Đức bao gồm tiếng Yiddish, tiếng Hạ Đức/tiếng Hạ Saxon, tiếng Nam Phi, tiếng Anh, tiếng Hà Lan, tiếng Frisian và tiếng Luxembourg. Về từ vựng, tiếng Đức có nhiều điểm tương đồng với các từ vựng thuộc tiếng Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch.
Mặc dù hai ngôn ngữ có thể có một số khía cạnh chung do chúng đến từ cùng một nhánh ngôn ngữ, nhưng có một số đặc điểm khác cản trở người Đức nói tiếng Anh trôi chảy.
Đầu tiên là bảng chữ cái. Giống như tiếng Anh, tiếng Đức có 26 chữ cái, nhưng cũng có một tập hợp các ký tự được đánh dấu, chẳng hạn như ö, ü và ä, cũng như chữ S kép hoặc scharfes S, được biểu thị bằng ß. Người Đức học tiếng Anh lần đầu tiên thường nhầm E hoặc R và viết chúng là A hoặc I khi nó được đánh vần. âm vị học
Về âm vị học, thanh tiếng Đức và tiếng Anh gần như tương tự nhau. Điều này cũng đúng với ngữ điệu và trọng âm. Nhưng trong tiếng Đức, âm /th/ không có, do đó rất khó để họ tạo ra các từ bắt đầu bằng thanh đặc biệt này. Người nói tiếng Anh phát âm riêng biệt chữ /v/ và /w/. Những từ phát âm tiếng Đức bắt đầu bằng âm /w/ trong âm /v/ vì vậy, “wine” trở thành “vine” and “we” được phát âm là “ve.”
Đối với thì của động từ, dạng thì của động từ tiếp diễn không được sử dụng trong tiếng Đức. Tiếng Đức sử dụng thì hiện tại đơn khi đối tác tiếng Anh sẽ sử dụng thì tương lai. Thay vì thì quá khứ, thì hiện tại hoàn thành thường được sử dụng. Các thì của tiếng Đức đơn giản hơn. Ví dụ, động từ “to go” chỉ có hai thì trong tiếng Đức, hiện tại và quá khứ.
Vì vậy, bạn nói, “I go” (Ich gehe) và “I went” (Ich bin gegangen). Bạn có thể chỉ ra thì tương lai bằng cách thêm một từ thể hiện thời gian trong tương lai, chẳng hạn như ngày mai, tuần tới, v.v.
Tuy nhiên, trong tiếng Anh, bạn sẽ có một số thì cho động từ “to go” trong các dạng khẳng định, phủ định và nghi vấn, chẳng hạn như:
Tiếng Anh nói chung không bị ảnh hưởng trong khi tiếng Đức thì khác, do đó một số phần của bài phát biểu bằng tiếng Đức có thể thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm của chúng.
Trật tự từ của hai ngôn ngữ là khác nhau. Tiếng Anh có trật tự từ S-O-V. Tiếng Đức, mặt khác có trật từ ba từ. Trong một mệnh đề độc lập, động từ chính phải đứng thứ hai, có nghĩa là chủ ngữ và động từ sẽ phải được đảo ngược. Trong tiếng Đức, bạn nói, ” Manchmal komme ich mit dem Bus in die Schule,” nghĩa là Sometimes I come to school by bus.
Trong một mệnh đề độc lập, phân từ quá khứ nên để xuống cuối cùng. I have not seen him nghĩa là ” Ich habe ihn nicht gesehen ” trong tiếng Đức.
Trong một mệnh đề phụ thuộc, động từ chính phải ở vị trí cuối cùng trong câu. Nó được thể hiện trong ví dụ này – ” Sie fragte mich, ob ich den Film schon gesehen hätte ” dịch sang là She asked me if I had already seen the film trong tiếng Anh.
Hai ngôn ngữ có cùng một số từ gốc, chẳng hạn như drink/trinken, house/haus và winter/winter. Tuy nhiên, cũng có một số từ gốc không giống nhau về ý nghĩa.
Tuy nhiên, bạn không sử dụng các mạo từ xác định hoặc không xác định bằng tiếng Đức nếu bạn đang chỉ ra một hình thức nhận dạng, quốc tịch hoặc nghề nghiệp.
Tiếng Đức rất khắt khe trong việc sử dụng dấu câu.
Hơn nữa, danh từ tiếng Đức luôn được viết hoa.
Có một số khác biệt giữa ngữ pháp tiếng Anh và tiếng Đức.
Ví dụ, tiếng Anh chỉ có các trường hợp danh cách, đối cách và thuộc cách cho đại từ. Ngôn ngữ Đức có thêm tặng cách.
Hơn nữa, tiếng Đức có một số từ ghép dài. Ngôn ngữ tiếng Anh cũng có một số ngôn ngữ có thể tìm thấy trong từ điển, chẳng hạn như:
Note: Mẫu dịch thuật học bạ Tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn, Đức, Nga
Trong tiếng Đức, có thể diễn tả cảm xúc của một người bằng cách sử dụng động từ, “to have.” Ví dụ, trong tiếng Anh, bạn có thể nói, “I am hungry.” Tuy nhiên, thông thường nói “I have hunger” trong tiếng Đức.
Như bạn có thể thấy, tiếng Đức và tiếng Anh có một số khác biệt khiến việc học một trong hai ngôn ngữ không dễ dàng như mong đợi, mặc dù chúng đến từ cùng một nhánh ngôn ngữ Tây Đức.
Vì vậy, không dễ để học tiếng Anh hay tiếng Đức và điều đó trở thành một số thách thức khi dịch ngôn ngữ, vì sự khác biệt trong các quy tắc ngữ pháp. Ví dụ, khi bạn nói, “I am reading the newspaper” bằng tiếng Anh, người học thường dịch nó là “Ich bin lesen die Zeitung” khi dịch từng từ. Tuy nhiên, bản dịch thực tế và chính xác là “Ich lese die Zeitung”, vì tiếng Đức không có thì hiện tại tiếp diễn.
Chúng tôi có thể thúc đẩy doanh nghiệp toàn cầu của bạn ở Trung Âu nơi sử dụng tiếng Đức bằng cách đảm bảo tất cả thông tin liên lạc của bạn là chính xác hoàn hảo. Idichthuat cung cấp dịch vụ dịch thuật tiếng Đức chất lượng cao, sử dụng các dịch giả trong và ngoài nước có chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau. Với những chia sẻ ở trên, chúng tôi hy vọng bạn có thể hiểu được sự khác biệt giữa tiếng Đức và tiếng Anh để chọn cho mình một ngôn ngữ học phù hợp để phát triển sau này.
Sự Khác Biệt Giữa Tiếng Việt Và Tiếng Anh
Sự khác biệt đầu tiên đó là:
Tiếng Việt là tiếng “Đơn âm”.
Tiếng Anh là tiếng “Đa âm”.
Từ “Tiếng Việt” được phát âm 1 âm tiết là “Tiếng” và “Việt”.
Từ “English” là 1 từ nhưng được đọc đến 2 âm tiết “Eng” và “lish”.
Từ sự khác biệt này nó nảy sinh vấn đề đó là trong tiếng Việt chúng ta có hệ thống có dấu, thanh và được thể hiện trong cách viết. Còn bên tiếng Anh thì có trọng âm (Trọng âm là hiện tượng được phát âm cao và rõ hơn các âm còn lại trong 1 từ) nhưng không được thể hiện trong cách viết mà nó được thể hiện ở phần phiên âm của từ. Điều lưu ý ở đây là tiếng Việt mỗi chữ cái sẽ chỉ có một cách đọc duy nhất còn tiếng Anh thì một chữ cái có nhiều cách phát âm khác nhau.
Ví dụ: Eleven /i’levn/ từ này có 3 chữ “e” nhưng ở 3 vị trí đều có cách phát âm khác nhau.
Từ đây chúng ta rút ra một đặc điểm về sự khác biệt giữa Tiếng Việt và Tiếng Anh rất là thú vị đó là:
Bên tiếng Việt viết như thế nào đọc như thế nấy. Trong tiếng Anh thì viết đường này nhưng đọc một nẻo. Từ cách đọc phiên âm cho đến trọng âm nó đều không hiện ra trước mắt ngay đâu, mà nó sẽ được dấu ở một chỗ khác. Khi tra từ điển chúng ta thường chỉ tra cách viết và nghĩa nhưng đã bỏ qua chi tiết cực kỳ quan trọng đó là phiên âm, nó sẽ giúp các bạn đọc chính xác và trọng âm của từ được đặt ở đâu.
Phiên âm được kí hiệu bằng những từ rất lạ, giống như ngôn ngữ của người ngoài hành tinh vậy, khi còn học ở trường các bạn hẳn là rất quen thuộc với bảng chữ cái tiếng Anh gồm có 26 chữ cái. Tuy nhiên, nó chỉ giúp các bạn viết đúng chính tả thôi chứ nó không làm các bạn có thể nói hay hoặc nói giống như người bản địa. Muốn nói được như người bản địa thì chúng ta phải học bảng phiên âm tiếng Anh, bảng này có 44 âm tiết như trong hình bên dưới:
Phần kết: Như vậy là kết thúc bài giới thiệu sự khác biệt giữa Tiếng Việt và Tiếng Anh. Hy vọng nó sẽ giúp bạn hiểu hơn về cấu trúc của tiếng Anh như thế nào.
Video được sưu tầm là của nhóm X-Team trên youtube, nội dung bài viết này do Công Ty Dịch Thuật Việt Uy Tín chuyên cung cấp dịch vụ chứng nhận lãnh sự, giấy phép lao động, dịch thuật công chứng tiếng anh thực hiện.
11 Điểm Khác Biệt Giữa Tiếng Anh Và Tiếng Việt
Từ cuối thế kỷ 19, cùng sự xâm lược của Thực dân Pháp, hệ chữ La-tinh đã được du nhập vào Việt Nam và dần dần trở thành chữ viết chính thức được sử dụng. Tuy nhiên tiếng Việt đã có cả một lịch sử chịu ảnh hưởng từ tiếng Trung Quốc nên cả về mặt phát âm lẫn ngữ pháp đều có sự khác biệt lớn so với những ngôn ngữ dựa trên chữ La-tinh khác.
Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm.
Ngôn ngữ đơn âm có nghĩa là mỗi một từ tiếng Việt là một âm tiết, một tiếng, một khối hoàn chỉnh trong phát âm.
Ví dụ:
Sẽ được đọc rõ ràng từng từ là ” Tôi” “là” “một” “giáo” “viên ”
Trong khi đó, tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm. Điều này có nghĩa, nhiều từ trong tiếng Anh không được cấu tạo từ 1 âm tiết, mà từ nhiều âm tiết.
Hai câu ví dụ trên đều có cùng ý nghĩa nhưng ở câu tiếng Việt mỗi từ là một âm tiết tách rời, cả danh từ “giáo viên” cũng được đọc tách ra thành 2 từ hoàn toàn riêng biệt là “giáo” và “viên”. Ở ví dụ tiếng Anh, ” teacher” là một từ duy nhất và được đọc thành 2 âm tiết ˈtiːʧə không tách rời mà nối với nhau.
Nhiều người có thói quen đọc tiếng Anh như đọc tiếng Việt, tức là đối với các từ tiếng Anh có nhiều âm tiết cũng bị chia nhỏ thành từng tiếng tách rời, đều bắt nguồn từ sự khác biệt này.
Do tính chất đơn âm của tiếng Việt nên khi đọc các từ sẽ được đọc rõ và đồng đều, thường không nhấn trọng âm.
Như trong câu ví dụ “Tôi là một giáo viên” mỗi từ được đọc rõ ràng như nhau: Tôi = là = một = giáo = viên.
Ngược lại, trong tiếng Anh, những từ đa âm tiết thường có một hoặc vài trọng âm. Việc đọc đúng trọng âm sẽ quyết định khả năng người khác có nghe hiểu đúng hay không.
Có rất nhiều từ trong tiếng Anh chỉ cần đọc sai trọng âm thì người nghe sẽ hiểu ra một nghĩa khác.
Nếu nhấn mạnh vào âm tiết đầu sẽ được đọc là / ˈpre/ là danh từ mang nghĩa là món quà, hiện tại
Nếu nhấn mạnh vào âm tiết sau sẽ được đọc là / zent/ là động từ mang nghĩa là giới thiệu, thuyết trình…
Việc nắm được trọng âm của từ là vô cùng quan trọng. Vì thói quen nói tiếng Việt mà chúng ta nhiều khi bỏ qua việc nhấn trọng âm này.
Ví dụ:
La – Là – Lá – Lạ – Lả – Lã có nghĩa hoàn toàn khác nhau
Việc có dấu hay có thanh cũng khiến cho tiếng Việt được cho là có giai điệu “như hát” theo lời nhận xét của rất nhiều người nước ngoài.
Tiếng Anh không có dấu nhưng có trọng âm và ngữ điệu ( intonation ). Có một số quy tắc về ngữ điệu trong tiếng Anh ( Luyện nói tiếng Anh tự nhiên với ngữ điệu ) nhưng nhìn chung, việc thay đổi ngữ điệu và thay đổi trọng tâm của câu giúp thể hiện thái độ và ý định của người nói.
Ví dụ:
You don’t like her!
Trong tiếng Việt, mỗi chữ cái chỉ có một cách phát âm. Do vậy, khi viết được từ thì chúng ta có thể biết được cách đọc của từ đó.
Ngược lại, trong tiếng Anh các chữ cái trong các từ khác nhau có thể được đọc rất khác nhau và các chữ cái hoàn toàn khác nhau trong các từ khác nhau lại được đọc giống nhau.
Ví dụ:
Cùng là chữ “a” nhưng trong hai từ trên được đọc hoàn toàn khác nhau.
Garage – Vision
(Ga-ra để xe – Tầm nhìn)
Chữ “g” và “s” lại được đọc giống nhau là ”
Thật thú vị phải không nào! Đây là lí do mà chúng ta thường hay lúng túng khi gặp một từ mới tiếng Anh vì không biết phải đọc như thế nào. Giải pháp cho bạn chính là hãy nhớ tra từ điển để xem phiên âm của từ. Hoặc bạn cũng có thể chọn một cách đơn giản hơn là cài đặt eJOY eXtension vào trình duyệt Chrome để tra được từ vựng mới mọi lúc mọi nơi, tra được cách đọc và NGHE được cả cách đọc từ vựng đó.
Tiếng Việt có không phân biệt rõ ràng cách đọc cho các nguyên âm đơn ngắn trong khi tiếng Anh có cách đọc nguyên âm đơn ngắn và dài. Việc đọc sai các nguyên âm đơn ngắn – dài có thể khiến người nghe hiểu sai nghĩa dẫn tới hiểu sai ý muốn truyền đạt.
Sheep – Ship
Các phụ âm chỉ đứng ở đầu hoặc cuối từ. Chúng ta thường chỉ đọc phụ âm khi chúng đứng ở đầu từ. Khi đứng cuối từ, các phụ âm thường kết hợp với nguyên âm ở trước nó để tạo ra một âm mới như “o+n=on” trong “con” và khi đọc chúng ta không đọc phụ âm cuối.
Tiếng Việt có 11 trường hợp các phụ âm đứng cạnh nhau để tạo thành một phụ âm ghép mới và có cách đọc được quy định như sau ( theo wikipedia )
Các phụ âm có thể đứng ở đầu, cuối và giữa của từ. Và chúng ta cần phát âm rõ tất cả các phụ âm đó.
Ví dụ:
Đặc biệt, việc phát âm rõ các phụ âm cuối rất quan trọng để nhận biết và phân biệt các từ.
Ví dụ:
Chính bởi thói quen nói tiếng Việt nên khi nói tiếng Anh chúng ta cũng thường không chú ý tới các phụ âm cuối dẫn đến người nghe không hiểu được chúng ta nói gì, bản thân chúng ta cũng bị bối rối giữa các từ nghe giống nhau như ví dụ trên. Thêm vào đó, việc bỏ qua phụ âm cuối còn làm ảnh hưởng tới ngữ điệu tiếng Anh bởi bạn đã bỏ qua một yếu tố để nối âm luyến láy rồi.
Tiếp theo, hãy xem sự khác biệt về ngữ pháp giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt nào:
Trong tiếng Việt chúng ta không có khái niệm về từ gốc, tiền tố và hậu tố của một từ để làm thay đổi ý nghĩa của từ đó.
Ví dụ:
Trong tiếng Anh, việc thêm tiền tố (prefix) và hậu tố (suffix) có thể biến đổi ý nghĩa và dạng của từ.
Ví dụ:
Trong tiếng Việt các từ vựng vẫn được giữ nguyên bất kể ngôi của chủ ngữ, số ít hay số nhiều hoặc thì của động từ.
Động từ “có” và danh từ “cái bánh” vẫn được giữ nguyên không thay đổi bất kể số lượng và ngôi của chủ ngữ.
Tiếng Anh thì khác, động từ sẽ thay đổi theo chủ ngữ và danh từ sẽ biến đổi theo số lượng.
Đây là lý do nhiều bạn rất hay mắc lỗi không chia động từ khi đặt câu hoặc quên viết số nhiều của danh từ.
Trong tiếng Việt, chúng ta không phân biệt rạch ròi danh từ xác định và danh từ không xác định.
Ví dụ: Tôi vừa xem xong bộ phim How I Met Your Mother và tôi không thích cái kết
Ở đây danh từ “cái kết” được sử dụng mà không được định rõ là danh từ xác định hay không xác định. Mặc dù chúng ta vẫn có thể tự hiểu được đây chính là “cái kết” của bộ phim How I Met Your Mother.
Ví dụ:
Trong tiếng Anh việc sử dụng mạo từ rất quan trọng để xác định danh từ đó là một danh từ không xác định (người nghe chưa biết tới) hoặc là một danh từ xác định (người nghe đã biết danh từ được nhắc đến là danh từ nào).
I have just finished the series How I Met Your Mother and I don’t like the ending.
Ở đây mạo từ ” ” được sử dụng giúp xác định danh từ ” “, người đọc biết chắc chắn ” ” này chính là cái kết của bộ phim mà không cần phải nhắc lại.
Sự khác biệt này khiến chúng ta lúng túng với việc sử dụng mạo từ trong tiếng Anh bởi bản thân chúng ta không xác định được khi nào cần dùng mạo từ, khi nào không, khi nào dùng mạo từ không xác định, khi nào cần dùng mạo từ xác định.
Ví dụ:
Trong tiếng Việt chúng ta thường chỉ sử dụng 3 thì: quá khứ – hiện tại – tương lai không phân biệt rạch ròi giữa thời điểm nói và thời điểm diễn ra hành động. Và ở 3 thì này thì động từ vẫn được giữ nguyên, chúng ta chỉ đơn giản là thêm vào các từ “đã”, “đang” và “sẽ” vào để phân biệt các thì mà thôi.
Khi nói về việc làm bài tập, chúng ta thường chỉ quan tâm đến hành động “làm bài tập”
Ví dụ:
Trong tiếng Anh có tới 12 thì, được phân biệt rạch ròi theo thời điểm nói và thời điểm xảy ra hành động. Đối với mỗi thì lại có một công thức riêng cho 3 thể khẳng định – phủ định – nghi vấn, cho ba ngôi chủ ngữ thuộc số ít, số nhiều và cần được sử dụng đúng hoàn cảnh.
Hãy xem một ví dụ ở thể phủ định, chủ ngữ thuộc ngôi thứ nhất (I) vẫn với hành động làm bài tập (do homework)
Mình đã làm bài tập (tại một lúc nào đó trong quá khứ.)
I was doing my homework at 7 pm yesterday.
Lúc 7 giờ tối qua thì mình đang làm bài tập.
Quá khứ hoàn thành
I had done my homework before 7 pm yesterday.
Mình đã làm xong bài tập trước 7 giờ tối qua rồi. (thời điểm nói là ngày hôm nay)
Quá khứ hoàn thành tiếp diễn
I had been doing my homework before 7 pm yesterday.
Trước 7 giờ tối qua thì mình vẫn đang làm bài tập. (thời điểm nói là ngày hôm nay)
Ngày nào mình cũng làm bài tập. (chỉ một thói quen, một hoạt động diễn ra thường xuyên lặp lại)
Hiện tại tiếp diễn
Mình đang làm bài tập. (tại thời điểm hiện tại)
Hiện tại hoàn thành
I have done my homework before you come.
Mình đã làm xong bài tập trước khi cậu đến. (tại thời điểm đang nói)
Hiện tại hoàn thành tiếp diễn
I have been doing my homework for 2 hours.
Mình đã ngồi làm bài tập 2 tiếng rồi (tính đến thời điểm đang nói).
Tôi sẽ làm bài tập. (vào một lúc nào đó không xác định trong tương lai)
I will be doing my homework at 7 pm today.
Lúc 7 giờ tối nay thì mình đang ngồi làm bài tập rồi. (đấy là việc chưa xảy ra, chỉ dự định thế thôi)
I will have done my homework before 7 pm today.
Mình sẽ hoàn thành bài tập trước 7 giờ tối nay. (đấy là dự định)
Tương lai hoàn thành tiếp diễn
I will have been doing my homework for 3 hours by 7 pm today.
Tính tới 7 giờ tối nay mình sẽ ngồi làm bài tập được 5 tiếng đồng hồ rồi đấy. (việc làm bài tập đã bắt đầu lúc 2 giờ chiều và thời điểm nói là giữa 2 giờ chiều và 7 giờ tối)
Bạn thấy không, với 12 cấu trúc của 12 thì, việc diễn đạt các hành động bằng tiếng Anh rất rõ ràng và dễ hiểu mà không cần phải bổ sung quá nhiều thông tin như cách diễn đạt chỉ với 3 thì trong tiếng Việt. Đây chính là lý do gây hoang mang cho phần lớn chúng ta khi chia động từ để diễn đạt được đúng ý của mình bằng tiếng Anh.
Mặc dù trật tự các từ trong câu giữa tiếng Anh và tiếng Việt có khá nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên chúng ta vẫn gặp những sự khác biệt nhất định về trình tự diễn đạt giữa hai thứ tiếng.
Tải eJOY eXtension miễn phí!
Team eJOY chúng mình sẽ luôn đồng hành cùng bạn!
A Vietnamese. Fascinated by wonderful nature. Trying to keep her heart nice and clear.
Sự Khác Nhau Giữa Phát Âm Tiếng Việt Và Tiếng Anh
Ngôn ngữ khác nhau sẽ có cách phát âm, quy tắc ngữ pháp khác nhau, điều đó dẫn đến những khó khăn nhất định khi học ngoại ngữ, tuy nhiên nếu nắm vững được nguyên tắc phát âm, các bạn sẽ cảm thấy ngoại ngữ không quá khó như mình vẫn tưởng.
Thứ nhất của phát âm tiếng việt và tiếng anh
Tiếng Anh: là ngôn ngữ đa âm; khi nói, đưa hơi lên mũi.
Tiếng Việt: là ngôn ngữ đơn âm; khi nói, không đưa hơi lên mũi.
Thứ hai
Tiếng Anh: Khi phát âm, đầu lưỡi chuyển động và chạm vào nhiều nơi trong khoang miệng.
Tiếng Việt: Khi phát âm, đầu lưỡi thường ở khoảng giữa khoang miệng.
Thứ ba
Tiếng Anh: sau khi phát âm, luồng hơi từ phổi di chuyển đến khoang miệng và thoát ra ngoài khá nhiều.
Tiếng Việt: sau khi phát âm, luồng hơi từ phổi bị giữ lại trong khoang miệng và thoát ra ngoài rất ít.
Thứ tư
Tiếng Anh: phụ âm ở đầu từ có thể là hợp âm phụ âm; phát âm đầy đủ các phụ âm ở đầu từ, các phụ âm ở giữa từ và các phụ âm ở cuối từ.
* Khác phụ âm đầu dẫn tới khác nghĩa: * Khác phụ âm giữa dẫn tới khác nghĩa: * Khác phụ âm cuối dẫn tới khác nghĩa:
Trong tiếng Anh, phải phát âm đầy đủ các phụ âm trong từ; nếu phát âm thiếu và không rõ các phụ âm trong từ, người nghe có thể hiểu lầm ý của người nói.
Tiếng Việt: phụ âm ở đầu từ là âm đơn; không có phụ âm ở giữa từ; không phát âm phụ âm cuối từ.
Thứ năm của sự khác nhau giữa phát âm tiếng việt và tiếng anh
Tiếng Anh: vì tiếng Anh có phát âm phụ âm cuối từ nên trong tiếng Anh có nối âm.
Tiếng Việt: vì tiếng Việt không phát âm phụ âm cuối từ nên trong tiếng Việt không có nối âm.
Thứ sáu
Tiếng Anh: có bật hơi khi phát âm phụ âm k, p, t.
* Nhận xét:
Âm / kiː/ được phát âm mạnh hơn cách phát âm chữ “khi” của tiếng Việt Âm / t uː/được phát âm mạnh hơn cách phát âm chữ “tu” của tiếng Việt và nó được phát âm rất khác với chữ “tu” và “thu” của tiếng Việt.
Tiếng Việt: không có bật hơi khi phát âm phụ âm k, p, t.
Thứ bảy
Tiếng Anh: có phân biệt rất rõ ràng giữa phụ âm vang và phụ âm điếc.
Tiếng Việt: không có phân biệt rõ ràng giữa phụ âm vang và phụ âm điếc.
Thứ tám
Tiếng Anh: có phân biệt rất rỏ ràng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn.
Nếu không phát âm rõ ràng nguyên âm dài và nguyên âm ngắn, người nghe có thể hiểu sai ý của người nói.
Tiếng Việt: Tiếng Việt không có phân biệt rõ ràng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn.
Thứ chín
Tiếng Anh: Một số âm có trong tiếng Anh, nhưng không có trong tiếng Việt, như: /θ/, /ð/, /ʧ/, /ʤ/,/æ/…
Nếu không biết cách phát âm những âm trên, bạn sẽ không thể nói đúng tiếng Anh và có thể khiến người nghe hiểu nhầm ý bạn muốn nói.
Tiếng Việt: một số âm không có trong tiếng Việt, như: /θ/, /ð/, /ʧ/, /ʤ/,/æ/ …
Sự Khác Biệt Giữa Tiếng Nhật Và Tiếng Anh
1. Khác biệt về bảng chữ cái
Bảng chữ cái tiếng Nhật
bắt đầu học tiếng Nhật đều phải nắm bắt trước khi muốn học sâu hơn về ngữ pháp. Nếu như chu trình học Hiragana và Katakana đã là 1 chu trình khó khăn thì sau này học đến Kanji học viên sẽ còn thấy kinh hoàng Ngoài ra (với khoảng 3000 chữ và gần như mỗi chữ lại được viết theo 1 biện pháp khác nhau).
Đây có thể nói là điều dễ nhận thấy nhất. Nếu như trong tiếng Anh chúng ta có bảng chữ cái Latin bắt đầu từ a,b,c rồi đến z,y,z thì trong tiếng Nhật họ dùng chữ tượng hình. Thông thường đối với người Việt thì cả nhà luôn có cảm giác rằng học tiếng Anh dễ hơn bởi vì chúng ta sử dụng chung 1 loại bảng chữ cái Latin (chỉ có khác là tiếng Anh có thêm 1 số chữ w, j, z). Còn đối với tiếng Nhật thì thực sự nó là 1 sự “kinh hoàng” với nhiều người khi mà trong tiếng Nhật có đến 3 bảng chữ cái: Hiragana, Katakana, và Kanji. Hiragana và Katakana có thể nói là 2 bảng chữ cái cơ bản nhất mà bất cứ aiđều phải nắm bắt trước khi muốn học sâu hơn về ngữ pháp. Nếu như chu trình học Hiragana và Katakana đã là 1 chu trình khó khăn thì sau này học đến Kanji học viên sẽ còn thấy kinh hoàng Ngoài ra (với khoảng 3000 chữ và gần như mỗi chữ lại được viết theo 1 biện pháp khác nhau).
Nói là vậy song nếu để ý, học viên sẽ thấy chữ Hiragana và Katakana khá dễ nhớ (ít nhất về ngữ âm). Trong tiếng Nhật chỉ có 5 nguyên âm a – i – u – e – o (đọc lần lượt a – i – ư – ê – ô) và phương pháp đọc những phụ âm của nó cũng khá đơn giản (chỉ là thêm phụ âm vào đằng trước các nguyên âm, ví dụ ka – ki – ku – ke – ko, khi đọc sẽ thành ka – ki – kư- kê – kô). Với các người mới bắt đầu, chỉ cần nhớ được 2 bảng chữ cái Hiragana và Katakana thì sau này sẽ thấy chu trình học tiếng Nhật nó sẽ khá dễ dàng hơn khá đa dạng.
2. Khác biệt về từ
Có lẽ điều này sẽ khiến dồi dào người ngạc nhiên, song có 1 vấn đề đó là từ ngữ tiếng Anh rất nhiều khi khó hơn tiếng Nhật nhiều. Trước mắt là xét về số lượng từ, nếu như sinh viên cho rằng 3000 chữ Kanji là kinh hoàng thì số lượng từ tiếng Anh cũng rất nhiều hơn gấp bội. Xét theoOxford English Dictionary thì tiếng Anh có khoảng 171.476 từ (như vậy là nhiều hơn khoảng 57 lần)! Xét theo Merriam Webster của Mỹ thì sẽ có chừng 470.000 từ, và nếu tính tất cả các biến thể, từ kỹ thuật, tiếng lóng, phương ngữ thì chúng ta sẽ có thể có khoảng 1000000 từ tiếng Anh! 1 Con số khổng lồ!
Có thể sẽ có 1 số người cho rằng mặc dù là có nhiều từ tiếng Anh song số lượng từ được sử dụng thường xuyên sẽ ít hơn. Kể cả vậy, theo như nghiên cứu từ Hunter Diack, tác giả cuốn Standard Literacy Test thì một trẻ em 9 tuổi hiểu được 6.000 từ, thanh niên 18 tuổi hiểu chừng 18.000 từ. các bạn có vốn từ nhận biết chừng 24.000 và một nhà khoa học trung niên – 30.000. Như vậy đó là 1 số lượng từ rất lớn. Trong khi đó số lượng từ Kanji thông dụng lại chỉ rơi vào khoảng 1000 – 2000 từ. Nếu mà phải nói khó khăn khi học Kanji thì có lẽ nó chỉ có duy nhất vấn đề đó là phải nhớ mặt chữ.
Xét về mặt phát âm, ban đầu sinh viên sẽ nghĩ nó dễ dàng nhưng thực chất rất nhiều từ tiếng Anh rất khó để phát âm đúng. Lấy ví dụ từ “apple” (quả táo), đa dạng người mới học hay đọc nó theo kiểu “ép pồ” song thực chất bí quyết đọc đúng của nó là ˈapəl (tưởng tượng nó hơi giống “áp-pồ”, để rõ hơn có thể vào trang www.oxforddictionaries.com). Sang tiếng Nhật mọi thứ nó rất khá dễ dàng, bạn chỉ cần nhớ các 5 nguyên âm chính (a – i – u -e – o) và các phụ âm ghép với nó, khi đọc 1 từ bạn chỉ cần đọc đúng những chữ cái ghép ra nó (ví dụ “shizuka” sẽ đọc là shi – zu – ka)
3. Khác biệt về ngữ pháp
Cấu trúc ngữ pháp tiếng Nhật
cấu trúc ngữ pháp tiếng Nhật tỏ ra khó khăn không kém khi trong tiếng Nhật có rất nhiều các mẫu ngữ pháp khác nhau và mọi người gần nhữ chỉ biết cách là phải dùng thường xuyên và nhớ. dồi dào mẫu ngữ pháp cũng khá “dài hơi” ví dụ như mẫu câu “phải làm gì đó”, giả sử như “tôi phải ngủ” thì trong tiếng Nhật sẽ là “わたしわねなければなりません” (watashiwa nenakerebanarimasen).
Nói về ngữ pháp tiếng Anh, đây là cũng là 1 cái khiến người học vô cùng đau đầu vì trong tiếng Anh có đến 12 thì khác nhau và chia đều sang 3 dạng quá khứ – hiện giờ – tương lai. Lấy ví dụ trong thì quá khứ, tiếng Anh sẽ chia ra “quá khứ đơn”, “quá khứ tiếp diễn”, “quá khứ hoàn thành”, “quá khứ hoàn thành tiếp diễn”. Nói gì thì nói, để nhớ được 12 thì này và phương pháp dùng chúng không hề đơn giản.Về phía tiếng Nhật,tỏ ra khó khăn không kém khi trong tiếng Nhật có rất nhiều các mẫu ngữ pháp khác nhau và mọi người gần nhữ chỉ biết cách là phải dùng thường xuyên và nhớ. dồi dào mẫu ngữ pháp cũng khá “dài hơi” ví dụ như mẫu câu “phải làm gì đó”, giả sử như “tôi phải ngủ” thì trong tiếng Nhật sẽ là “わたしわねなければなりません” (watashiwa nenakerebanarimasen).
Hơn nữa với những người đã từng học tiếng Anh rồi thì hẳn sẽ nhận ra sự khác biệt về cấu trúc ngữ pháp. Trong tiếng Anh 1 mẫu câu khá dễ dàng sẽ bao gồm Chủ ngữ – Động từ – Tân ngữ (Subject – Verb – Object) thì trong tiếng Nhật lại là Chủ ngữ – Tân ngữ – Động từ (Subject – Object – Verb). Chính vì vậy, những người từng học tiếng Anh khi chuyển sang tiếng Nhật sẽ thấy khá khó khăn khi họ đã quen với văn phong tiếng Anh. Tuy vậy nếu nhìn 1 biện pháp khách quan thì đây thực sự không phải là 1 vấn đề lớn khi học tiếng Nhật, 1 khi bạn đã quen với văn phong tiếng Nhật thì mọi thứ thực ra sẽ rất khá dễ dàng và dễ hiểu.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Khác Biệt Giữa Tiếng Đức Và Tiếng Việt trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!