Xu Hướng 3/2023 # Sự Khác Biệt Giữa Stack Và Heap # Top 9 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Sự Khác Biệt Giữa Stack Và Heap # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Sự Khác Biệt Giữa Stack Và Heap được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nội Dung:

Định nghĩa về ngăn xếp

Phân bổ ngăn xếp tuân theo chiến lược LIFO (Lần đầu ra trước) để gán bộ nhớ cho các quy trình với sự trợ giúp của thao tác đẩy và bật. Mỗi khối trong bộ nhớ có kích thước cố định không thể mở rộng hoặc ký hợp đồng. Mục cuối cùng trong ngăn xếp có thể truy cập bất cứ lúc nào. Ngăn xếp sử dụng một bộ nhớ liền kề trong đó một con trỏ có tên là cơ sở ngăn xếp trỏ đến mục nhập đầu tiên của ngăn xếp và một con trỏ khác có tên là đỉnh của ngăn xếp trỏ đến mục cuối cùng của ngăn xếp.

Stack cũng hỗ trợ các cuộc gọi chức năng. Một lệnh gọi hàm có thể chứa một tập hợp các mục ngăn xếp, được gọi là khung ngăn xếp. Một tên khác của khung stack là bản ghi kích hoạt trong con của trình biên dịch vì nó lưu trữ dữ liệu được sử dụng tại thời điểm biên dịch chương trình. Bất cứ khi nào một chức năng được gọi là khung ngăn xếp được đẩy vào ngăn xếp.

Khung ngăn xếp bao gồm một trong hai địa chỉ hoặc giá trị của tham số hàm và địa chỉ trả về có nghĩa là nơi điều khiển sẽ được trả về sau khi hoàn thành thực thi chức năng.

Định nghĩa của Heap

Phân bổ heap không theo bất kỳ cách tiếp cận xác định; thay vào đó, nó cho phép gán ngẫu nhiên và phân bổ lại bộ nhớ. Một yêu cầu gán bởi một tiến trình trả về với một con trỏ tới vùng nhớ được phân bổ trong một đống và quá trình truy cập vào vùng nhớ được phân bổ thông qua con trỏ.

Giao dịch được thực hiện thông qua yêu cầu thỏa thuận, giống với ngăn xếp nơi bộ nhớ được giải phóng tự động. Heap phát triển các lỗ hổng trong phân bổ bộ nhớ khi cấu trúc dữ liệu được xây dựng và giải phóng. Nó được sử dụng trong thời gian chạy.

Trong một ngăn xếp, việc phân bổ và phân bổ được thực hiện bởi CPU và tự động trong khi, trong heap, nó cần phải được lập trình viên thực hiện thủ công.

Xử lý khung heap tốn kém hơn xử lý khung stack.

Thực hiện một ngăn xếp là phức tạp. Như chống lại, thực hiện một đống là đơn giản.

Một lệnh gọi hàm trong stack mất thời gian O (N). Ngược lại, phải mất O (1) thời gian trong một đống.

Thực hiện ngăn xếp chủ yếu bị vấn đề thiếu bộ nhớ. Ngược lại, vấn đề chính trong một đống là sự phân mảnh.

Truy cập vào khung ngăn xếp dễ dàng hơn heap vì ngăn xếp bị giới hạn trong vùng bộ nhớ nhỏ và nó luôn nhấn vào bộ đệm, nhưng các khung heap bị phân tán trong bộ nhớ nên việc truy cập bộ nhớ có thể khiến bộ nhớ cache bị mất nhiều hơn.

Ngăn xếp không linh hoạt, kích thước bộ nhớ được phân bổ không thể thay đổi. Mặt khác, một đống là linh hoạt, và bộ nhớ được phân bổ có thể được thay đổi.

Một đống mất nhiều thời gian truy cập hơn một ngăn xếp.

Phần kết luận

Phân bổ ngăn xếp nhanh hơn nhưng phức tạp. Mặt khác, một đống chậm hơn, nhưng việc thực hiện nó đơn giản hơn một chồng. Heap hiệu quả hơn stack.

Sự Khác Nhau Giữa Bộ Nhớ Heap Và Bộ Nhớ Stack Trong Lập Trình

Như chúng ta đã biết thì việc Quản lý bộ nhớ đối với một lập trình viên là rất quan trọng.

Mục đích quan trọng của việc quản lý bộ nhớ là cung cấp những cách thức để cấp phát động các ô nhớ cho chương trình khi được yêu cầu và giải phóng các ô nhớ đó khi không cần dùng nữa. Đây là việc rất quan trọng đối với bất kỳ hệ thống máy tính cao cấp nào vì sẽ có nhiều công việc được tiến hành ở mọi thời điểm.

Nhiều phương pháp đã được tìm ra để gia tăng hiệu quả của việc quản lý bộ nhớ. Những hệ thống bộ nhớ ảo giúp tách những địa chỉ ô nhớ đang được dùng ra khỏi những địa chỉ thực, từ đó cho phép chia sẻ công việc và gia tăng lượng RAM một cách hiệu quả nhờ đánh dấu địa chỉ hoặc chuyển đến vùng lưu trữ thứ hai. Chất lượng của việc quản lý bộ nhớ ảo có thể có tác dụng lớn đến hiệu năng làm việc của hệ thống nói chung.

Bộ nhớ Heap và bộ nhớ Stack bản chất đều cùng là vùng nhớ được tạo ra và lưu trữ trong RAM khi chương trình được thực thi.

Bộ nhớ Stack được dùng để lưu trữ các biến cục bộ trong hàm, tham số truyền vào… Truy cập vào bộ nhớ này rất nhanh và được thực thi khi chương trình được biên dịch.

Bộ nhớ Heap được dùng để lưu trữ vùng nhớ cho những biến con trỏ được cấp phát động bởi các hàm malloc – calloc – realloc (trong C) hoặc từ khóa new (trong c++, c#, java,…).

Ví dụ trong ngôn ngữ lập trình C++:

Ngoài ra, còn rất nhiều trọng điểm để so sánh sự khác nhau giữa bộ nhớ Heap và bộ nhớ Stack như :

Kích thước vùng nhớ Stack: kích thước của bộ nhớ Stack là cố định, tùy thuộc vào từng hệ điều hành, ví dụ hệ điều hành Windows là 1 MB, hệ điều hành Linux là 8 MB (lưu ý là con số có thể khác tùy thuộc vào kiến trúc hệ điều hành của bạn). Heap: kích thước của bộ nhớ Heap là không cố định, có thể tăng giảm do đó đáp ứng được nhu cầu lưu trữ dữ liệu của chương trình.

Đặc điểm vùng nhớ Stack: vùng nhớ Stack được quản lý bởi hệ điều hành, dữ liệu được lưu trong Stack sẽ tự động hủy khi hàm thực hiện xong công việc của mình. Heap: Vùng nhớ Heap được quản lý bởi lập trình viên (trong C hoặc C++), dữ liệu trong Heap sẽ không bị hủy khi hàm thực hiện xong, điều đó có nghĩa bạn phải tự tay hủy vùng nhớ bằng câu lệnh free (trong C), và delete hoặc delete [] (trong C++), nếu không sẽ xảy ra hiện tượng rò rỉ bộ nhớ. Ở các ngôn ngữ lập trình bậc cao như .NET, Java, … đã có chế dọn rác tự động (Garbage Collection), bạn không cần phải tự tay hủy vùng nhớ Heap nữa.

Lưu ý: việc tự động dọn vùng nhớ còn tùy thuộc vào trình biên dịch trung gian.

Bạn sử dụng Stack nếu bạn biết chính xác lượng dữ liệu mà bạn phân bổ trước khi biên dịch và dữ liệu không quá lớn. Ngược lại, bạn nên sử dụng Heap…

Note: Trong các ứng dụng đa luồng chạy song song (multithreading), mỗi luồng xử lý (thread) sẽ có vùng nhớ Stack riêng của nó, trong khi tất cả các luồng cùng chia sẻ một vùng nhớ Heap. Sử dụng chung vùng nhớ Heap đồng nghĩa với việc phải đồng bộ hóa để tránh tình trạng xảy ra mâu thuẫn giữa các luồng, cho nên cấp phát vùng nhớ Heap phải cài đặt thêm một số cơ chế do đó thực hiện lâu hơn so với cấp phát vùng nhớ Stack. Cấp phát và hủy vùng nhớ Heap liên tục có thể xảy ra tình trạng phân mảnh bộ nhớ, từ phân mảnh bộ nhớ có thể dẫn đến lỗi cấp phát bộ nhớ thất bại như những mô tả ở trên.

All Rights Reserved

Phân Biệt Heap Memory Và Stack Memory Trong Java

Phân biệt Heap memory và Stack memory trong java.

Bộ nhớ Heap – Heap Memory

Heap memory là bộ nhớ được sử dụng bởi Java Runtime để cấp phát bộ nhớ cho các đối tượng (object) và String.

Bất kỳ khi nào có một đối tượng được tạo, nó sẽ được tạo lưu ở bộ nhớ Heap.

Bộ dọn rác (Garbage Collection) chạy trên heap memory để giải phóng bộ nhớ được sử dụng bởi các đối tượng có bất kỳ tham chiếu nào.

Bộ nhớ Stack – Stack Memory

Stack memory được sử dụng cho quá trình thực thi của mỗi thread.

Stack memory bao gồm các giá trị cụ thể của method: các biến local và các tham chiếu tới các đối tượng chứa ở trong heap memory được tham chiếu bởi method.

Stack memory được tham chiếu theo thứ tự LIFO (Last In First Out – vào cuối cùng thì ra đầu tiên). Tức là lưu trữ kiểu ngăn xếp (stack). Khi có một method được thực thi, một block được tạo ra trong stack memory để chứa các biến nguyên thủy local và các tham chiếu tới các object. Khi method kết thúc, block đó sẽ không còn được sử dụng và được phục vụ cho method tiếp theo.

Stack memory có kích thước rất nhỏ so với Heap memory.

Ví dụ 1:

Dòng thứ 1: khi khai báo int i = 4 nó sẽ đưa i = 4 vào stack

Dòng thứ 2: khi khai báo y = 2 nó sẽ đưa y = 2 vào stack (xếp trên i = 4)

Dòng thứ 3: khi khai báo class1 cls1 = new class1(): đây là kiểu đối tượng nên nó sẽ tạo đối tượng cls1 trong heap đồng thời chưa tham chiếu của đối tượng cls1 vào stack (xếp trên cùng trong stack)

Sau khi kết thúc method, bộ nhớ trong stack được giải phóng, còn bộ nhớ trong heap thì chưa. Bộ nhớ trong heap phải chờ cho tới khi garbage collector (bộ dọn rác) của Java quét qua để giải phóng.

Ví dụ 2:

Tương tự như ví dụ trên nhưng với trường hợp đối tượng cụ thể:

Điều đặc biệt ở đây là khi bạn khai báo String name = "kai". Giá trị "kai" sẽ được lưu trong String pool và biến name trong stack thực hiện tham chiếu tới “kai“. (String là kiểu dữ liệu đặc biệt, giá trị của nó luôn được lưu trong String pool)

Khi bạn khai báo Person p = new Person(age, name) nó sẽ tạo đối tượng p với age, name tương ứng vào bộ nhớ heap và thêm biến tham chiếu tới đối tượng p vào bộ nhớ tack.

Phân biệt Heap với Stack:

Okay, Done!

References:

https://docs.oracle.com/…/garbage_collect.html

https://gurunguns.wordpress.com/…/stack-heap-value-types-reference-types-boxing-and-unboxing/

Sự Khác Biệt Giữa Is Và Al

Vì hoàn cảnh ra đời và mục tiêu của IS khác so với Al-Qaeda, cách thức hoạt động của chúng, do vậy, cũng hoàn toàn khác nhau. Đó là lý do tại sao chiến lược chống khủng bố của Mỹ vốn được xây dựng để đối phó với Al-Qaeda đã không phù hợp với kẻ thù mới là IS.

Sau sự kiện 11/9, Mỹ đã chi hàng nghìn tỷ đôla xây dựng cơ sở hạ tầng tình báo, thực thi pháp luật và chiến dịch quân sự nhằm vào Al-Qaeda và các phân nhánh của mạng lưới này trên khắp thế giới. Theo điều tra năm 2010 của tờ “Bưu điện Washington”, Mỹ đã lập mới hoặc tái tổ chức khoảng 263 cơ quan chính phủ, trong đó có Bộ An ninh nội địa, Trung tâm chống khủng bố quốc gia và Cơ quan an ninh vận tải.

Chiến lược UAV và đột kích của Mỹ phát huy hiệu quả khi tiêu diệt 75% giới chóp bu Al-Qaeda.

Mỗi năm, tình báo Mỹ thực hiện 50.000 báo cáo về chủ nghĩa khủng bố và có tới 51 cơ quan liên bang, bộ chỉ huy quân sự theo dấu dòng tiền đi và đến các mạng lưới khủng bố. Cơ cấu này đã giúp hạn chế phần lớn các vụ tấn công khủng bố trên đất Mỹ. Hay nói cách khác, hệ thống chống khủng bố này của Mỹ đã hoạt động hiệu quả, nhưng đối với IS lại là một câu chuyện khác.

Đầu tiên, hãy đánh giá về chiến dịch quân sự và tình báo mà Mỹ triển khai để bắt và tiêu diệt các thủ lĩnh của Al-Qaeda qua các cuộc không kích của máy bay không người lái và các vụ đột kích của lực lượng đặc nhiệm. Khoảng 75% các nhân vật chóp bu của Al-Qaeda đã bị tiêu diệt bởi đặc nhiệm Mỹ và máy bay không người lái. Công nghệ này rất phù hợp với các mục tiêu lẩn trốn ở các vùng hẻo lánh, nơi nguy cơ giết nhầm dân thường thấp.

Nhưng chiến thuật này lại tỏ ra không hiệu quả với IS. Các tay súng và giới chóp bu IS hoạt động ở khu vực đô thị, chúng thường lẩn trốn vào trong dân và nằm giữa các tòa nhà khiến máy bay không người lái và lính đặc nhiệm khó mà thực hiện được nhiệm vụ. Ngoài ra, việc chỉ tiêu diệt các thủ lĩnh IS không khiến tổ chức này bị suy yếu đáng kể. Đứng đầu Bộ Chỉ huy quân sự của IS là ban điều hành gồm Baghdadi và hai cấp phó – hai tên này từng là tướng lĩnh trong quân đội Iraq dưới thời Tổng thống Saddam Hussein. Đó là Abu Ali al-Anbari, phụ trách các chiến dịch của IS ở Syria và Abu Muslim al-Turkmani, kiểm soát các hoạt động quân sự tại Iraq.

Tổ chức hành chính dân sự của IS do 12 nhân viên hành chính giám sát, chịu trách nhiệm cai quản các vùng lãnh thổ ở Iraq và Syria và giám sát các hội đồng tài chính, truyền thông, tôn giáo… Mặc dù không hoàn hảo như mô tả trong các video tuyên truyền, nhưng “Nhà nước IS” vẫn có thể vận hành khá trơn tru mà không cần Baghdadi hay các cấp phó của hắn.

IS cũng đặt ra một thách thức khác đối với các chiến thuật chống khủng bố của Mỹ vốn vẫn nhắm vào nguồn tài chính, chiến dịch tuyên truyền và hoạt động tuyển mộ của lực lượng thánh chiến. Một trong những thành công ấn tượng nhất của chiến lược chống khủng bố của Mỹ đó là cắt được nguồn cấp tài chính cho Al-Qeada. Ngay sau vụ 11/9, FBI và CIA, rồi sau có thêm Bộ Quốc phòng đã bắt đầu phối hợp chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực tình báo tài chính. Trong cuộc chiến tranh Iraq năm 2003, các nhân viên FBI dưới vỏ bọc nhân viên quân sự Mỹ đã thẩm vấn các nghi can khủng bố bị giam giữ tại nhà tù Guantanamo, Cuba.

Từ đầu năm 2012, IS đã dần chiếm giữ những mỏ dầu chủ chốt ở đông Syria, và nay đã kiểm soát được 60% năng lực sản xuất dầu mỏ tại quốc gia này. Trong khi đó, trong chiến dịch tấn công tại Iraq mùa hè vừa qua, IS cũng đã chiếm được 7 cơ sở sản xuất dầu. Nhóm này đang bán dầu khai thác được ra thị trường chợ đen ở Iraq và Syria. IS cũng xuất lậu dầu mỏ sang Jordan, Thổ Nhĩ Kỳ, nơi chúng đã tìm được nhiều khách hàng sẵn sàng mua món “vàng đen” này với giá thấp hơn giá thị trường. Ước tính, IS thu nhập từ 1 – 3 triệu USD mỗi ngày từ việc buôn dầu mỏ.

IS không chỉ thu lợi từ dầu mỏ. Hồi tháng 6, khi IS chiếm được thành phố Mosul, miền Bắc Iraq, chúng đã cướp được không ít của cải từ ngân hàng Trung ương của tỉnh cùng tên và nhiều ngân hàng nhỏ khác. Chúng còn bán rất nhiều cổ vật có giá trị ra chợ đen. Chúng lấy đồ trang sức, xe hơi, máy móc và cả thú nuôi từ người dân địa phương. Việc kiểm soát một số tuyến đường huyết mạch ở tây Iraq cho phép IS thu được một nguồn tiền ổn định từ việc vận chuyển hàng hóa và phí cầu đường. Chúng còn có được nguồn thu từ các cánh đồng trồng bông và lúa mì ở Raqqa, vựa lúa của Syria.

Kỳ 3: Tình dục và những chiến binh thánh chiến cô đơn

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Khác Biệt Giữa Stack Và Heap trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!