Bạn đang xem bài viết Sự Khác Biệt Giữa Nhiễm Vi Khuẩn Và Nhiễm Virus được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bác sĩ Paul McKay, người đang nghiên cứu một loại vắc-xin cho chủng coronavirus 2019-nCoV mới, chụp một bức ảnh với vi khuẩn chứa coronavirus tại Trường Y khoa Đại học Hoàng gia (ICSM) tại Luân Đôn vào ngày 10 tháng 2 năm 2020. (Ảnh: Getty)
Sự khác biệt giữa nhiễm vi khuẩn và nhiễm virus
Những hiểu biết về vi khuẩn và virus giúp chúng ta hiểu rõ cách thức chúng có thể gây hại cho con người để biết cách phòng ngừa, chiến đấu với chúng một cách hợp lý và hiệu quả…
Nhiễm trùng xảy ra khi một sinh vật lạ xâm nhập vào cơ thể người và gây hại. Mặc dù vi khuẩn và virus đều có thể gây nhiễm trùng từ nhẹ đến nghiêm trọng, nhưng chúng là hai loại vi sinh vật hoàn toàn khác nhau.
Do phương pháp điều trị vi khuẩn và virus không thể thay thế cho nhau, do đó xác định rõ nhiễm trùng do vi khuẩn hay virus là rất quan trọng. Chúng ta có thể gây ra tình trạng đề kháng kháng sinh nếu điều trị nhầm kháng sinh cho các trưởng hợp nhiễm virus.
Sự khác biệt về mặt vi sinh
Vi khuẩn và virus quá nhỏ để có thể nhìn thấy bằng mắt thường và chỉ có thể nhìn được dưới kính hiển vi. Chúng có thể gây ra các triệu chứng tương tự và thường có cùng con đường lây lan. Tuy nhiên, cấu trúc và cách tồn tại của chúng lại khác nhau.
Virus có kích thước từ đường kính khoảng 20 đến 400 nanomet. Hàng tỷ virus có thể chỉ vừa trên đầu của một cục pin. Virus có hình que, tròn, xoắn ốc v.v. Nó không thể tự sinh sản ngoài cơ thể sống khác. Nó chỉ là một hạt ngủ đông có chứa axit nucleic, hoặc DNA hoặc RNA, được bao quanh bởi vỏ protein và đôi khi là các chất béo gọi là lipid.
Vi khuẩn có kích thước lớn hơn virus từ 10 đến 100 lần. Vi khuẩn có hình dạng tương tự, nhưng nó có thể tồn tại độc lập. Vi khuẩn chỉ mang một bộ nhiễm sắc thể, chúng nhân bản với cùng một vật liệu di truyền.
Coronavirus được đặt tên theo hình dáng của chúng, ‘’thân răng’’ hoặc ‘’vương miện’’. (Ảnh: Pixabay)Vi khuẩn sống chung với con người
Vi khuẩn tồn tại trong khắp cơ thể của chúng ta, bao gồm da, ruột và màng nhầy. Trên thực tế, cơ thể chúng ta chứa các tế bào vi khuẩn nhiều hơn ít nhất 10 lần so với tế bào của chính chúng ta. Chỉ riêng vi khuẩn trong đường tiêu hóa của con người đã bao gồm ít nhất 10 nghìn tỷ sinh vật, đại diện cho hơn 1.000 loài, được cho là ngăn chặn ruột bị các sinh vật gây bệnh xâm chiếm.
Đại đa số các vi khuẩn cộng sinh dai dẳng trong cộng đồng phức tạp trong và trên bề mặt cơ thể chúng ta. Trong nhiều trường hợp, các vi khuẩn có được lợi ích mà không gây hại cho chúng ta, trong các trường hợp khác, cả vật chủ và vi khuẩn đều có lợi. Ví dụ vi khuẩn giúp tổng hợp vitamin, phá vỡ thức ăn thành các chất dinh dưỡng có thể hấp thụ và kích thích hệ thống miễn dịch của chúng ta.
Chỉ một số ít vi khuẩn gây hại khi hàng rào bảo vệ cơ thể bị phá vỡ như trầy xước, lở loét, vết thương do phẫu thuật v.v hay do hệ miễn dịch bị suy yếu.
Virus chính là những thực thể sinh học dồi dào nhất từ trước tới nay trên Trái Đất. Chúng có thể xâm nhiễm lên tất cả các dạng tế bào bao gồm của động vật, thực vật, vi khuẩn, vi khuẩn cổ và nấm. Tuy nhiên, những loại khác nhau của virus thì chỉ có thể lây nhiễm trên một phạm vi giới hạn những vật chủ khác nhau, và nhiều loại có tính đặc hiệu loài.
Một số virus, ví dụ như virus đậu mùa, chỉ có thể nhiễm vào một loài duy nhất – trong trường hợp này là con người, và vì thế chúng được nói rằng có “biên độ vật chủ” (host range) hẹp.
Những virus khác, ví dụ như virus dại, có thể lây lan trên nhiều loài động vật có vú, và do vậy có biên độ rộng. Virus mà chỉ lây nhiễm vào thực vật thì vô hại với động vật, và hầu hết virus mà xâm nhiễm lên các động vật khác thì vô hại với con người.
Tuy nhiên, khi virus “biến thể” và lây từ động vật sang người, thì chúng thường có thể gây nên các căn bệnh nguy hiểm. Ví dụ virus HIV-1 lây từ loài tinh tinh sang người, các virus trong họ Corona như SARS, MERS hay SARS-CoV 2 có nguồn gốc từ dơi v.v
SARS-CoV, chủng Virus Corona từng gây ám ảnh cho người dân toàn cầu… (CDC)Cách thức xâm nhập của virus và vi khuẩn
Virus hoạt động khi xâm nhập vào tế bào chủ thích hợp thông qua một loại chìa khóa chuyên biệt gắn trên vỏ ngoài của nó, chiếm quyền điều khiển bộ máy trao đổi chất của tế bào để tạo ra các bản sao của chính nó. Sau đó làm vỡ và thoát ra khỏi tế bào để lây nhiễm tế bào khác.
Tương tự muốn làm cho chúng ta bị bệnh, vi khuẩn phải gắn vào vị trí mục tiêu mà chúng đang cố gắng lây nhiễm để không bị đánh bật và nhân lên nhanh chóng. Chúng giết chết các tế bào và mô hoàn toàn, ngoài ra còn tạo ra độc tố có thể làm tê liệt, phá hủy các tế bào trao đổi chất.
Các “ngõ vào” của vi khuẩn và virus
Vi khuẩn và virus xâm nhập vào cơ thể người với 4 con đường tương tự nhau:
Lây qua tiếp xúc: trực tiếp với dịch cơ thể, máu, thực phẩm ô nhiễm, nước bẩn v.v. , các vết trầy xước, vết thương hở, gián tiếp qua bề mặt có chứa vi khuẩn hay virus.
Qua giọt bắn có chứa virus hay vi khuẩn qua hắt hơi, ho hoặc nói chuyện. SARS, bệnh lao và cúm là những ví dụ về các bệnh lây truyền qua đường truyền giọt bắn trong không khí.
Qua không khí bay hơi hoặc các hạt bụi có chứa vi sinh vật lơ lửng trong không khí trong một khoảng thời gian.
Thông qua các trung gian truyền bệnh như: muỗi, bọ chét, ve, chuột, ốc sên và chó v.v.
Nhiễm vi khuẩn và nhiễm virus
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn và virus gây nhiễm virus.
Điều quan trọng là phải biết liệu vi khuẩn hay virus gây ra nhiễm trùng, bởi vì phương pháp điều trị khác nhau. Trong một số trường hợp, có thể khó xác định liệu vi khuẩn hoặc virus gây ra các triệu chứng của bạn. Nhiều bệnh – như viêm phổi, viêm màng não và tiêu chảy – đều có thể do vi khuẩn hoặc virus gây ra.
Một số ví dụ về nhiễm virus
Cảm lạnh thông thường, chủ yếu gây ra bởi coronavirus và adenovirus.
Viêm não và viêm màng não, do enterovirus và virus herpes gây ra.
Mụn cóc và nhiễm trùng da, gây ra bởi virus papilloma ở người (HPV) và virus herpes simplex (HSV).
Các virus khác bao gồm: Virus Zika, virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), viêm gan C, bệnh bại liệt, cúm, Bệnh sốt xuất huyết, Cúm lợn, Ebola, Hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS-CoV), SARS-CoV 2 v.v
Một số bệnh do vi khuẩn gây chết người. Một số ví dụ về các bệnh gây ra do vi khuẩn như: dịch tả, bạch hầu, kiết lỵ, bệnh dịch hạch, viêm phổi, bệnh lao, thương hàn, sốt phát ban v.v
Để phân biệt nhiễm khuẩn do vi khuẩn và do virus, các bác sĩ cần khám bệnh và có thể cần các xét nghiệm sinh hóa và lấy mẫu nước tiểu, phân hay máu của bạn để làm xét nghiệm “nuôi cấy” để có các khuẩn lạc xác định được dưới kính hiển vi.
Điều trị nhiễm vi khuẩn khác với virus
Các bác sĩ thường điều trị nhiễm vi khuẩn bằng kháng sinh. Chúng có thể tiêu diệt vi khuẩn hoặc làm ngừng sự nhân lên của chúng. Nhưng từ khi vấn đề kháng kháng sinh gia tăng, kháng sinh có lẽ chỉ nên được kê đơn cho các nhiễm khuẩn nghiêm trọng. Hãy nhớ rằng: thuốc kháng sinh không có tác dụng đối với nhiễm virus.
Việc điều trị nhiễm virus có thể bao gồm:
Điều trị triệu chứng: chẳng hạn như mật ong để giảm ho và chất lỏng ấm như súp gà nhằm giảm khô miệng.
Hạ sốt bằng Paracetamol.
Thuốc kháng virus làm ngừng sự sinh sản virus như các thuốc cho HIV / AIDS và Herpes.
Ngăn ngừa nhiễm trùng từ lúc mới sinh ra, chẳng hạn như các vắc-xin cho cúm và viêm gan.
Nói cách khác là chờ đợi sức sống của virus trong cơ thể rút lui và biến mất – cách nhìn này chính là bắt đầu thoát ly khỏi mặt ngoài của sự vật, và tiếp cận với bản chất ở bên trong. (Ảnh: Shutterstock)Tầm quan trọng của hệ miễn dịch
Bệnh, thường chỉ xảy ra ở một tỷ lệ nhỏ người nhiễm khuẩn. Quan trọng là hệ miễn dịch của bạn có đủ “khỏe” để đánh bật tác nhân gây bệnh xâm nhập cơ thể.
Để đáp ứng được với nhiễm trùng, hệ thống miễn dịch của bạn phải hoạt động. Các tế bào bạch cầu, kháng thể và các cơ chế khác hoạt động để loại bỏ kẻ xâm lược. Thật vậy, rất nhiều triệu chứng khiến một người mắc phải khi bị nhiễm như sốt, khó chịu, đau đầu, phát ban là do các hoạt động của hệ thống miễn dịch đang cố gắng loại bỏ nhiễm trùng khỏi cơ thể.
Nếu hệ miễn dịch hoạt động tốt, bạn có thể đang nhiễm khuẩn mà không có triệu chứng biểu hiện ra bên ngoài, hoặc triệu chứng nhẹ và tự hết.
Nếu hệ miễn dịch yếu hay nồng độ vi sinh vật quá nhiều, chúng có thể tránh và sống sót sau cuộc tấn công của hệ thống miễn dịch. Đôi khi chúng kích hoạt hệ miễn dịch hoạt động thái quá dẫn đến việc tiết ra các hóa chất nội sinh, không chỉ giết vi khuẩn mà giết luôn cả tế bào và mô lành.
Điều này có thể giải thích tại sao Coronavirus mới chủ yếu gây bệnh nặng trên nhóm những người già hay có bệnh nền, hoặc suy giảm hệ miễn dịch.
Những hiểu biết về vi khuẩn và virus giúp chúng ta hiểu rõ cách mà chúng có thể gây hại cho con người cũng như cách thức phòng ngừa và chiến đấu với chúng một cách hợp lý và hiệu quả.
Mỹ Tâm
Sự Khác Biệt Giữa Vi Khuẩn Và Virus
Vậy làm thế nào để chúng có thể xâm nhập và gây bệnh cho cơ thể chúng ta và vi khuẩn và virus khác nhau như thế nào?
Những khác biệt cơ bản
Mặc dù đều có kích thước nhỏ bé, khả năng sinh sản nhanh, có khả năng gây bệnh trong thời gian ngắn,… nhưng vi khuẩn và virus là 2 loài hoàn toàn khác nhau. Trong khi vi khuẩn là một sinh vật tiền nhân, có cấu tạo tiền nhân thì virus chỉ là một đại phân tử nucleoprotein, có cấu tạo ở mức dưới tế bào. Vi khuẩn và virus được phân biệt bằng những đặc điểm cơ bản sau:
Vi khuẩn và virus đều gây bệnh cho con người và hàng ngày chúng ta vẫn tiếp xúc với chúng thông qua môi trường nước, không khí, đất, bề mặt dụng cụ,… Các bệnh do vi khuẩn hay virus xảy ra rất phổ biến, gặp ở mọi lứa tuổi và biểu hiện các mức độ khác nhau từ nhẹ, thậm chí không có biểu hiện đến biểu hiện rất nặng. Mặc dù mọi người đã biết không ít thông tin về vi khuẩn và virus, tuy nhiên trên thực tế chúng đều không thể quan sát được bằng mắt thường, do vậy không dễ để hiểu tường tận về chúng. Vấn đề quan trọng là cần nắm được những điểm khác biệt cơ bản giữa vi khuẩn và virus.
Hình ảnh virus Adeno.
Vi khuẩn có thể phát hiện được trong các cơ thể sống và bên ngoài môi trường. Chúng là các vi sinh vật sống được biết đến với các tên: sinh vật nhân sơ, sinh vật đơn bào. Vi khuẩn là nhóm sinh vật đơn bào không có nhân chiếm số lượng đông đảo nhất trong sinh giới. Chúng có nhiều hình dạng khác nhau, hình que, hình cầu, hình xoắn, một số còn có lôi roi giống như chiếc đuôi giúp chúng di chuyển. Đa phần mọi người sẽ cho rằng sự hiện diện của vi khuẩn là mối hại cho con người, như việc chúng gây ra đủ thứ bệnh tật viêm nhiễm khắp các cơ quan trong cơ thể, mụn nhọt, nhiễm trùng vết thương, vết mổ… Nhưng thực tế chúng đem lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe và môi trường sống của con người. Có hàng trăm loại vi khuẩn có lợi khác nhau sống trong đường ruột của chúng ta. Chúng giúp tiêu hóa thức ăn, ngăn ngừa các bệnh về đường ruột, và còn đóng vai trò miễn dịch. Vi khuẩn ở đại tràng còn giúp tổng hợp vitamin K nữa. Các vi khuẩn trong môi trường giúp đất đai màu mỡ hơn, giúp tạo nên các loại phân bón vi sinh để cải tạo đất.
Có một số khác biệt cơ bản giữa vi khuẩn và virus mà chúng ta cần nắm được. Kích thước của virus nhỏ hơn vi khuẩn từ 10 đến 100 lần. Không giống như vi rút chỉ được coi là các cấu trúc hữu cơ thông qua tương tác với các cơ thể sống khác để sống sót và nhân lên, vi khuẩn là các tổ chức sống có khả năng sinh sản thông qua quá trình sinh sản vô tính còn gọi là sinh sản phân đôi. Trong khi virus chỉ có vỏ protein, không có vách tế bào hay ribosom, còn vi khuẩn có ribosom và vách cứng tạo thành bởi peptidoglycan. Trong khi ARN và ADN của virus được bao trong vỏ protein, thì vật liệu di truyền của vi khuẩn lại trôi nổi trong bào tương. Bào tương của vi khuẩn được tạo thành bởi các enzyme, các chất dinh dưỡng, chất thải, và khí được bao trong vách tế bào và màng tế bào.
Các vi khuẩn có thể đem đến lợi ích, còn các virus nhìn chung không có lợi ích gì; một số được sử dụng trong lĩnh vực công nghệ gene. Ngoài ra, một số nghiên cứu được tiến hành đã chỉ ra rằng có một loại virus đặc biệt có thể được sử dụng để phá hủy các khối u trong não. Mặc dù cả virus và vi khuẩn đều gây bệnh, tuy nhiên nhiễm trùng do vi khuẩn đa phần là nhiễm trùng khu trú tại một hay một vài vị trí trên cơ thể, trong khi virus thường gây nhiễm trùng toàn thân.
Vi khuẩn H. pylori.
Tiêu diệt chúng bằng cách nào?
Vi khuẩn rõ ràng là sinh vật sống, ta có thể sử dụng cả vắc-xin và kháng sinh để phòng ngừa và tiêu diệt. Vắc-xin là chế phẩm có tính kháng nguyên, có thể là vi khuẩn và virus đã bị giảm độc lực hoặc các vi sinh vật bất hoại, đã chết hay chế phẩm từ vi sinh vật, dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động. Vắc-xin sẽ khiến hệ miễn dịch “ghi nhớ” và tạo ra kháng thể chống lại nó. Khi bạn tiếp xúc với tác nhân gây bệnh thực sự, hệ miễn dịch sẽ nhận ra và có khả năng chống lại.
Còn kháng sinh là những chất có khả năng tiêu diệt vi khuẩn hay kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn và để hệ miễn dịch tự xử lý. Nó có tác dụng lên vi khuẩn ở cấp độ phân tử. Tuy nhiên, kháng sinh lại không thể tiêu diệt virus. Bởi chúng là một thứ hoàn toàn khác.
Các bệnh gây ra do vi khuẩn phần lớn có thể điều trị được bằng kháng sinh. Tuy nhiên, kháng sinh lại chẳng diệt được virus hay giúp ích gì trong điều trị các bệnh do virus. Các thuốc kháng virus thường dùng để điều trị một bệnh cụ thể do virus và chỉ giúp làm giảm quá trình nhân lên của virus bằng cách can thiệp vào quá trình gắn vào tế bào của virus hoặc ngăn chặn vật liệu di truyền của virus bên trong tế bào chủ. Một số bệnh do virus có thể ngăn ngừa bằng vắc-xin.
Sự Khác Biệt Giữa Nhiễm Trùng Huyết Và Nhiễm Khuẩn Huyết
Nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng huyết
Hai thuật ngữ này rất kỹ thuật. Chúng cũng có âm thanh giống nhau và do đó rất khó để phân biệt. Những điều khoản này hiếm khi xuất hiện trong cuộc trò chuyện bình thường trừ khi bạn là một chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Những thuật ngữ này được sử dụng một cách lỏng lẻo để chỉ sự hiện diện của vi khuẩn nhân lên trong dòng máu. Nhưng bây giờ mọi thứ đã khác rùi.
Nhiễm trùng huyết
Nhiễm trùng huyết được định nghĩa là hội chứng đáp ứng viêm toàn thân với sự hiện diện của nhiễm trùng. Hội chứng đáp ứng viêm toàn thân là một tình trạng được xác định để làm nổi bật phản ứng của cơ thể đối với các sinh vật xâm nhập. Hệ thống miễn dịch phát hiện các thành phần lạ trong dòng máu và giải phóng một loạt các hóa chất gọi là cytokine. Các cytokine này (đặc biệt là interleukin -1) hoạt động trên trung tâm điều chỉnh nhiệt độ của trung gian và làm thay đổi nhiệt độ cơ thể lõi. Việc kích hoạt các trung tâm động não làm tăng nhịp tim và nhịp hô hấp. Điều này dẫn đến giảm thông khí và carbon dioxide được loại bỏ khỏi máu; do đó, áp suất một phần carbon dioxide giảm. Cytokine (đặc biệt là Interleukin 1, 3 và 6), hoạt động trên tủy xương và tăng sản xuất tế bào trắng. Trong một số trường hợp, các tế bào trắng chưa trưởng thành được giải phóng vào lưu thông.
Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng đáp ứng viêm toàn thân như sau.
Nhiễm trùng nặng là tình trạng có bằng chứng cung cấp máu cho các cơ quan kém. Cung cấp máu cho não kém sẽ gây nhầm lẫn, chóng mặt, thờ ơ, cân bằng kém, phù hợp và giảm mức độ ý thức. Cung cấp máu cho phổi kém sẽ làm giảm trao đổi khí tại phế nang, và áp suất một phần oxy sẽ giảm. Thận cần một nguồn cung cấp máu tốt, và ở những con đực khỏe mạnh, nó chiếm gần 60% tổng cung lượng tim. Vì vậy, việc giảm cung cấp máu cho thận sẽ làm giảm quá trình lọc tại cầu thận và giảm sản xuất nước tiểu. Chuột rút và nhiễm axit lactic là dấu hiệu tưới máu cơ bắp kém.
Sốc nhiễm khuẩn là một cấp cứu y tế trong đó có sự giảm huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg khi có nhiễm trùng huyết nặng. Điều này cần tiêm adrenaline tiêm bắp và kháng sinh tiêm tĩnh mạch. Bất kỳ bệnh nhân nào bị sốt đều cần xét nghiệm máu đầy đủ, urê máu, điện giải huyết thanh và cấy máu. QHT, biểu đồ đầu ra đầu vào, biểu đồ nhịp tim, biểu đồ huyết áp, thuốc giảm đau, kháng sinh, thuốc chống viêm có thể được sử dụng khi cần thiết theo tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. SIRS, nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng là những định nghĩa lâm sàng. Họ đại diện cho nhu cầu chăm sóc đặc biệt hoặc thiếu nhu cầu giống nhau.
Nhiễm khuẩn huyết
Nhiễm khuẩn huyết được sử dụng để chỉ sự hiện diện của vi khuẩn nhân lên trong dòng máu. Tuy nhiên, nó không đưa ra bất kỳ ý tưởng nào về tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Vi khuẩn máu là một thuật ngữ có nghĩa tương tự và không đưa ra bất kỳ ý tưởng nào về tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Do đó, bệnh nhiễm khuẩn huyết vẫn được sử dụng trong khi các thuật ngữ khác tốt hơn đã thay thế thuật ngữ nhiễm trùng máu.
Nhiễm khuẩn huyết so với nhiễm khuẩn huyết
* Nhiễm khuẩn huyết cho thấy sự hiện diện của vi khuẩn nhân lên trong máu trong khi nhiễm trùng huyết cho ý tưởng về tình trạng lâm sàng, ngoài ra còn gợi ý sự hiện diện của vi khuẩn trong máu.
* Nhiễm khuẩn huyết là một thuật ngữ lỗi thời trong khi nhiễm trùng huyết là hiện tại.
Sự Khác Biệt Giữa Vi Trùng Và Vi Khuẩn
Vi Trùng (Virus ) và Vi Khuẩn ( Bacteria ) đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu .
Chúng Ta nên biết rõ sự khác nhau giữa virus và Vi Khuẩn để có cách phòng và điều trị bệnh hợp lý khi bị bệnh do Vi Khuẩn hoặc virus gây ra .
1 – Vi Khuẩn là gì ?
Vi Khuẩn thuộc loại đơn bào , có ở khắp mọi nơi , chỉ một giọt sữa chua là có thể chứa 100 triệu Vi Khuẩn . Hầu hết các Vi Khuẩn sinh sản bằng cách phân bào ( một tế bào tách làm đôi ) .
Vi Khuẩn giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hoá của người và vật , giúp hoá mùn cây cối và súc vật chết , giúp cho tiến trình lên men hiệu quả .
Vi Khuẩn có vai trò quan trọng trong tái chế chất dinh dưỡng như cố định ni tơ từ khí quyển và gây thối rữa sinh vật khác .
2 – Virus là gì ?
Virus lớn lên và phát triển chỉ khi chúng sống trong tế bào sống . Sống ngoài tế bào sống , Virus sẽ tự huỷ diệt , không thể phát triển , trừ khi chúng sống trong tế bào động vật , thực vật hay Vi Khuẩn .
Virus gây bệnh cho người và vật , do thở hay nuốt vào , đột nhập vào lỗ hổng trên da .
Virus bao gồm vật liệu di truyền ( DNA hoặc RNA ) bao quanh bởi một lớp phủ bảo vệ của protein . Có khả năng bám vào các tế bào và nhận được bên trong chúng .
Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật , từ động vật , thực vật cho tới Vi Khuẩn và Vi Khuẩn cổ .
3 – Sự khác nhau giữa Vi Khuẩn và virus ? Vi Khuẩn ( Bacteria ) – Gây viêm nhiễm nhưng diệt được
Vi Khuẩn còn được gọi là vi trùng , chúng hiện diện khắp nơi trong đất , nước và ở dạng cộng sinh với các sinh vật khác . Một số là tác nhân gây bệnh và gây ra bệnh uốn ván , thương hàn , giang mai , tả , bệnh lây qua thực phẩm và lao .
Một số nhiễm khuẩn có thể lan rộng ra khắp cơ thể và trở thành bệnh toàn thân .
Bệnh do Vi Khuẩn lây nhiễm qua tiếp xúc , không khí , thực phẩm , nước và côn trùng .
Vi Khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được mầm bệnh , bệnh do bị nhiễm khuẩn có thể trị bằng thuốc kháng sinh , được chia làm hai nhóm là diệt khuẩn ( bacteriocide ) và kìm khuẩn ( bacteriostasis ) , với liều lượng mà khi phân tán vào dịch cơ thể có thể tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của Vi Khuẩn .
Virus – Thuốc kháng sinh vô tác dụng với Virus
Virus chỉ có thể sống và phát triển được khi xâm nhập vào bên trong tế bào của sinh vật khác ( người , động vật và cây cỏ ) và khi ra khỏi ký chủ , vào môi trường ngoài ( nước , không khí … ) chúng sẽ không sống được lâu .
Ngày nay , khoa học đã phát hiện có khoảng 2 000 loài Virus khác nhau , trong đó có khoảng 300 loài có khả năng gây bệnh cho người như AIDS , viêm gan B và C , sốt xuất huyết , bại liệt , bệnh dại , đậu mùa , cúm …
Khác với Vi Khuẩn , Virus đánh vào hệ miễn dịch của cơ thể nên điều trị bằng kháng sinh không có tác dụng mà chỉ có thể chống lại bằng cách tiêm vaccin .
Riêng các loại Virus gây cúm , vì chúng biến chủng rất nhanh nên vaccin chế từ virus năm này lại không hữu hiệu với cùng virus ấy cho năm tới . Vì thế các loại vaccin hiện có không ngừa được virus cúm A ( H1N1 ) .
Khi thời tiết chuyển mùa hay trở lạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để Virus gây bệnh .
4 – Tại sao thuốc kháng sinh ( antibiotic ) không điều trị được bệnh do virus gây ra ?
Năm 1928 , tại Bệnh viện Saint Mary ( London ) , Alexander Plemming phát hiện ra chất kháng sinh ( antibiotic ) diệt khuẩn và đặt tên là penicillin .
Loại kháng sinh này được tìm ra từ nấm Penicillium Notatum . Sau đó có rất nhiều nhà nghiên cứu về kháng sinh penicillin và đến năm 1943 , dự án sản xuất penicillin được Chính Phủ Mỹ chấp nhận và từ đây kháng sinh penicillin chính thức ra đời , cứu sống được vô vàn người mắc bệnh nhiễm khuẩn .
Từ penicillin , nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng sinh khác nhau và đã xếp chúng thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ chế tác dụng đối với Vi Khuẩn .
Kháng sinh ( Antibiotic ) đối với virus thì như thế nào ?
Do cấu tạo Virus hoàn toàn khác biệt với tế bào Vi Khuẩn và nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào Vi Khuẩn chỉ là bộ gen ( hoặc DNA hoặc RNA ) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên , vì vậy được gọi là phi tế bào .
Do cấu tạo đặc biệt đó nên bắt buộc virus phải sống ký sinh bên trong tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm , bởi vì virus không có hệ thống enzym hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng lượng cho mình hoặc tự sinh sôi nảy nở được .
Do đó , để tồn tại và phát triển thì virus phải xâm nhập vào trong các tế bào khác ( tế bào túc chủ ) và gửi các vật liệu di truyền của mình .
Khi vào cơ thể , áo protein bị loại bỏ , chỉ hoạt động bởi ARN hoặc ADN của nó , không có cách gì để nhận biết . Hơn nữa , kháng sinh diệt được Vi Khuẩn vì Vi Khuẩn ký sinh ngoài tế bào nên kháng sinh có thể diệt nguyên Vi Khuẩn , còn virus nằm trong vật chất di truyền của tế bào túc chủ cho nên nếu kháng sinh diệt virus thì đồng nghĩa với diệt cả tế bào của túc chủ ( người hoặc động vật ) .
Vì vậy , nếu thuốc kháng sinh muốn tấn công virus sẽ phải biết chọn lọc không tấn công vào các bộ phận tầm gửi này ( tức là không tấn công vào tế bào túc chủ ) và đây thực sự là cản trở cực lớn .
Hơn thế nữa , virus còn có khả năng nằm ẩn mình vài năm trong tế bào trước khi phát bệnh .
Để thay vì dùng kháng sinh không có tác dụng đối với virus , các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công một số thuốc diệt virus dựa trên cơ sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm nhiễm , nhân lên trong tế bào túc chủ của virus .
Tuy vậy , virus luôn thay đổi hình dạng và do đó luôn có khả năng kháng lại thuốc , đó là những điều bất lợi cho việc dùng thuốc tiêu diệt chúng .
5 – Virus và Vi Khuẩn lây lan như thế nào ?
– Một người bị lạnh có thể lây nhiễm Vi Khuẩn hoặc virus bằng cách ho hoặc hắt hơi . – Vi Khuẩn hoặc virus có thể được lây lan bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác . – Chạm vào thức ăn với bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc Vi Khuẩn từ ngoài lây lan tới ruột . – Lây qua dịch cơ thể : như máu , nước bọt và tinh dịch , có thể chứa các vi sinh vật , ví dụ bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục ( đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng do virus như viêm gan hoặc AIDS ) .
Virus lây lan theo nhiều cách ; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng ; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu . Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những vector .
Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi . Norovirus và rotavirus , nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày – ruột siêu vi , lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc , cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống .
HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh . Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định , gọi là biên độ vật chủ ( host range ) ; biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng , tuỳ vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm .
Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm . Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vaccin , giúp tạo ra miễn dịch thu được nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định .
Tuy nhiên , một số virus , bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi , lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính . Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus , dù vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển .
6 – Làm thế nào để tránh nhiễm trùng ?
– Rửa tay thật kỹ ( thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm cúm ) . – Bắt tay với người bị cảm lạnh là nguy hiểm , do đó , tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó . – Thức ăn phải được nấu chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt . – Rau và thịt phải được lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt . – Khi bị cảm cúm , hoặc hắt hơi , sổ mũi cần chuẩn bị khăn giấy , khăn cá nhân để ngăn chặn đưa virus , Vi Khuẩn ra ngoài môi trường . Cần luyện thói quen ho vào cánh tay áo ( nếu không có khăn giấy ) và khạc nhổ vào giấy vệ sinh rồi gói lại cho vào thùng rác . – Một số sinh vật bị giết khi thức ăn được nấu chín , nhưng chúng vẫn có thể để lại các chất độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa . Hạn chế ăn các thức ăn để qua đêm , vì dù đun sôi , Vi Khuẩn có thể chết , nhưng độc tố gây bệnh do Vi Khuẩn tạo ra trong thực phẩm vẫn còn . – Việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục . – Giữ phong cách sống và tinh thần tốt để có hệ miễn dịch khoẻ mạnh .
7 – Một số bệnh do Virus gây ra và cách phòng bệnh
Tiêu chảy do Virus : Bệnh tiêu chảy mùa đông do Rota Virus gây ra và thường chỉ kéo dài trong 3-7 ngày . Khi bị bệnh thường có biểu hiện sốt nhẹ , hơi mệt , nôn , tiêu chảy , ở trẻ em có quấy khóc … Người bệnh đi ngoài nhiều lần , phân lỏng , màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy , có khi như màu hoa cà , hoa cải . Là một bệnh thông thường , nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn đến mất nước , mất điện giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không được bù nước , bù điện giải kịp thời .
Sốt do Virus : Các triệu chứng sốt Virus điển hình là ban đầu sốt nhẹ khoảng 38-38,5 độ C , sau đó bùng lên sốt cao đến 39 độ C hoặc cao hơn . Nhiều người đau họng , ho hắng nhẹ , đau nhức mình mẩy , vã mồ hôi , mệt mỏi . Thường sau 5-6 ngày , bệnh sẽ tự khỏi .
Về điều trị , chỉ cần dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao , hoặc dùng các loại thuốc cảm để chữa triệu chứng đau nhức , sổ mũi , ho … Ngoài ra nên súc miệng nước muối và nhỏ mũi thường xuyên . Không nên dùng kháng sinh .
Sốt Virus là bệnh dễ lây , nhất là trong gia đình và công sở , nơi dùng điều hoà không khí . Do đó , người bị sốt Virus nên hạn chế tiếp xúc với người khác , nhất là trẻ em . Nếu mệt nặng , nên nghỉ làm . Những người xung quanh nên phòng bệnh bằng cách nhỏ nước muối , ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức khoẻ . Để cơ thể có sức đề kháng tốt cần ăn uống phong phú , đủ dinh dưỡng , ăn thức ăn dễ tiêu như cháo , súp … ngoài ra nên uống nhiều nước , nước lọc , nước hoa quả …
8 – Cách phòng ngừa các bệnh do Vi Khuẩn và Virus gây ra
Bạn cần có một phong cách sống lành mạnh , tinh thần tích cực để giúp hệ miễn dịch khoẻ mạnh .
Vì khi hệ miễn dịch yếu thì Vi Khuẩn hoặc virus nào cũng có thể tấn công bạn .
– Ăn tốt : đủ dinh dưỡng , cân bằng , hợp lý , tươi , sạch , an toàn , – Uống đủ nước và đúng cách . – Ngủ tốt : ngủ đúng giờ , phòng thoáng khí , Đông ấm , Hè mát , ngủ sâu giấc . – Tập tốt : Tập thể dục và vận động hàng ngày , để thúc đẩy quá trình trao đổi chất và đào thải độc tố . – Nghĩ tốt : suy nghĩ tích cực , lạc quan , để có sức khoẻ tinh thần tốt . – Môi trường sống tốt : xanh , sạch , đẹp . – Học tốt : học các kiến thức chăm sóc , bảo vệ và phòng bệnh mỗi ngày .
KhoeMoiVuiComhttp://urlz.fr/6kMi
Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Khác Biệt Giữa Nhiễm Vi Khuẩn Và Nhiễm Virus trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!