Xu Hướng 3/2023 # Sự Khác Biệt Giữa Mắt Người Và Máy Ảnh # Top 9 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Sự Khác Biệt Giữa Mắt Người Và Máy Ảnh # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Sự Khác Biệt Giữa Mắt Người Và Máy Ảnh được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

NộI Dung:

Mắt người thường được so sánh với máy ảnh. Theo Trung tâm Mắt Kellogg tại Đại học Michigan. Mặc dù nhiều bộ phận của mắt và máy ảnh có thể so sánh được, nhưng một số khía cạnh của cơ chế hoạt động khác nhau.

Ý nghĩa

Máy ảnh và mắt người đều xử lý ánh sáng và ghi lại hình ảnh. Máy ảnh sử dụng ánh sáng để chụp ảnh trên phim hoặc trên chip máy tính hoặc thẻ nhớ, nhưng mắt xử lý ánh sáng và gửi tín hiệu hình ảnh đến não. Nhận thức cảm tính của thị giác đạt được bên trong não, không phải ở mắt.

Giác mạc

Lớp phủ bên ngoài của mắt được gọi là giác mạc, được so sánh với vỏ ống kính của máy ảnh, nhưng nó khác ở chỗ giác mạc có nhiều chức năng hơn là bao bọc; nó thực sự hội tụ ánh sáng, bẻ cong các tia vào mắt. Nắp ống kính trên máy ảnh chỉ đơn giản là giữ máy ảnh đóng và ngăn ánh sáng đi vào máy ảnh. Khoa Siêu vật lý của Đại học Georgia lưu ý rằng khoảng 80 phần trăm khúc xạ, hiện tượng giúp hình thành hình ảnh có thể xảy ra trong mắt và máy ảnh, xảy ra ở giác mạc 1.

Học sinh

Máy ảnh có một khẩu độ, một lỗ để ánh sáng đi qua bên trong máy ảnh. Trong mắt, khẩu độ là con ngươi. Khi một người chớp mắt hoặc nhắm mắt, ánh sáng không thể đi qua đồng tử và đi vào mắt. Máy ảnh có một cửa trập đóng mở để cho phép hoặc tắt ánh sáng.

Máy ảnh có một khẩu độ, một lỗ để ánh sáng đi qua bên trong máy ảnh.

Sự khác biệt giữa ống kính

Cả máy ảnh và mắt người đều có thấu kính. Có hai điểm khác biệt chính giữa ống kính máy ảnh và ống kính người, còn được gọi là ống kính tinh thể. Ống kính của máy ảnh nằm ở phía trước máy ảnh và có thể nhìn thấy được; một thấu kính của con người nằm bên trong mắt. Điểm khác biệt nữa là khả năng lấy nét. Ống kính máy ảnh được nhiếp ảnh gia điều chỉnh để đưa một vật thể vào tiêu điểm, nhưng ống kính của con người có cơ chế lấy nét riêng gọi là cơ mi. Đại học Alabama lưu ý rằng các cơ này thay đổi hình dạng của thấu kính tinh thể khi mắt nhìn các vật ở các khoảng cách khác nhau và điều chỉnh thấu kính 1.

Cả máy ảnh và mắt người đều có thấu kính.

Có hai điểm khác biệt chính giữa ống kính máy ảnh và ống kính người, còn được gọi là ống kính tinh thể.

Võng mạc

Mặt sau của mắt, được gọi là võng mạc, giống như phim hoặc vùng hình ảnh của máy ảnh. Theo Hiệp hội Đo thị lực Hoa Kỳ, võng mạc là một lớp mô mỏng ở phía sau của mắt chứa hàng triệu tế bào thần kinh cảm nhận ánh sáng cực nhỏ gọi là tế bào hình que và tế bào hình nón. Võng mạc thay đổi ánh sáng thành các xung điện và gửi chúng đến não thông qua dây thần kinh thị giác. Hình ảnh được nhận thức trong não nên một người thực sự nhìn bằng não, không phải mắt. Có thể so sánh, máy ảnh “nhìn thấy” bằng phim hoặc thẻ nhớ.

Mặt sau của mắt, được gọi là võng mạc, giống như phim hoặc vùng hình ảnh của máy ảnh.

Sự Khác Biệt Giữa Máy Ảnh Dslr Crop Và Full

Crop hay Full-frame là tên gọi của cảm biến mà các dòng máy ảnh DSLR sử dụng nhằm để phân biệt loại máy đó. Một số khái niệm bạn cần nắm rõ là:

Cảm biến: là một mặt phẳng điện tử tiếp nhận những thông tin hình ảnh sau khi đi qua ống kính.

Full frame: có kích thước cảm biến lớn bằng khổ phim 35mm trước đây.

Crop: có kích thước cảm biến nhỏ hơn khổ phim 35mm (mỗi hãng máy có một tỉ lệ crop khác nhau)

Trên thực tế, các loại máy ảnh DSLR full frame luôn đắt hơn các máy crop khá nhiều. Câu chuyện so sánh 2 loại cảm biến này luôn xuất hiện ở các cuộc tranh luận của những người “sùng bái” máy DSLR,và tranh luận nổi bật nhất vẫn là: dùng crop hay full frame sẽ có lợi ?

Máy ảnh DSLR crop hay full-frame tốt hơn?

Trước hết chúng ta hãy so sánh kích thước cảm biến và góc nhìn của 2 loại máy này:

Hiểu một cách đơn giản như sau: với cùng một ống kính cảm biến full frame luôn cho góc nhìn rộng hơn cảm biến crop. Cũng như muốn chụp chân dung đặc tả nhiều chi tiết với khung hình tương đối chặt chẽ so với chủ thể, DSLR camera có cảm biến full frame luôn có thể tiến gần người mẫu hơn, trong khi đó máy cảm biến crop luôn phải lùi lại để lấy thêm góc nhìn.

Tuy nhiên chúng ta sẽ có suy nghĩ rằng nếu chỉ đơn giản là lùi lại để lấy thêm góc nhìn, cuối cùng vẫn có thể chụp được bức ảnh chân dung đặc tả với khung hình tượng tự các máy full frame, thì dùng máy crop chắc chắn sẽ tiết kiệm được khá nhiều tiền. Điều này vừa đúng vừa sai, do đó nếu máy ảnh của chúng ta càng tiến sát được chủ thể thì chi tiết, chất liệu mọi thứ trong ảnh đều sẽ cao hơn nhiều là lùi ra xa. Khi bạn có nhu cầu cao về chất lượng hình ảnh (bạn là photographer chuyên nghiệp cần ảnh nhiều chi tiết để in khổ to chẳng hạn) thì full frame là cần thiết, ngược lại nếu bạn chỉ sử dụng bức ảnh ở mức độ in ấn bình thường hoặc chỉ lưu trữ trên máy tính thì máy crop lại là lựa chọn kinh tế hơn. Ngoài ra các máy full frame cho hiệu ứng xoá phông rõ rệt hơn rất nhiều do có thể tiến gần chủ thể.

Trên thực tế, độ nhạy sáng, chi tiết sáng-tối, chi tiết của dải màu các máy full frame luôn có sự ấn tượng hơn. Có thể trong môi trường ánh sáng hoàn hảo thì trông qua sẽ thấy các máy crop luôn có sức mạnh chẳng kém gì full frame. Nhưng hãy thử vào môi trường khắc nghiệt dạng như ánh sáng leo lắt, các bạn sẽ thấy khi tăng độ nhạy sáng (ISO), máy full frame cho chi tiết ít độ nhiễu, rõ ràng, sạch sẽ hơn crop rất nhiều.

Nói như vậy không có nghĩa là crop sẽ thua hoàn toàn so với full frame. Ở trong những hoàn cảnh có thể hi sinh chi tiết ảnh mà bù vào đó giải quyết được vấn đề chụp tầm xa thì các máy crop lại lợi thế hơn full frame. Ví dụ cùng một độ phân giải 24 megapixel, cảm biến crop 1.5 (bé hơn 1.5 lần so với full frame) sẽ cho điểm ảnh “chật chội” dẫn đến chi tiết hình ảnh kém hơn là không gian full frame rộng rãi. Nhưng nếu để lấy lợi thế tầm xa, cùng với ống kính tiêu cự 800mm thì máy full frame chỉ cho bức ảnh góc nhìn 800mm, còn máy crop 1.5x lúc này lại cho bức ảnh có góc nhìn tương đương tiêu cự 1200mm. Và với 2 bức ảnh cùng phân giải 24 megapixel nhưng khác góc nhìn tiêu cự, bạn dễ dàng so sánh đâu mới là “ống nhòm”. Đây cũng là một “trick” mà các photographer chuyên chụp động vật hoang dã thường sử dụng.

Vậy thì chốt lại thì máy ảnh DSLR crop tốt hơn hay máy ảnh full-frame tốt hơn? Theo quan điểm của người viết thì chẳng có dòng nào tốt hơn dòng nào cả, mỗi dòng đều có điểm mạnh riêng và cần cho hoàn cảnh riêng.

Như người dùng nghiệp dư khi mới vào nghề để tập chụp và tiết kiệm chi phí thì nên sử dụng máy ảnh crop. Còn khi đã ‘pro’ rồi và đòi hỏi có những thước ảnh sắc nét hơn thì hẵng lên đời full-frame.

So Sánh Máy Ảnh Và Mắt Người

Tại sao chúng ta không thể cứ chĩa máy ảnh vào một khung cảnh trước mắt và nhận được kết quả giống như những gì chúng ta đang nhìn thấy? Câu hỏi này nghe tưởng chừng đơn giản, nhưng thực chất lại có thể là một trong những câu hỏi phức tạp nhất. Trả lời thắc mắc trên sẽ không chỉ yêu cầu kiến thức về cơ chế thu sáng của máy ảnh, mà còn cả kiến thức về cách thức hoạt động của mắt người. Tuy nhiên, hành trình tìm hiểu về vấn đề này cũng có thể tiết lộ một số điều thú vị về cách con người nhìn nhận thế giới, từ đó giúp bạn trở thành một nhiếp ảnh gia tuyệt vời hơn.

Tuy nhiên, mắt người hoạt động giống một máy quay video hơn là một máy ảnh chụp ảnh tĩnh, vì mắt cũng tổng hợp lại một chuỗi hình ảnh liên tục để hình thành một bức tranh trực quan tổng thể. Một bức ảnh chụp có thể tương tự với một cái liếc mắt nhanh hơn. Nhưng suy cho cùng, hệ thống thị giác của con người vẫn có những đặc điểm hoàn toàn riêng biệt, lý do là vì:

Những gì chúng ta nhìn thấy bằng mắt là một hình ảnh được tái tạo lại bởi bộ não bằng những thông tin từ đôi mắt, chứ không phải bằng ánh sáng trực tiếp đi vào mắt.

Nhiều người đọc chắc hẳn sẽ nghi ngờ sự chính xác của nhận định trên. Những ví dụ sau đây sẽ minh họa một số trường hợp khi bộ não bị đánh lừa và “nhìn thấy” những thứ khác với đôi mắt.

Mặc dù có khác nhau cơ bản, chúng ta vẫn nên có sự so sánh nhất định giữa máy ảnh và mắt người. Trong một số trường hợp cụ thể vẫn có thể so sánh một cách công bằng hai thứ này với nhau, nhưng điều này chỉ đúng nếu bạn đối chiếu những đối tượng trước mắt cũng và cách bộ não xử lý thông tin hình ảnh. Những mục tiếp theo sẽ cố gắng phân tách rõ ràng hai hiện tượng này nếu cần thiết.

SO SÁNH TỔNG QUAN

Bài viết này sẽ so sánh mắt và máy ảnh trên 3 phương diện chính:

Phạm vi quan sát

Độ phân giải và độ chi tiết

Độ nhạy sáng và Dynamic Range

Phía trên là ba khía cạnh cho thấy sự khác biệt rõ ràng nhất giữa máy ảnh và mắt người, đồng thời cũng là những yếu tố gây ra nhiều tranh cãi nhất. Một số đặc điểm khác cũng có thể kể đến như độ sâu trường ảnh, cân bằng trắng, gam màu hay tầm nhìn nhân đôi (stereo vision), tuy nhiên chúng ta sẽ không đi sâu vào những mục này.

1. PHẠM VI QUAN SÁT

Đối với máy ảnh, phạm vi quan sát được quyết định bởi tiêu cự ống kính và kích cỡ sensor máy ảnh. Ví dụ như một lens tele sẽ có tiêu cự dài hơn một lens chụp chân dung phổ thông, đồng thời cũng có góc nhìn hẹp hơn.

Mắt người không đơn giản như vậy. Mặc dù có thể hiểu là mắt người có tiêu cự xấp xỉ 22 mm, điều này không hoàn toàn tương ứng với tiêu cự máy ảnh do: 1. đằng sau mắt có kết cấu cong, 2. chi tiết hình ảnh giảm dần khi càng xa tâm của tầm nhìn, 3. hình ảnh chúng ta nhìn thấy được kết hợp từ hình ảnh của cả hai mắt.

Từng con mắt sẽ có góc nhìn từ 120 đến 200 độ, tùy thuộc vào định nghĩa thế nào là “nhìn thấy” của mỗi người. Vùng giao nhau giữa tầm nhìn của hai mắt rơi vào khoảng 130 độ, gần bằng một chiếc ống kính fisheye. Tuy nhiên, thông qua quá trình tiến hóa, tầm nhìn siêu rộng này của mắt người chỉ có tác dụng cảm nhận chuyển động hoặc những vật với kích thước rất lớn (ví dụ như một con hổ đang vồ đến từ một bên). Hơn nữa, một góc nhìn rộng như vậy sẽ bóp méo hình ảnh rất nhiều nếu như được chụp trên máy ảnh.

2. ĐỘ PHÂN GIẢI VÀ ĐỘ CHI TIẾT

Hầu hết máy ảnh hiện đại đều có 5-20 megapixel. Con số này được nhiều người coi là thua xa với khả năng của mắt người vì một người có thị giác hoàn hảo có khả năng xử lý lượng hình ảnh tương đương 52 megapixel (nếu mặc định coi góc nhìn là 60 độ).

Nhưng những tính toán như vậy không thực sự chính xác. Thị giác của chúng ta chỉ thực sự tập trung vào tầm nhìn ở chính giữa, vậy nên con người không thực sự xử lý toàn bộ chi tiết trong 52 megapixel. Càng xa tâm, khả năng quan sát chi tiết của mắt người càng giảm đi một cách rõ rệt, đến mức mà những thứ cách tâm mắt chỉ khoảng 20 độ có thể chỉ còn 1/10 độ chi tiết. Ở giới hạn góc nhìn của đôi mắt, con người chỉ có thể nhận ra những sự tương phản quy mô lớn hoặc màu sắc đơn giản:

Để hình thành hình ảnh trong tâm trí, mắt người sẽ tập trung vào một vài điểm gây chú ý một cách liên tục. Việc này sẽ thêu dệt nên nhận thức về mặt hình ảnh của chúng ta:

Tính bất xứng: Mắt có khả năng quan sát chi tiết bên dưới góc nhìn tốt hơn là bên trên, và tầm nhìn rộng nhạy cảm hơn khi nhìn về phía ngoài mũi hơn là về phía mũi. Máy ảnh không có sự bất xứng này.

Điều kiện thiếu sáng: Dưới những điều kiện ánh sáng rất yếu, như dưới ánh trắng hoặc ánh sao, mắt của chúng ta sẽ bắt đầu chuyển sang chế độ đơn sắc. Thêm nữa, tầm nhìn chính giữa cũng sẽ bắt đầu xử lý ít chi tiết hơn ở vùng lệch tâm. Rất nhiều nhà chiêm tinh tận dụng điều này và chỉ nhìn một cạnh của một ngôi sao mờ để quan sát được ngôi sao đó khi không có dụng cụ hỗ trợ.

Phân tầng chi tiết: Chúng ta thường tập trung vào mức độ chi tiết hình ảnh cao nhất có thể xử lý được, mà lại quên mất sự khác biệt lớn giữa máy ảnh và mắt người về đặc điểm phân tầng chi tiết. Với máy ảnh, chi tiết có kích cỡ càng lớn thì sẽ càng dễ xử lý, nhưng đối với mắt người thì hoàn toàn ngược loại: chi tiết càng lớn nhìn qua mắt lại càng khó hơn. Ở ví dụ bên dưới, cả hai hình đều có họa tiết và mức độ tương phản giống nhau, tuy nhiên chi tiết ở hình bên phải lại biến mất do họa tiết trong hình này đã bị phóng to hơn 16 lần.

Mặt khác, nếu chúng ta so sánh dynamic range nhất thời của mắt ở một trạng thái đồng tử cố định, máy ảnh lại ưu việt hơn. Trường hợp này tương tự như việc nhìn vào một khung cảnh, dành thời gian cho mắt điều chỉnh và giữ nguyên mắt ở vị trí đó. Khi đó, dynamic range của mắt người được ước tính vào khoảng 10-14 f-stop (cao hơn những máy ảnh du lịch nhỏ gọn với khoảng 5-7 stop và tương đương với máy ảnh SLR với 8-11 stop).

Mặt khác, dynamic range của mắt còn phụ thuộc vào độ sáng và độ tương phản, lý thuyết phía trên chỉ áp dụng được dưới điều kiện ánh sáng tự nhiên điển hình. Ví dụ như khi ngắm sao vào buổi đêm, mắt người có thể sẽ đạt mức dynamic range còn cao hơn nữa.

Đo lường dynamic range: Đơn vị hay được sử dụng để tính toán dynamic range trong nhiếp ảnh là f-stop. Con số này có chức năng mô tả tỉ lệ giữa vùng sáng nhất và vùng tối nhất trong khung hình theo lũy thừa cơ số 2. Ví dụ như một bức ảnh có dynamic range là 3 f-stop sẽ có vùng sáng nhất sáng hơn vùng tối nhất 2x2x2=8 lần.

Độ nhạy sáng: Một yếu tố quan trọng nữa là độ nhạy sáng, hay còn gọi là khả năng nhận diện những đối tượng có ánh sáng yếu hoặc di chuyển nhanh. Dưới điều kiện ánh sáng mạnh, các máy ảnh hiện đại có khả năng xử lý hình ảnh những vật di chuyển rất nhanh, đặc trưng bởi những bức ảnh tốc độ cao lạ mắt. Máy ảnh làm được điều này là nhờ tốc độ ISO trên 3200, trong khi mắt người dưới điều kiện ánh sáng tương tự có chỉ số ISO chạm đáy 1.

KẾT LUẬN

Tuy nhiên, trong những điều kiện thiếu sáng, mắt người cũng trở nên nhạy cảm hơn nếu được tự điều chỉnh trong một khoảng thời gian hơn 30 phút. Những nhiếp ảnh gia thiên văn ước tính lúc này ISO của mắt lên đến 500 – 1000, không bằng máy ảnh kỹ thuật số những cũng rất gần. Mặt khác, máy ảnh có thể kéo dài thời gian phơi sáng để thu được nhiều chi tiết hơn, còn hình ảnh qua mắt người không thay đổi gì sau khi đã nhìn cả 10 đến 15 giây.

Nhiều người sẽ coi rằng việc tranh luận về tính hơn kém của máy ảnh và mắt người là một việc hết sức vô nghĩa, đơn giản là vì máy ảnh có tiêu chuẩn hoàn toàn khác đó là làm sao để có những bức ảnh thật nhất. Một bức ảnh được in ra không quan tâm là người xem sẽ tập trung vào đâu, mà mỗi phần của bức ảnh đó cần phải đạt được độ chi tiết cao nhất phòng khi người xem sẽ nhìn vào đó. Điều này lại càng đúng hơn với những bản in kích cỡ lớn hoặc được quan sát cận cảnh. Tuy nhiên, bạn cũng có thể tranh luận rằng con người nên đặt khả năng của công nghệ vào những bối cảnh cụ thể hơn.

Tóm lại, những lợi thế của thị giác bắt nguồn từ khả năng xử lý thông tin hình ảnh một cách thông minh của não bộ, còn với máy ảnh chúng ta chỉ có bức ảnh thô. Nhưng nói gì thì nói, công nghệ máy ảnh đã phát triển đến mức chúng tốt hơn mắt người ở một vài mặt. Kẻ thắng cuộc cuối cùng sẽ là người có khả năng ghép nhiều bức ảnh chụp lại với nhau và tạo ra một bức ảnh cuối cùng vượt xa cả khả năng quan sát của đôi mắt.

Credits:Trích nguồn bài viết gốc tại: chúng tôi và chú thích bởi Chimkudo Academy. Yêu cầu không trích dẫn khi chưa được sự đồng ý.

Sự Khác Nhau Giữa Hai Loại Máy Ảnh Dslr Và Mirrorless

Máy ảnh DSLR là gì?

Hầu hết máy ảnh DSLR có thiết kế giống như chiếc máy film 35mm hồi xưa, thay bằng buồng film thì người ta sẽ đặt cảm biến ảnh ở đó. Một chiếc gương nhỏ đặt bên trong thân máy sẽ phản xạ lại ánh sáng đi qua ống kính tới lăng kính (hoặc thêm một tấm gương nữa). Thông qua chiếc ống ngắm, bạn có thể thấy hình ảnh bạn định chụp. Khi ấn nút chụp hình, chiếc gương kia sẽ gập xuống, màn trập mở ra và ánh sáng đi qua cảm biến ảnh và một tác phẩm ra đời. Lựa chọn hàng đầu đối với DSLR cho những người mới bắt đầu là Nikon D3500, giá khoảng $400 đã bao gồm ống lens kit (khả năng zoom lên đến 3x).

Nikon D3500

Máy ảnh Mirrorless (không gương lật) là gì?

Với những chiếc máy ảnh không gương lật, ánh sáng đi qua ống kính và tiến thẳng tới cảm biến ảnh, sau đó sẽ truyền hình ảnh thẳng tới màn hình, giống như hoạt động của camera điện thoại. Một vài mẫu còn có màn hình thứ hai trong EVF (ống ngắm điện tử), giúp bạn ngắm được tốt hơn trong điều kiện ánh sáng chói. Một trong những chiếc máy ảnh Mirrorless được ưa thích nhất hiện nay là Sony a6100 (giá khoảng $700 kèm kit).

Sony a6100

Kích thước và khối lượng

Máy ảnh DSLR thường có kích thước lớn hơn, vì chúng cần có đủ chỗ để đặt gương và màn trập. Thân máy của Mirrorless thì nhỏ hơn, cấu trúc bên trong cũng đơn giản hơn. Điều này có nghĩa mang theo máy ảnh không gương lật sẽ dễ dàng hơn, nhất là khi phải mang thêm nhiều phụ kiện của máy trong một chiếc balo máy ảnh.

Khác nhau về kích thước hai dòng máy

Tốc độ tự động lấy nét

So về tốc độ lấy nét và chụp trong điều kiện ánh sáng yếu, DSLR luôn chiếm ưu thế, nhưng bắt đầu mất dần sức mạnh khi đứng trước một đối thủ Mirrorless mạnh như Sony a7R III. Hệ thống tự động lấy nét của máy ảnh không gương lật đã được nâng cấp rất nhiều, ví dụ như chiếc Canon M6 hiện tại có tốc độ lấy nét khó máy nào sánh bằng. Tuy nhiên, DSLR vẫn giữ vững phong độ với khả năng lấy nét vật đang chuyển động nhanh, như chụp vận động viên hoặc động vật hoang dã.

Chỉ có DSLR mới chụp được vật thể đang di chuyển tốc độ cao như này

Khả năng xem trước hình ảnh

DSLR với ống ngắm vật lý cho phép bạn biết được chính xác hình ảnh sẽ được chụp, giống như bạn chỉ đang nhìn mọi thứ qua một lớp kính. Còn với Mirrorless, bạn sẽ thấy hình ảnh bạn định chụp qua màn hình. Một vài máy ảnh không gương lật có ống ngắm điện tử, mô phỏng ống ngắm vật lý của các máy DSLR. Khi bạn chụp bên ngoài trời nắng, ảnh xem trước trên máy sẽ gần giống với ảnh thật. Nhưng trong những trường hợp khác, ví dụ như ánh sáng yếu hoặc vật đang di chuyển nhanh, phần xem trước có thể bị rung hoặc nhòe. Ngược lại, DSLR thể hiện hình ảnh xem trước tốt hơn ở trong điều kiện thiếu sáng.

Ống ngắm điện tử trên một vài máy Mirrorless

Chất lượng video

Những mẫu máy ảnh Mirrorless cao cấp thường có khả năng quay video tốt hơn. Vì DSLR có gương nên khả năng nhận diện chu kì ánh sáng liên tục trong lúc quay video chậm và thiếu chính xác hơn so với phương pháp nhận diện tương phản của Mirrorless. Điều này dẫn đến vấn đề mờ ở giữa video, vì lúc đó máy phải dừng lại để tìm điểm lấy nét. Tuy nhiên, một vài chiếc DSLR đã được thêm cảm biến nhận diện tương phản, điển hình như chiếc Nikon D850. Với khả năng tự động lấy nét nhanh, máy ảnh không gương lật cho ra đời những sản phẩm video chất lượng hơn so với DSLR.

Cơ chế ánh sáng đi vào trong hai máy

Tốc độ chụp

Cả hai dòng máy ảnh đều được trang bị tốc độ màn trập nhanh và khả năng chụp nhiều ảnh cùng lúc. Mirrorless thực sự nhỉnh hơn về tốc độ chụp trong hai dòng máy (ngoại trừ những chiếc máy ảnh DSLR cao cấp). Việc bỏ đi chiếc gương giúp tăng đáng kể tốc độ nhận diện ảnh. Cơ chế đơn giản của máy ảnh không gương lật cho phép chúng chụp được nhiều ảnh hơn mỗi giây, với tốc độ màn trập cao.

Thời lượng pin

Ống kính và phụ kiện

Việc chọn máy DSLR dẫn bạn đến vô vàn lựa chọn ống kính với đủ các chức năng. Các ống kính của mẫu không gương lật thì bị giới hạn ở số lượng cho dù nhu cầu sử dụng ngày càng tăng. Có lẽ trong tương lai gần, khoảng cách về ống kính giữa hai dòng máy sẽ không còn là quá xa.

Tổng kết

Máy Mirrorless có ưu điểm là nhẹ nhàng, dễ mang theo, quay video nhanh và đẹp hơn nhưng có hệ thống ống kính và phụ kiện còn nghèo nàn. DSLR lợi thế hơn về lựa chọn lens, khả năng chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng tuyệt vời nhưng lại cồng kềnh và nặng nề. Các máy ảnh DSLR và Mirrorless đều là minh chứng cho đỉnh cao công nghệ máy ảnh số ngày nay và cả hai đều mang đến hiệu năng, sự tiện lợi và chất lượng ảnh đỉnh cao.

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Khác Biệt Giữa Mắt Người Và Máy Ảnh trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!