Bạn đang xem bài viết Sinh Lý Quá Trình Thụ Thai Và Mang Thai được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG Làm sao phụ nữ biết là mình có thai? Chỉ có một cách chắc chắn là khám thai hay vùng tiểu khung. Hầu hết phụ nữ nghi mình có thai khi không thấy kinh mặc dù có nhiều nguyên nhân khác có thể gây mất kinh và một vài phụ nữ tiếp tục có kinh trong vài tháng đầu của thai kỳ. Tuy vậy, việc mất kinh là dấu hiệu khá chính xác để chỉ hiện tượng này.
Những hiện tượng sớm về việc có thai có thể phát triển từ 6 đến 12 tuần lễ, những sự thay đổi này hầu như xuất hiện khi người phụ nữ có thai khoảng 3 tuần (nghĩa là 1 tuần sau chu kỳ kinh đáng ra phải có, và 5 tuần sau kỳ kinh cuối khởi đầu). Những hiện tượng được gây ra do những thay đổi các mức nội tiết tố, một phần của thai kỳ.
Một phụ nữ có thể phát triển một vài triệu chứng hoặc không có triệu chứng nào cả, cũng có thể người đó có tất cả các triệu chứng sau:
Ngực phát triển và căng.
Ốm nghén. (buồn nôn và ói không nhất thiết phải vào buổi sáng)
Hay đi tiểu.
Mệt mỏi, cần ngủ nhiều.
Lên cân.
Phát triển bụng dưới.
Tăng thân nhiệt
Trạng thái buồn buồn.
Thay đổi ham muốn tình dục.
Thèm ăn.
Ăn nhiều.
Một vài phụ nữ cho biết rằng họ biết có thai ngay sau khi thụ thai, nghĩa là họ cảm thấy khang khác, nhất là phụ nữ đã từng mang thai do có kinh nghiệm về những thay đổi. Nhưng cách chắc chắn nhất vẫn là thử thai và khảo sát vùng tiểu khung.
NHỮNG CÁCH THỬ THAI Có nhiều cách để thử thai, gồm cả việc mua dụng cụ thử thai ở tiệm thuốc để thử lấy ở nhà. Việc thụ thai căn cứ vào sự phát triển nội tiết tố HCG trong cơ thể người phụ nữ. Hầu hết các cách sử dụng để thử (gồm cả việc thử ở nhà) là để kiểm tra sự hiện diện của nội tiết tố này trong nước tiểu, cũng có những cách thử tốn kém hơn như kiểm tra sự hiện diện của kích thích tố này qua mẫu máu, do bác sĩ hay nhà chuyên môn thực hiện. Các phương pháp thử, kể cả cách thực hiện ở nhà, có thể chính xác khoảng 97%.
Nếu muốn tính ngày sinh (ngày đứa trẻ ra đời theo dự tính) họ có thể sử dụng luật Nagele bằng cách lấy ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối trừ đi ba tháng và thêm bảy ngày.
Ví dụ : Nếu thấy ngày kinh sau cùng khởi sự ngày đầu tháng Giêng, bạn sẽ sinh ngày 8 tháng Mười tới.
Biết được ngày sinh là điều rất quan trọng để bạn chuẩn bị (lưu ý đây chỉ là dự tính), vì việc mang thai bình thường có thể thay đổi từ 38 đến 42 tuần, có nghĩa xê xích nhau khoảng 2 tuần là bình thường. Trên thực tế, dưới 10% phụ nữ nói đúng ngày sinh, và một nửa. số trẻ sinh sớm hơn mươi ngày hoặc sau mươi ngày theo ngày dự tính.
VIỆC SĂN SÓC TIỀN SINH Sau khi thụ thai, bạn nên có kế hoạch thăm thai. Người theo dõi có thể là người sẽ đỡ đẻ cho bạn sau này.
Trong những lần khám thai, bạn sẽ được khám tổng quát, gồm vùng tiểu khung và xét nghiệm kính phết Pap. Ngày sinh con cũng được tính, rồi tiền sử chi tiết sức khỏe của bạn (và của gia đình chồng hay bạn tình) cũng sẽ được hỏi rõ. Bác sĩ lấy mẫu máu để xem có bị bệnh thiếu máu, loại máu và tính miễn dịch đối với một vài bệnh nhiễm trùng nào đó. Nếu bạn từ 35 tuổi trở lên (hoặc trong gia đình có những trường hợp khuyết tật lúc sinh), xét nghiệm này được gọi là chọc dò màng ối qua bụng.
Sau lần khám thai đầu tiên, bạn sẽ được thời khóa biểu thăm thai hàng tháng và đến tháng thứ bảy sẽ khám hai tuần lần cho đến tháng cuối thai kỳ; trong tháng cuối cùng này, bác sĩ sẽ khám mỗi tuần một lần đến ngày sinh. Những lần khám này, bạn thường được cân, đo huyết áp xét nghiệm nước tiểu, đo kích thước tử cung, kiểm tra tư thế và nhịp tim của thai nhi. Trừ trường hợp có nguy cơ cao, còn không, việc khám vùng tiểu khung không cần thiết phải khám thường xuyên.
Ngoài ra, bạn còn được hướng dẫn về chế độ dinh dưỡng, những thứ cần kiêng cữ như thuốc lá, rượu .v.v…, một toa thuốc bổ riêng vì sự mang thai làm tiêu hao sức khỏe người mẹ, và hầu hết phụ nữ cần bổ sung chất sắt và sinh tố. Việc bổ sung sinh tố xem chừng là điều cần thiết kể cả khỉ bạn ăn uống cân bằng dinh dưỡng.
NHỮNG TRƯỜNG HỢP CÓ NGUY CƠ CAO 1- Phụ nữ mang thai trên 35 tuổi và dưới 18 tuổi thường có tỷ lệ biến chứng cao hơn những phụ nữ mang thai khác.
2- Các vấn đề sức khỏe như tiểu đường, cao huyết áp hoặc bệnh tim có khả năng gây nguy hiểm đối với người mẹ và gây hậu quả không tốt đối với thai nhi.
3- Vài số thuốc như những loại thuốc khống chế cơn động kinh có thể gây hại thai nhi.
4- Phụ nữ có tiền sử sảy thai, sanh thai chết, hoặc sinh con có khuyết tật đều có nguy cơ gặp những rắc rối cho lần mang thai sau.
5- Các tai biến, những viêm nhiễm (đặc biệt qua đường tình dục), phẫu thuật và các bệnh khác khi mang thai.
6- Ða thai (sinh đôi hoặc sinh ba). Với những nguy cơ này, bạn sẽ được chỉ định khám tăng cường và được hướng dẫn đặc biệt hơn. Trong một số trường hợp bất khả kháng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người mẹ, bác sĩ cổ thể đề nghị hủy thai.
Những quan tâm về di truyền Những cặp vợ chồng trước khi dự định có con cần nghĩ đến vấn đế di truyền của mình, họ nên kiểm tra xem nếu họ hoặc thân nhân (đặc biệt cha, mẹ, anh, chị, ông, bà) có bất cứ khuyết tật nào di truyền hoặc có vấn đề về sức khỏe.
Có đến 5% trẻ được sinh ra bị khuyết tật do (ảnh hưởng) di truyền ở bất cứ bộ phận nào của cơ thể, kể cả não, và có khi làm chết thai.
Một ví dụ về khuyết tật di truyền như hội chứng Down gây đần độn và những vấn đề sức khỏe khác, những người có nguồn gốc từ những chủng tộc khác nhau. Ví dụ : người Anh, Do Thái và người Mỹ gốc Phi, có tỷ lệ nguy hiểm khác nhau đối vài rối loạn di truyền.
Nếu có khả năng thừa hưởng một khuyết tật trong gia đình thì đôi vợ chồng này cần tìm đến sự cố vấn về di truyền dể tìm ra những cơ may vượt qua những gì có thể xảy ra cho trẻ sơ sinh, nhất là đã có một đứa con bị khuyết tật di truyền rõ rệt. Việc này cần tiến hành ngay với các nhà di truyền học giỏi.
NHỮNG THAY ĐỔI TRONG KHI MANG THAI Những thay đổi cơ thể trong suốt quá trình mang thai
Quý một: Ða số các ảnh hưởng gây ra ấn tượng mạnh nhất khi mang thai (ngoài sự lên cân) đều xảy ra trong quý một: Trong ba tháng đầu tiên này có các thay đổi quan trọng về mức nội tiết, đặc biệt mức đo hai nội tiết tố estrogen và progesterone. Những thay đổi này làm vú căng, hai núm vú và quầng vú sẫm màu, nhất là phụ nữ mang thai lần đầu. Phụ nữ có thai cần đi tiểu nhiều hơn bình thường và có thể bị táo bón. Táo bón là một chứng nhưng không được đề nghị cho uống những loại thuốc nhuận trường vì thuốc có thể gây nguy hiểm cho bào thai, thay vào đó người mẹ nên uống thêm chất lỏng và ăn thêm chất xơ trong khẩu phấn ăn hằng ngày.
Mệt mỏi và buồn ngủ là do mức kích thích tố progesterone tăng, điều đó không có gì bất thường, vì thường lúc này họ cần ngủ từ tám đến mười giờ mỗi ngày, thêm giờ ngủ trưa.
Khoảng phân nửa phụ nữ mắc chứng buồn nôn và ói, gọi là “ốm nghén”.
Ví dụ: Một vài phụ nữ buồn nôn khi thấy hoặc ngửi mùi thức ăn, đặc biệt mùi thức ăn đang nấu, những người khác cảm thấy đau dạ dày mỗi khi thức dậy, họ thường ăn bánh snach (như bánh quy giòn) cứ hai hoặc ba giờ họ ăn một lần giúp làm giảm cảm giác buồn nôn. Cần tránh các thức ăn chiên có mỡ và các loại thức ăn khó tiêu.
Phần lớn chứng ốm nghén sẽ qua đi và biến mất vào đầu tháng tư, điều quan trọng là không nên dùng các loại thuốc như kháng acid để điều trị chứng đau dạ dày, trừ khi được bác sĩ chỉ định.
Sẩy thai cũng thường xảy ra vào quý đầu. Sảy thai thường do nguyên nhân tự nhiên chứ không tại bác sĩ hay chính đương sự. Thật ra, hầu hết các nguyên nhân sẩy thai đều không được xác định, bất kỳ sự chảy máu nào của âm đạo ở giai đoạn sớm này đều là dấu hiệu của nguy cơ sẩy thai, nên báo với bác sĩ ngay để được hướng dẫn.
Quý hai: Hầu hết các vấn đề của quý một sẽ giảm dần trong quý hai, bây giờ là sự tăng trưởng ở vùng bụng rất nhanh.Vào tháng thứ năm, họ sẽ cảm nhận được những cử động của thai nhi (thai đạp lần đầu) và họ cảm thấy thật sung sướng. Ðây là dấu hiệu cho thấy thai nhi đang phát triển tốt. Cũng vào khoảng thời gian này, nhịp tim có thể nghe được qua ống nghe tim thai.
Một số vấn đề trong quý một vẫn còn tiếp diễn trong quý hai. Táo bón thường đi đôi với việc cơ quan ép lên vùng tiểu khung và các mạch máu ở trực tràng gây phát triển bệnh trĩ. Muốn sử dụng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ. Một số phụ nữ bị chứng phù (sưng), đặc biệt ở tay, chân và cả cổ chân. Vì phù có thể là dấu hiệu của chứng ngộ độc huyết, cần trình bày rõ cho bác sĩ biết những chỗ bị sưng. Vào tuần thứ mười chín (hoặc trễ hơn) của thai kỳ, vú có thể sinh sản sữa non. Sữa non là một chất lỏng, dinh dính, màu vàng nhạt, tuy không nhiều nhưng cũng đủ để nhận ra.
Quý ba: Vào quý ba, tử cung trở nên rất rộng và lên cân đáng kể. Khi mang thai, phụ nữ có thể tăng khoảng 10 đến 13kg, nhất là vào quý hai và ba, phụ nữ tăng cân khoảng 1/2 kg một tuần.
Vào khoảng cuối thai kỳ (hai hoặc ba tuần trước khi sinh) thai nhi xuống vị trí thấp hơn trong ổ bụng, khi đáy tử cung căng ra chuẩn bị sinh. Sự thay đổi vị trí này gọi là sự sa bụng (có lẽ vì nó làm giảm áp lực khó chịu bên trong phổi và dạ dày) và dấu hiệu mệt nhọc sẽ sớm bắt đầu. Sa bụng làm tăng sức ép ở bụng dưới, có thể gây ra một vài khó chịu mới bao gồm: đi tiểu thường hơn, táo bón và sưng cổ chân.
Sự thay đổi cơ thể trong khi mang thai đáng quan tâm nhất ở quý ba là gây ra một số tác dụng phụ có thể làm khó chịu. Có điều những khó chịu này chỉ nhất thời và sẽ biến mất hoàn toàn sau khi sinh một tuần.
NHỮNG THAY ĐỔI TRONG TÂM LÝ VÀ TÌNH CẢM Người mẹ tương lai Những thay đổi thể lý có thể tương tự nhau, nhưng những phản ứng tình cảm nơi mỗi sản phụ có thể khác nhau. Có bao nhiêu phụ nữ mang thai là có bấy nhiêu phản ứng khác nhau. Khác nhau về tình cảm chờ mong, rồi thai kỳ có được mạnh khỏe và thoải mái không, vấn đề tài chính ra sao. Nhưng ngay cả trong những điều kiện tốt nhất, phụ nữ (và đàn ông) có thể có rất nhiều cảm giác lẫn lộn về thai kỳ.
Nếu sự mang thai là điều xảy ra ngoài ý muốn, người phụ nữ cảm thấy rất căng thẳng và bất ổn về tình cảm. Mỗi lần mang thai đều khác nhau và xảy ra trong những điều kiện khác nhau, vì thế phụ nữ không thể mong là có những cảm nhận giống nhau mỗi lần có thai.
Vài tuần lễ đầu tiên của thai kỳ thường là thời điểm của những tình cảm lẫn lộn đặc biệt. Phụ nữ có thể hồi hộp khi có thai nhưng cũng có thể có nhiều ngờ vực và lo sợ nhất là lần mang thai đầu. Vài phụ nữ quá quan tâm đến nỗi họ trở nên mê tín dị đoan và từ chối việc nói chuyện có thai với bất cứ người nào khác vì sợ gặp điềm gở, thường có tới 20% trường hợp sẩy thai vào thời gian đầu này, nên hãy thủng thẳng khi nói chuyện có thai. Họ còn nghi ngại về khả năng làm người mẹ của mình.
Thật sự nàng không thể mường tượng mình sẽ là một người mẹ và chồng nàng sẽ là một người cha.
Khi bước vào quý hai và đặc biệt sau khi cô ta cảm thấy thai nhi cử động, một số lo lắng trước đây giảm. Nhiều tình cảm khác lại phát sinh, như sự gắn bó và kính trọng mẹ ruột của nàng, vì cả hai người cảm thấy họ có những cái chung. Vài tuần cuối của thai kỳ có thể khó khăn hơn do mệt mỏi và khó đi lại. Lúc này có thể phát sinh tình cảm bị lẻ loi buồn chán.
Người cha tương lai Cũng như phụ nữ, người đàn ông cũng có những tình cảm lẫn lộn. Vì người cha tương lai không phải trải qua những thay đổi cơ thể, nhưng trước tiên, việc mang thai dường như không phải là sự thật đối với họ, mặc dù họ rất quan tâm. Vào quý hai, một khi họ nghe tim thai đập và cảm nhận bào thai đang đạp, lúc ấy đối với họ dường như mới là sự thật.
Nhưng người cha háo hức luôn lo lắng về những gì họ mường tượng lúc sinh con. Họ sợ không biết vợ mình có khả năng chịu đựng lúc trở dạ và sinh nở hay không. Phương pháp tốt nhất để chống lại những mối cảm xúc này là sự am hiểu thông tin bằng cách tìm hiểu sách báo hay trao đổi với những người có kinh nghiệm. Họ cần sáng suốt hơn, vì chính họ mới là người quán xuyến nhiều thứ, nhất là sau khi người vợ sinh xong còn mệt mỏi.
MỐI QUAN HỆ CỦA HAI NGƯỜI VÀ BẦU KHÔNG KHÍ TRONG GIA ĐÌNH Sự mang thai thường có những tác động mạnh đến mối quan hệ của hai vợ chồng. Bên cạnh niềm vui là những sự lo lắng về tương lai, rồi những hạn chế trong sinh hoạt tình dục nhiều khi cũng trở thành vấn đề. Anh chị của đứa em sắp chào đời cũng chịu sự tác động bởi sự có thai, chúng có thể đáp ứng lại bằng niềm vui và sự nâng đỡ nhưng cũng có thể là sự lo âu nên có thể không có cảm tình với đứa em sắp chào đời. Chính vì thế, điều cần thiết là phải chuẩn bị tinh thần cho những đứa con lớn, giúp chúng hiểu để có tình cảm dịu dàng và giảm bớt sự ghen tuông.
TÌNH DỤC LÚC MANG THAI Ða số phụ nữ vẫn tiếp tục giao hợp trong lúc mang thai, nhưng nhiều cặp vợ chồng có những lo lắng và thắc mắc trong thời gian này. Có thể có người phụ nữ không cảm thấy ham muốn vào những tháng cuối của thai kỳ.
Một số khác sợ việc đưa mạnh dương vật vào hoặc sức nặng cơ thể của bạn tình có thể đè bẹp bào thai, nhưng phổ biến là lo lắng nguy cơ gây viêm nhiễm.
Cũng có một số cảnh báo cần được nhắc nhở khi giao hợp lúc mang thai:
1- Nếu người phụ nữ có tiền sử xảy thai hoặc xuất huyết âm đạo trong thời gian mang thai.
2- Cuối cùng kỹ thuật làm tình mà tất cả phụ nữ có thai nên tránh, đó là hành động thổi mạnh không khí vào âm đạo trong khi giao hợp bằng miệng (kích thích bộ phận sinh dục nữ bằng miệng).
VẪN LÀM VIỆC KHI ĐANG MANG THAI Ngày nay, hầu hết phụ nữ đều ra ngoài làm việc để kiếm tiền, và trong số này có khoảng 80% mang thai ít nhất là một lần trong đời làm việc của họ. Nhiều phụ nữ thắc mắc là khi có bầu thì họ sẽ làm việc được trong bao lâu, nhưng chẳng thể đơn giản trả lời được vì nó phụ thuộc vào sức khỏe và bản chất công việc của mỗi người. Trong đa số trường hợp, để cho toàn vẹn, cần nghỉ làm ngay cho đến khi sinh đẻ xong. Những đối xử bất công cần được pháp luật can thiệp.
SỨC KHỎE LÚC MANG THAI Sự dinh dưỡng Những phụ nữ khi mang thai cần nhiều chất đạm, sinh tố, chất khoáng và tổng nhu cầu nhiệt lượng nhiều hơn phụ nữ bình thường (từ 2000 đến 2400 calo).
Một chế độ ăn uống dinh dưỡng cung cấp cho một ngày vào khoảng 2000 đến 2400 calo thường bao gồm:
Sữa
Thực phẩm gốc thịt
Trái cây chín
Bánh mì và các loại thức ăn chứa tinh bột khác
Các chất béo và dầu mỡ
Những chất khoáng khác nhau như chất sắt và chất vôi (canxi), cũng đặc biệt quan trọng trong thời gian thai nghén. Chúng hỗ trợ người phụ nữ chống lại sự mệt mỏi, co thắt cơ bắp, thiếu máu, nhức đầu và tăng cường dinh dưỡng cho thai nhi.
Tập thể dục Việc tập thể dục giúp ổn định trọng lượng cơ thể và góp phần giữ gìn sức khỏe tổng quát, sự sảng khoái tinh thần. Nếu bạn đã tập thể dục đều đặn, bạn không có lý do gì ngưng tập khi mang thai.
Thuốc men Nhiều loại thuốc như aspirin, các chất kháng acid, thuốc chống xung huyết, hoặc thuốc nhuận trường được dùng quá thông dụng đến nỗi chúng ta không nghĩ đến khả năng gây nguy hiểm của chúng. Nhưng những thuốc này đều cần cẩn trọng trong thời kỳ có thai vì chúng đều có thể gây nguy hiểm cho sự phát triển của bào thai.
Trên thực tế nhau thai có cung cấp một sự bảo vệ nào đó giúp lọc bớt những chất nguy hiểm khỏi dòng máu người mẹ trước khi tới bào thai, nhưng khả năng này có giới hạn. Nhiều loại thuốc đi qua nó tới được bào thai và gây ra những tổn hại, nhất là não.
Rượu Người ta ước tính rằng cứ 1.000 trẻ sinh ra do người mẹ uống rượu, dù chưa phải là nghiện, thì có đến 78 đến 690 trẻ bị những khuyết tật hoặc các vấn đề về sức khỏe.
Ảnh hưởng của rượu tỉ lệ với lượng mà người mẹ đưa vào cơ thể, nghĩa là người mẹ càng uống nhiều, nguy cơ cho bé sơ sinh càng lớn.
Hút thuốc Nhiều người trong chúng ta thừa nhận rằng phụ nữ không nên sử dụng thuốc lá trong khi có thai, nhưng hầu hết chúng ta không nghĩ rằng thuốc lá như là thuốc uống, mặc dù chúng có chứa chất gây nghiện (nicotin) – Chúng ta thường hiểu thuốc lá là một nguy cơ đối với sức khỏe nhưng không phải cho thai nhi đang phát triển mà cho phổi chúng ta.
Sự thực, hút thuốc lá trong khi mang thai rất nguy hiểm, ảnh hưởng rõ rệt nhất là sự phát triển của thai nhi. Ðứa bé được sinh ra do người mẹ hút thuốc thường cân nhẹ hơn trẻ em bình thường ít nhất khoảng 200g. Chúng cũng ngắn hơn và đầu nhô hơn. Những tác động này có thể kéo dài và thậm chí là vĩnh viễn. Hút thuốc còn có thể ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ của con cái.
Hút thuốc xem chừng còn làm gia tăng sự sẩy thai, làm trẻ chết lúc sinh, nhất là những phụ nữ còn bị những chứng bệnh khác như cao huyết áp.
Chất cafêin Nhiều loại thực phẩm và thuốc chứa chất cafêin khác nhau được nhiều người tiêu thụ số lượng đáng kể mỗi ngày, nhiều loại nước ngọt đặc biệt như nước giải khát cô ca, sôcôla và trà cũng có chất cafêin. Nhiều nghiên cứu cảnh báo việc phụ nữ có thai dùng quá nhiều các thực phẩm chứa cafêin, vì nó có thể gây dị dạng ở thai nhi.
CÁC LOẠI THUỐC BẤT HỢP PHÁP Người ta còn biết ít về tác dụng của đa số các loại thuốc bất hợp pháp đối với bào thai đang phát triển, cả hai loại thuốc gây nghiện như heroin và methadone được biết là cực kỳ nguy hiểm
Bệnh Hiv Và Quá Trình Mang Thai
BỆNH HIV VÀ QUÁ TRÌNH MANG THAI
-HIV (Human immunodeficiency virus) là virus gây suy giảm miễn dịch ở người, tấn công hệ thống miễn dịch của cơ thể, tiêu hủy dần các tế bào miễn dịch tạo thuận lợi cho các nhiễm trùng cơ hội, rối loạn thần kinh, và các khối u gây tử vong cho người bệnh.
-AIDS (acquired immunodeficiency syndrom): hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải là hội chứng nặng nề, giai đoạn muộn của bệnh do HIV gây nên.
Các phương thức lây truyền:
+ Quan hệ tình dục: quan hệ đồng giới và khác giới.
+ Đường máu: truyền máu bị nhiễm (95%), nghiện ma túy dùng cùng bơm tiêm (0,67%), cán bộ y tế bị kim châm (0,4%).
+ Từ mẹ sang con: lây truyền HIV từ mẹ sang con (LTMC) là sự lây truyền từ người mẹ bị nhiễm HIV sang trẻ sơ sinh trong các giai đoạn mang thai (trong tử cung), quá trình chuyển dạ, cho con bú. Nếu không được điều trị dự phòng, tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con là khoảng 25-40%.
– Giai đoạn sơ nhiễm: hội chứng giả bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng hoặc giả cúm: sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ. Sưng hạch ở cổ, nách. Phát ban dạng sởi hoặc sẩn ngứa trên da, viêm màng não nước trong. Những biểu hiện này sẽ hết trong vòng 7-10 ngày
– Giai đoạn suy giảm miễn dịch sớm (số lượng TB CD4 > 500 TB/ ml): người bệnh không có biểu hiện gì trên lâm sàng nhưng trong máu có HIV và trở thành nguồn lây cho người khác. Giai đoạn này kéo dài từ 5-20 năm hoặc lâu hơn.
– Giai đoạn suy giảm miễn dịch trung gian (200 < CD4 < 500 TB/ml): sốt kéo dài trên 38o C, sụt cân dưới 10% trọng lượng cơ thể mà không có lý do. Viêm da, niêm mạc miệng, sẩn ngứa, viêm nang lông, zona ở da.
– Giai đoạn suy giảm miễn dịch nặng nề (TB CD4 < 200 TB/ml: nguy cơ nhiễm trùng cơ hội nặng hoặc u ác tính của AIDS. Hội chứng suy mòn: sút cân trên 10% trọng lượng cơ thể, sốt, tiêu chảy kéo dài. Viêm phổi do Pneumocystis carinii, Toxoplasma não, nấm thực quản, lao ngoài phổi, Kaposi sarcoma….
– Xét nghiệm HIV: Phát hiện các kháng
+ Phương pháp gián tiếp: Test nhanh (Determine HIV-1/2, Oralquick HIV 1&2, HIV Spot, Genie I HIV1/HIV2). Miễn dịch men ELISA. Western Blot: xét nghiệm khẳng định, miễn dịch điện di, độ đặc hiệu cao do xác định được các kháng thể đặc hiệu của các kháng nguyên khác nhau của HIV. Ngoài ra còn có xét nghiệm kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) và miễn dịch kết tủa phóng xạ (RIPA).
+ Phương pháp trực tiếp: Phát hiện trực tiếp HIV thông qua tìm kháng nguyên P24 của virus, tìm gen của virus HIV là ARN hay AND của tiền virus, nuôi cấy phân lập virus
– Các phương cách xét nghiệm HIV tại Việt Nam, phụ thuộc vào mục tiêu:
+ Phương cách I (áp dụng cho công tác truyền máu): dương tính với 1 trong các thử nghiệm như ELISA, SERODIA, hay thử nghiệm nhanh.
+ Phương cách II (áp dụng cho giám sát trọng điểm): dương tính cả 2 lần xét nghiệm bằng 2 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.
+ Phương cách III (áp dụng cho chẩn đoán các trường hợp nhiễm HIV): dương tính với cả 3 lần xét nghiệm bằng 3 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau. Nếu kết quả không đồng nhất, phải xét nghiệm lại hoặc gửi mẫu máu xét nghiệm nơi khác.
– Chuẩn đoán HIV ở trẻ em sinh ra từ mẹ nhiễm HIV.
Tất cả trẻ em này xét nghiệm phát hiện kháng thể đều cho kết quả dương tính. Kháng thể HIV của mẹ tồn tại lâu dài ở trẻ nhỏ, với trẻ không bị nhiễm HIV, lượng kháng thể này mất dần và sẽ hết vào tháng 9 đến trước 18 tháng tuổi. Trẻ >18 tháng tuổi, xét nghiệm kháng thể dương tính theo phương thức III nghĩa là trẻ đã bị nhiễm
HIV. Chẩn đoán bằng xét nghiệm trực tiếp HIV PCA-AND để phát hiện tiền virus ở trẻ 6 tuần tuổi có hiệu quả cao.
1. Dự phòng sớm lây truyền HIV cho phụ nữ
2. Phòng tránhmang thai ngoài ý muốn cho phụ nữ nhiễm HIV
3. Can thiệp cho phụ nữ nhiễm HTV mang thai
4. Các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ và điều trị thích hợp cho cặp mẹ và con sau sinh
-Thông tin, giáo dục và truyềnthông thay đổi
hành vi .
-Tư vấn và XN HIV cho phụ nữ
-Khuyến khích trì hoãn quan hệ tình dục đối với
thanh thiếu niên
-Thực hành tình dục an toàn
-Phát hiện sớm và điều trị kịp thời các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình
dục
-Tư vấn và cung cấp các biện pháp tránh thai.
-Tư vấn xét nghiệm HIV
-Tư vấn thực hiện tình dục an toàn
-Chăm sóc thai nghén
-Tư vấn và xét nghiệm
-Đánh giá giai đoạn lâm sàng và miễn dịch
-Điều trị DPLTMC
-Thực hành sản khoa an toàn.
-Điều trị cho trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm HIV.
-Tư vấn nuôi dưỡng trẻ sau sinh
-Các dịch vụ can thiệp cho bà mẹ .
-Các dịch vụ can thiệp cho trẻ phơi nhiễm .
-Các dịch vụ can thiệp cho trẻ nhiễm HIV.
3.CÁC CAN THIỆP LÂY TRUYỀN HIV TỪ MẸ SANG CON: 4 thành tố 3.1.Sử dụng thuốc kháng retrovirus
Mục tiêu: giảm tải lượng virut ở người mẹ và giảm sự phơi nhiễm của thai.
– Điều trị phòng lây truyền mẹ con (LTMC): sử dụng ngắn hạn ARV giảm lây truyền HIV mẹ-con. Nguyên tắc: điều trị ARV càng sớm càng tốt..
– Điều trị bệnh: sử dụng lâu dài ARV do sức khỏe người mẹ (TCD4 < 350 tế bào /mm3 không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng; hoặc giai đoạn lâm sàng 3, 4, không phụ thuộc TCD4) và cũng có tác dụng dự phòng LTMC.
Phác đồ phòng LTMC (Bộ y tế, ban hành ngày 2/11/2011):
Mẹ
Khi mang thai
AZT (Zidovudine) 300mg x 2lần/ngày, uống hàng ngày từ tuần thai thứ 14 hoặc ngay khi phát hiện nhiễm HIV sau tuần thai thứ 14 cho đến khi chuyển dạ
Khi chuyển dạ
-AZT 600mg + 3TC 150mg + NVP 200mg.
-Sau đó 12 giờ một lần AZT 300mg + 3TC 150mg cho đến khi đẻ.
Sau đẻ
AZT 300mg + 3TC 150 mg ngày 2 lần trong 7 ngày
Con
Mẹ điều trị AZT trước sinh trên 4 tuần
NVP liều đơn 6mg uống một lần ngay sau sinh + AZT 4mg/kg uống ngày 2 lần
Mẹ điều trị AZT trước sinh chưa đủ 4 tuần
NVP liều đơn 6mg uống một lần ngay sau khi sinh + tiếp tục AZT 4mg /kg uống 2 lần một ngày trong 4 tuần
3.2.Các can thiệp sản khoa trong giai đoạn chuyển dạ và sinh con
Mục đích: giảm tối đa sự phơi nhiễm của thai nhi với HIV từ các dịch cơ thể của mẹ, và các yếu tố nguy cơ LTMC.
– Tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn chung. Sát khuẩn đường sinh dục trong quá trình đỡ đẻ bằng dung dịch Chlorua de Benzalkonium hay Chlorhexidin 0,2.
– Cán bộ y tế đảm bảo cuộc chuyển dạ và sinh con an toàn, nhiệt tình, chu đáo không kỳ thị, phân biệt đối xử.
– Hạn chế tối đa thủ thuật gây tổn thương da và niêm mạc cho mẹ và con khi chuyển dạ (không bấm ối sớm, Forceps, giác hút, đặt điện cực vào đầu thai nhi, không cắt TSM quá sớm để hạn chế chảy máu).
– Mổ lấy thai: mổ lấy thai chủ động hoặc trước khi vỡ ối có thể làm giảm nguy cơ lây truyền mẹ con từ 50-80% khi phối hợp với ARV. Do nguy cơ của phẫu thuật, không khuyến cáo mổ lấy thai hệ thống cho sản phụ nhiễm HIV. Bộ Y Tế quy định “chỉ mổ lấy thai khi có chỉ định sản khoa”.
– Trạm y tế xã không có khả năng điều trị dự phòng ARV cho mẹ và sơ sinh khi chuyển dạ và sau đẻ do vậy cần giới thiệu sản phụ nhiễm HIV tới các cơ sở sản khoa (tối thiểu tuyến huyện) có cung cấp dịch vụ PLTMC.
– Chăm sóc sản khoa: theo dõi hậu sản, co hồi tử cung, chảy máu, nhiễm trùng
– Điều trị dự phòng lây truyền HIV tiếp tục theo phác đồ
– Tư vấn và giới thiệu chuyển tiếp đến cơ sở chăm sóc và điều trị HIV/AIDS và khẳng định tình trạng nhiễm HIV. Tư vấn phương thức nuôi con an toàn.
Chăm sóc sơ sinh:
+ Cắt rốn sớm ngay sau đẻ, càng sớm càng tốt.
+ Tắm ngay sau khi cắt rốn hoặc lau khô dịch trên người trẻ bằng khăn mềm, dễ thấm nước, hạn chế lau và kỳ trên bề mặt da.
+ Hạn chế hút dịch ở đường mũi – hầu – họng, bằng các loại sonde mềm, áp lực <100mmHg hoặc dùng bóng hút, thao tác nhẹ nhàng,tránh tổn thương mũi họng,
+ Trẻ sơ sinh sau đẻ tốt nhất phải được dự phòng ARV trước 72h.
+ Khi xuất viện cần giới thiệu đưa trẻ đến các cơ sở nhi khoa khi trẻ được 6 tuần tuổi, dùng thuốc dự phòng các bệnh nhiễm trùng khác, theo dõi và xét nghiệm cho đến khi khẳng định tình trạng HIV, đồng thời với việc theo dõi tăng trưởng và tiêm chủng.
Tìm Hiểu Về Quá Trình Mang Thai
phuonglk , 07/03/2013 (807 lượt xem)
Trứng và tinh trùng đều khác với mọi tế bào trong cơ thể con người, vì chúng chỉ mang một nửa tính di truyền so với những tế bào khác, phần lớn tế bào đều có hàng ngàn gien và được sắp xếp trên các dải mô gọi là các nhiễm sắc thể, trong hầu hết tế bào có 23 đôi hay tổng số 46 nhiễm sắc thể, nhưng chỉ có 23 nhiễm sắc thể trong mỗi trứng và mỗi tinh trùng bình thường, khi trứng và tinh trùng kết hợp, đòi hỏi phải có 46 nhiễm sắc thể được tạo thành cho một tế bào con người mới xuất hiện.
Vì một nửa nhiễm sắc thể của người mẹ và một nửa nhiễm sắc thể còn lại của người cha do đó con người mới ra đời giống cả hai nhưng không hoàn toàn giống một trong hai người. Hơn nữa, các gien mang nhiễm sắc thể từ trứng này sang trứng khác và từ tinh trùng này sang tinh trùng khác.
Ðây là lý do tại sao người anh và người chị thường nhìn khác nhau đến như vậy. Nhưng trước khi chúng ta có thể nhận thức được đặc tính di truyền tạo ra mỗi đứa trẻ như thế nào, chúng ta phải biết về trứng và tinh trùng nhiều hơn nữa cùng với cách chúng tìm đến và kết hợp với nhau như thế nào.
TrứngTrứng có 3 chức năng trong thai kỳ.
1. Trứng chứa yếu tố di truyền mà người mẹ đóng góp cho đứa trẻ.
2. Trứng giữ ” kế hoạch bậc thầy” đối với thai kỳ. Kế hoạch này xác định tiến trình và thời gian phát triển của đứa bé trong suốt thai kỳ.
3. Trứng cung cấp chất dinh dưỡng cho hợp tử trong vài ngày đầu sau khi thụ tinh. Sau đó bào thai sẽ nhận được chất dinh dưỡng qua dây rốn và nhau thai (sẽ được bàn luận sau). Vì trong vài ngày đầu cả nhau thai lẫn dây rốn chưa xuất hiện.
Trứng nằm trong buồng trứng phụ nữ. Bé gái được sinh ra với buồng trứng đã hoàn thành. Không ai biết chính xác buồng trứng một bé gái sinh ra trung bình có bao nhiêu trứng, nhưng con số tạm tính cũng khoảng bốn trăm nghìn trứng, nhưng những trứng này còn non nớt và hoàn toàn nằm trong buồng trứng. Những trứng chưa hoạt động cho đến tuổi dậy thì, lúc ấy buồng trứng mới bắt đầu hoạt động và phóng thích trứng.
Trung bình phụ nữ bình thường sẽ sản xuất bốn trăm đến năm trăm trứng trưởng thành trong suốt cuộc đời. Thông thường mỗi tháng một lần một trứng sẽ rụng từ một trong hai buồng trứng. Quá trình này được gọi là phóng noãn (rụng trứng). Trứng sẽ rụng vào khoảng giữa chu kỳ kinh. Nếu phụ nữ có chu kỳ kinh hai mươi tám ngày đều đặn, trứng sẽ rụng vào khoảng ngày thứ mười bốn. Nhưng đa số phụ nữ không có chu kỳ kinh đều đặn như trên nên việc tính ngày trứng rụng khó chính xác. Tinh trùng và trứng sẽ phải kết hợp với nhau trong khoảng từ 12 đến 24 giờ, còn không, trong vòng 48 tiếng, trứng sẽ phân rã.
Quá trình mang thai diễn ra như thế nào?
Tinh TrùngTinh trùng là một tế bào sinh dục nam trưởng thành, một trong những tế bào nhỏ nhất trong cơ thể nam giới. Mỗi một tế bào có chiều dài khoảng 0,05mm. Tinh trùng bình thường có 3 đoạn. Ðoạn trên cùng là đầu chứa 23 nhiễm sắc thể, phần đóng góp của người cha vào hợp tử. Ðoạn giữa cung cấp lực để tinh trùng di chuyển. Ðoạn cuối là đuôi quất tới lui để tinh trùng ngoi lên. Tinh trùng được sản sinh trong các tiểu quản chứa tinh dịch của tinh hoàn.
Phải mất khoảng bảy mươi đến bảy mươi tư ngày, từ khi được tạo ra, tinh trùng mới trưởng thành. Trong sáu mươi ngày đầu chúng được chứa trong các tiểu quản chứa tinh dịch, khoảng mười hai ngày chót của giai đoạn tạo tinh, chúng ở trong mào tinh. Tinh trùng sống ở mào tinh khoảng vài tuần thì phải được phóng thích ra, còn không chúng sẽ chết, được hấp thu lại vào cơ thể, và thay thế tinh trùng mới.
Sau khi thành niên, đàn ông sinh tinh liên tục, nhưng khó ước lượng tinh trùng trung bình do đàn ông tạo ra là bao nhiêu trong suốt cuộc đời, rõ ràng phải tới hàng tỉ vì mỗi tần xuất tinh có đến 300 triệu tinh trùng được phóng ra.
Tinh trùng mang theo nó sự di truyền của người cha, nó cũng quyết định giới tính của đứa bé, một cặp nhiễm sắc thể bình thường 23 cặp sẽ quyết định giới tính cho một cá thể. Tinh trùng mang nhiễm sắc thể hoặc là X (nữ) hoặc là Y (nam) trong khi đó trứng luôn mang nhiễm sắc thể X, hợp tử có hai nhiễm sắc thể X sẽ trở thành bé gái. Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y hợp tử sẽ có một X của mẹ và một Y của cha và sẽ thành bé trai.
Nguồn : Tổng hợp
Quá Trình Rụng Trứng Và Thụ Thai Diễn Ra Như Thế Nào?
Khi tinh trùng gặp được trứng sẽ diễn ra quá trình thụ thai. Nó không chỉ đơn giản là tinh trùng khi vào sâu trong âm đạo là đã gặp được trứng mà cần phải trải qua quá trình rụng trứng và thụ thai khá dài.
Để thụ thai được thì cần để trứng và tinh trùng gặp nhau đúng thời điểm đó chính là thời điểm rụng trứng. Cụ thể:
Quá trình rụng trứng có điểm gì đặc biệtĐối với mỗi người phụ nữ thì trứng sẽ được sinh ra tại buồng trứng. Khi kỳ kinh nguyệt kết thúc thì buồng trứng của phụ nữ sẽ rụng từ 1 cho đến vài quả có thể là 2, 3 hoặc cũng có thể hơn. Nếu nhiều trứng rụng và đều gặp được tinh trùng sẽ dẫn đến hiện tượng đa thai.
Sau khi trứng rụng từ ống dẫn trứng đến tử cung mất khoảng 10cm trứng sẽ di chuyển qua đó. Thời gian trứng tồn tại được tính từ thời điểm rụng trứng sẽ mất khoảng 24h đồng hồ. Bởi thế nếu muốn mang thai thì bạn sẽ phải thụ tinh trong khoảng này, còn nếu muộn hơn thì khả năng có thai là ít hơn. Nếu không mang thai thì trứng sẽ chết và nó sẽ được đẩy ra ngoài tức là bạn sẽ có chu kỳ kinh nguyệt tiếp theo.
Đây là quá trình thụ thai thì còn cần đến tinh trùng nữa. Không giống với chị em, tinh trùng ở đàn ông thì được sản xuất liên tục. Để hình thành tế bào tinh trùng mới thì mất khoảng 2-3 tháng nhưng những tinh trùng này lại có thể tồn tại trong cơ thể của nam giới đến vài tuần.
Quá trình thụ thai diễn ra như nào?Sau khi trứng rụng và gặp được tinh trùng thì sẽ diễn ra quá trình thụ thai. Đây chính là lúc mà các em bé của chúng ta được hình thành đấy. Cụ thể thì quá trình rụng trứng và thụ thai như thế nào nhỉ? Đó là:
Nhưng quá trình di chuyển đâu phải đều suôn sẻ mà tinh trùng cũng gặp khá nhiều những cản trở. Đầu tiên cần kể đến đó chính là chất nhầy xuất hiện ở cổ tử cung. Khi trứng rụng hoặc sắp rụng thì chất nhầy sẽ xuất hiện nhiều hơn, lỏng và cũng trơn mịn. Nó sẽ hỗ trợ để tinh trùng bơi qua một cách dễ dàng nhất.
Khi trứng và tinh trùng đã thành công rồi thì lúc này, các tế bào được mang thông tin di truyền của cả bố và mẹ sẽ được phân chia nhanh chóng tạo nên nhiều tế bào mới. Những tế bào này người ta vẫn thường gọi là phôi nang.
Dần dần, phôi nang sẽ di chuyển dần từ ống dẫn trứng đi xuống cổ từ cung, quá trình này thường diễn ra khoảng 3 ngày. Sau khi đã bám thành công vào tử cung rồi thì phôi nang sẽ tiếp tục phát triển thành phôi thai.
Bạn nên nhớ khi đã thụ thai thành công thì nữ giới sẽ không xuất hiện kinh nguyệt vào tháng sau nữa. Đây là dấu hiệu mà chị em dễ nhận biết nhất là mình có thai hay không? Đồng thời cũng nên sử dụng que thử thai hoặc đến những trung tâm y tế thăm khám để biết mình có thai hay không?
Tuy nhiên, cũng có trường hợp phôi thai không di chuyển vào trong tử cung mà ở ngoài. Điều này đã dẫn đến hiện tượng mang thai ngoài tử cung vô cùng nguy hiểm. Thai nhi khi nằm ở đây sẽ không thể nào phát triển được, cần phải xử lý nhanh chóng nếu không sẽ vô cùng nguy hiểm cho ống dẫn trứng của bạn nữa đấy.
Còn về giới tính của thai nhi thì phụ thuộc hoàn toàn vào nhiễm sắc thể mà tinh trùng đầu tiên mang. Nếu nó là nhiễm sắc thể X thì bạn sẽ sinh 1 bé gái, còn là Y thì đó sẽ là một bé trai.
Phùng Thanh Vân
Bác sĩ chuyên khoa Phụ sản cấp I – Với hơn 40 năm kinh nghiệm trong việc khám, chẩn đoán và điều trị gồm: bệnh phụ khoa, các bệnh về rối loạn kinh nguyệt, vô sinh -hiếm muộn, chuyên tư vấn về các vấn đề sinh sản và kế hoạch hóa gia đình,… Trong công việc bác sỹ Vân luôn vận dụng mọi kiến thức y học nhằm tiến hành điều trị hiệu quả và kịp thời nhất.
Quá Trình Thụ Thai Kỳ Diệu Diễn Ra Thế Nào?
Thời điểm nào dễ dẫn đến quá trình thụ thai
Theo các chuyên gia sản khoa, chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ thường diễn ra trong vòng 28 ngày và thời gian trứng rụng rơi vào giữa chu kỳ. Trong chu kỳ kinh nguyệt, tuần thứ 3, được coi là thời điểm thuận lợi nhất để có thể thụ thai. Vào thời gian này, nếu muốn thụ thai thì các cặp đôi cần chú ý hơn trong chuyện chăn gối, làm sao diễn ra nhịp nhàng và thường xuyên hơn tạo điều kiện cho tinh trùng đi vào cơ thể mẹ kết hợp với trứng một cách thuận lợi.
Tuy nhiên, chu kỳ kinh nguyệt của mỗi người phụ nữ lại khác nhau dựa vào môi trường cũng như các yếu tố bên trong cơ thể từng người. Có người kinh nguyệt diễn ra trong chu kỳ là 28 ngày, có người 22 ngày, thậm chí có người 36 ngày và thời gian trứng rụng của các tháng cũng khác nhau. Do đó mà khiến các chị em khó xác định được ngày trứng rụng. Bởi vậy các cặp đôi nên “yêu” thường xuyên từ 2-3 ngày/ lần để vừa có thể hâm nóng tình cảm vợ chồng, lại có thể cải thiện chất lượng giúp trứng và tinh trùng kết hợp với nhau một cách hoàn hảo để diễn ra quá trình thụ thai.
Trong lúc “yêu” cơ thể nam sẽ tiết ra một thứ gọi là tinh, sau đó bơi vào phần âm đạo của người phụ nữ. Mỗi lần xuất tinh, sẽ chứa khoảng 150- 300 triệu tinh trùng cùng nhau bơi vào âm đạo. Sau đó, từ âm đạo, các chàng tinh trùng bắt đầu bơi theo các hướng khác nhau. Và tiếp tục bơi đến điểm hẹn ở ống dẫn trứng. Lúc này các chàng sẽ dựa vào sức của mình để có thể nhanh chóng gặp được nàng, có chàng sức yếu phải mất mấy ngày mới đến điểm hẹn. Sau cuộc đua đọ sức diễn ra, chàng tinh trùng khỏe mạnh nhất sẽ kết duyên với nàng trứng. Sau khi thành đôi, trứng sẽ tiết ra một lớp vỏ bọc chắc chắn để bảo vệ tình yêu của chúng, không cho bất cứ kẻ nào có thể xâm nhập vào. Và cuộc sống kỳ diệu bắt đầu diễn ra. Tình trùng bắt đầu kết hợp với trứng tạo ra một tế bào mới để chuẩn bị cho quá trình thụ thai và manh nha của một thiên thần bé nhỏ sẽ xuất hiện trên thế gian này bắt đầu.
Những điều cần tránh để quá trình thụ thai diễn ra thuận lợi 1. Không dùng dầu bôi trơnDầu bôi trơn có thể giúp cho quá trình “yêu” diễn ra thăng hoa, và làm tăng khoái cảm. Tuy nhiên, theo các chuyên gia sức khỏe tình dục, dầu bôi trơn sẽ làm chậm giảm khả năng bơi của tinh trùng, khiến chúng có thể chết ngay khi vừa vào tới âm đạo.
Để thay cho dầu bôi trơn và quá trình thụ thai được diễn ra thuận lợi, tốt nhất các cặp đôi nên có màn dạo đầu thật lãng mạn, vì dầu bôi trơn tốt nhất chính là được tiết ra từ cơ thể của người phụ nữ. Bởi vậy mà các đáng mày râu nên dùng ra 10 phút đầu để kích thích chuyện yêu được diễn ra mỹ mãn.
Theo các nhà nghiên cứu, nếu mỗi người phụ nữ ngày uống 3 ly rượu sẽ làm cho chu kỳ kinh nguyệt bị rối loạn, thậm chí làm mất kinh, ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh, làm giảm khả năng rụng trứng, và tệ hơn có thể ngưng rụng trứng. Do đó, khiến cho quá trình thụ thai diễn ra khó khăn hơn và thiên chức làm mẹ cũng bị giảm đi.
Các chuyên gia nhận định, Ethanol trong rượu sẽ làm teo tinh hoàn,làm loãng tinh, khiến cho chất lượng tinh trùng giảm đi rất nhiều, điều này làm cho tinh trùng bơi vào điểm hẹn gặp trứng khó khăn hơn vì có thể chưa bơi vào bên trong tử cung đã bị chết.
Và nếu mẹ mang bầu uống rượu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thai nhi và thậm chí sảy thai.
Tìm Hiểu Về Quá Trình Mang Thai Đôi
Mang thai đôi tuy vất vả thế nhưng nó cũng đem đến rất nhiều những điều tuyệt vời cho các cặp vợ chồng
Sinh đôi đồng trứng có nghĩa là những cặp song sinh ra đời sẽ giống hệt nhau. Những bé này sẽ được phát triển khi một trứng được thụ tinh từ một tinh trùng sau đó thì chúng sẽ được chia thành hai phôi riêng biệt nhau. Chúng còn có thành phần di truyền và nhau thai. Vì thế các cặp song sinh đồng trứng sẽ giống hệt nhau.
Đây là trường hợp hai trứng được thụ tinh cùng với hai tinh trùng. Chúng sẽ khác biệt và sẽ không có chung nhau thai. Vì thế những cặp sinh đôi này sẽ chỉ chia sẻ cùng nhau một nửa của bộ gen do đó chúng không phải lúc nào cũng giống hệt nhau như cặp đôi đồng trứng.
Sinh đôi đồng trứng có nghĩa là những cặp song sinh ra đời sẽ giống hệt nhau
Yếu tố gia truyền: Nếu như gia đình của bạn đã có trường hợp có anh chị em sinh đôi thì mẹ sẽ có khả năng sinh đôi cao. Thế nhưng nếu như người chồng có song sinh hoặc gia đình có song sinh thì điều này lại không phụ thuộc gì đến việc mang thai song sinh của bạn. Bởi vì việc mang thai song sinh chỉ phụ thuộc vào phụ nữ vì họ chính là người sản sinh trứng. Nếu mẹ của bạn có sinh đôi thì xác xuất bạn mang thai đôi sẽ cao hơn.
Yếu tố chủng tộc: Bạn biết không việc mang thai đôi cũng phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc. Theo như phân tích thì người châu Á và người gốc Tây Ban Nha sẽ có ít cơ hội sản sinh cặp song thai trong khi đó thì người châu Phi khả năng sinh đôi sẽ cao hơn rồi tiếp theo đến người châu Âu.
Bạn biết không việc mang thai đôi cũng phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc
Đặc điểm cơ thể: Cũng theo nghiên cứu thì phụ nữ cao lớn sẽ có cơ hội mang song sinh nhiều hơn những người thấp bé. Vóc dáng to lớn khỏe mạnh sẽ dễ mang thai đôi hơn so với những chị em phụ nữ yểu điệu mỏng manh. Đồng thời những phụ nữ có chế độ ăn kiêng lành mạnh thì có cơ may sinh đôi cao hơn so với những người có chế độ ăn ít béo. Theo thống kê của Trường Cao đẳng Sản khoa và Phụ khoa Hoa Kỳ thì phụ nữ có chỉ số khối cơ thể BMI từ 30 trở lên thì khả năng sinh đôi sẽ cao hơn.
Tuổi tác: Rất nhiều người không biết rằng những phụ nữ ở tuổi trên 35 thì cơ hội mang thai đôi sẽ cao hơn các bà mẹ trẻ. Bởi vì ở lứa tuổi này sẽ sản sinh ra FSH và hormone này cho phép buồng trứng sản sinh nhiều trứng hơn, kích thích quá trình rụng trứng hơn. Thế nên hormone này càng cao thì trứng càng có cơ may rụng nhiều hơn dẫn đến việc mang đa thai.
Mang thai lần tiếp theo: Thực chất thì những người sinh con rạ tức là từ lần thứ hai trở lên thì cơ hội mang song thai sẽ cao hơn những người sinh con so.
Việc dung nạp nhiều sữa cũng như chế phẩm từ sữa sẽ giúp tăng khả năng sinh đôi gấp năm lần
Tiêu thụ nhiều sữa và chế phẩm sữa: Tiến sĩ Gary Steinman và cộng sự của ông đã nghiên cứu và chỉ ra rằng việc dung nạp nhiều sữa cũng như chế phẩm từ sữa sẽ giúp tăng khả năng sinh đôi gấp năm lần. Các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng các hoocmon tăng trưởng trong sữa sẽ có khả năng tăng sinh đôi hơn.
Ăn khoai từ dại: Việc ăn khoai từ dại chính là cách tăng kích thích buồng trứng, giúp sản sinh nhiều trứng để từ đó cho quá trình trứng rụng nhiều hơn, tăng cơ hội sinh đôi hơn. Vì thế các bác sĩ tin rằng người châu Phi đẻ sinh đôi nhiều vì khoai từ dại chính là món ăn nằm trong thực đơn của họ. Ngoài ra việc bổ sung những thực phẩm có nhiều chất đạm khác như là đậu phụ, đậu nành, lúa mì, ngũ cốc nguyên hạt cũng chính là bí quyết kích thích sự rụng trứng nhiều hơn.
Ngừng thuốc tránh thai: Việc ngừng uống thuốc tránh thai sẽ khiến cho cơ thể của bạn cần chút thời gian để tìm lại nhịp điệu tự nhiên. Nó sẽ làm cơ thể có một lượng hooc mon cao hơn bình thường. Vì thế nếu như thụ thai ở khoảng thời gian này thì cơ hội sinh con sinh đôi sẽ cao hơn.
Mang thai khi đang cho con bú: Việc mang thai trong thời gian cho bé bú thì mẹ sẽ có nhiều cơ hội mang song thai. Vì trong cơ thể của mẹ lúc này sẽ tạo ra tỷ lệ prolactin cao hơn nên khả năng sinh đôi cũng sẽ tăng cao hơn.
Yêu cầu chồng ăn các thực phẩm giàu kẽm: Bí quyết này là bí quyết cuối cùng dành cho bạn. Những thực phẩm giàu kẽm như rau lá xanh, bánh mì hoặc hàu sẽ kích thích sản xuất tinh trùng. Vì thế nó làm tăng khả năng thụ tinh nhiều trứng.
Việc mang thai trong thời gian cho bé bú thì mẹ sẽ có nhiều cơ hội mang song thai.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sinh Lý Quá Trình Thụ Thai Và Mang Thai trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!