Bạn đang xem bài viết Phương Đông Và Phương Tây Khác Biệt Về Âm Nhạc Như Thế Nào? (Kỳ 2) được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thế giới rộng lớn luôn là một kho tàng đa dạng về văn hóa, tập quán, truyền thống. Đây thật sự là một thú vui vô tận đối với các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực dân tộc học, xã hội học trong đó nổi bật hơn cả là sự khác biệt giữa 2 nên văn hóa nổi bật nhất là phương Đông và phương Tây, với sự khác biệt cơ bản về bản tính tâm lý, tư duy, lối sống, tập quán, truyền thống… Có thể coi đây là 2 cái nôi văn hóa – văn minh lớn nhất của nhân loại.
Khác biệt về âm nhạc
1. Khác biệt trong việc sử dụng âm thanh
Âm nhạc Phương Đông và âm nhạc Phương Tây cùng dùng con số để thể hiện các âm có độ cao. Tuy nhiên, cách lý giải thì có sự khác nhau:
Người phương Tây – tiêu biểu là Hy Lạp cổ đại – thường dùng tần số làm số đo chủ yếu của âm thanh, chẳng hạn cách định âm của Pythagore (582 – 493), theo nguyên tắc định âm “vòng quãng 5” để xác định các bậc âm: Đô – Son – Rê – La – Mi – Xi – Fa#; họ lấy cách định âm bằng sợi dây, và sự khác biệt của âm thanh được qui định một cách khoa học theo âm chuẩn 1 cung = 9 comma. Theo đó, âm La1 ứng với 440 Hz và âm càng cao thì con số ứng với nó càng lớn; từ âm La1 cố định làm chuẩn, mà sau này tất cả các nhạc cụ trong dàn nhạc đều phải được định hình theo nó và âm nhạc Phương Tây còn coi âm Đồ là âm cơ bản đầu tiên. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, đến thế kỷ II sau Công nguyên có trường phái “hòa thanh học” phản đối phương pháp dùng “số học” để nghiên cứu nhạc luật của Pythagore, họ đề ra phương pháp dựa vào tai nghe làm cơ sở và đã phát hiện “âm sai” 5/4, 6/5, âm nhỏ 10/9 và comma 81/80. Theo một số nhà nghiên cứu âm nhạc còn cho rằng Aristoxene (thế kỷ IV trước Công nguyên) đã phát hiện nguyên lý thang 12 luật điều hòa.
Hình ảnh Vòng quãng 5
2. Khác biệt trong sử dụng điệu thức
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã đối chiếu điệu thức 5 âm và 7 âm cổ đại của Trung Quốc (phương Đông) và Hy Lạp (phương Tây) đã thấy sự sắp xếp các quãng của hai điệu thức 5 âm tương đối giống nhau, song hai điệu thức 7 âm lại khác. Bán âm đầu tiên trong điệu thức Trung Quốc nằm giữa bậc IV và V( Sanh Tân và Lâm Chung), còn trong điệu thức trưởng Hy Lạp nó lại nằm ở bậc III và IV. Tuy nhiên, hình thức sắp xếp các bậc trong điệu thức 7 âm của Trung Quốc chỉ nằm trong sách vở ở thời kỳ đầu và trong âm nhạc cung đình. Còn âm nhạc dân gian thì quãng bán âm giữa bậc III và IV đã hình thành từ sớm (như trong âm nhạc cổ đại Hy Lạp) và đến thế kỷ VI sau công nguyên đã thấy nó được sử dụng trong âm nhạc cung đình.
Tên gọi 7 âm của Trung Quốc tương ứng với 7 âm Hy Lạp:
Cung Thương Giốc Biến Trủy Trủy Vũ Biến Cung
Song, điệu thức trong âm nhạc Phương Đông rất phức tạp, ở mỗi khu vực đều có những cách sử dụng điệu thức khác nhau và điều đó làm cho âm nhạc Phương Đông vốn độc đáo, riêng biệt lại càng giàu thêm phần phong phú và đa dạng hơn. Vùng phương Bắc Trung Quốc thường dùng điệu thức 7 âm bằng nhau, đặc biệt là 7 âm Thương hay được dùng với sắc thái vui vẻ, lạc quan, mạnh mẽ. Vùng phương Nam chủ yếu là dùng 5 âm và sử dụng nhiều 5 âm Truỷ, tiếp theo đến 5 âm Vũ với tính chất âm nhạc trữ tình. Dĩ nhiên, những tính chất, sắc thái, đặc điểm âm nhạc trong mỗi vùng miền ở phương Đông khác nhau đều xuất phát từ yếu tố con người, địa lý, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, ngữ điệu…
Âm nhạc thời cổ điển ở Ấn Độ dùng 7 bậc âm chính để xây dựng thành 7 nốt – tiếng Ấn Độ là xva-ra (svara). Mỗi nốt có một tên riêng và tương ứng với tiếng của mỗi con vật: Nốt thứ nhất tên là Xa-dơ-gia (Sadja) tương ứng với tiếng chim công, nốt thứ hai tên là Ri-sa-ba (Rishaba) tương ứng với tiếng kêu của con bò cái, nốt thứ ba tên là Gan-đơ-ha-ra (Gandhara) tương ứng với tiếng kêu của con dê, nốt thứ tư tên là Ma-dơ-hi-a-ma (Madhyama) tương ứng với tiếng kêu của con cò, nốt thứ năm tên là Pan-sa-ma (Panchama) tương ứng với tiếng gáy của chim cu, nốt thứ sáu tên là Đơ-hai-va-ta (Dhaivata) tương ứng với tiếng hí của ngựa, nốt thứ bảy tên là Ni-sa-da (Nishada) tương ứng với tiếng giống của voi. Trong thực hành, các nốt nhạc này được đọc theo vần đầu của chúng. Do đó mà tên bảy nốt nhạc của Ấn Độ là: Xa – Ri – Ga – Na – Pa – Đa – Ni. Tên gọi của bảy nốt trong âm nhạc Phương Tây là Ut – Rê – Mi – Fa – Son – La – Xi cũng hình thành theo cách này – lấy vần đầu của các câu kinh thánh. Lý thuyết âm nhạc cổ điển đã được định hình bởi các điệu thức cơ bản Raga – là một điệu thức 7 âm chia ra thành 22 cao độ không đều nhau trong một quãng 8 được gọi là sơ-ru-ti (shruti), mỗi sơ-ru-mi được xác định tính chất âm nhạc khác nhau. Các điệu thức 7 âm Raga được dùng nhiều ở miền Bắc với tính chất âm nhạc trữ tình, mềm mại. Còn trong hệ thống Siva có tới mười điệu thức 5 âm lại thường được dùng nhiều ở miền Nam với tính chất âm nhạc nặng về lý trí.
Khác hẳn so với điệu thức âm nhạc Phương Đông, thời Hy Lạp cổ đại sắp xếp hệ thống âm nhạc theo thứ tự từ trên đi xuống; điệu thức đó chứa dãy bốn âm cùng một dạng thức quãng theo cách gối đầu hoặc kế tiếp. Hệ thống hoàn thiện nhất là có bốn dãy âm và có âm gốc (gọi là Meda) nằm ở chính giữa chia cả hệ thống thành hai phần bằng nhau. Trên cơ sở lấy hai dãy bốn âm cùng một dạng thức quãng đem đặt kế tiếp nhau (không gối đầu nhau) sẽ được một điệu thức có các tên gọi khác nhau như: Iolien, Eolien, Phrigien, Mixolidien, Lidien, Dorien, Locrien.
Thế kỷ III đến thế kỷ XIV, các điệu thức vẫn được gọi tên theo các điệu thức Hy Lạp cổ đại (còn được gọi là điệu thức nhà thờ vì được dùng làm cơ sở cho nhạc nhà thờ) nhưng về bản chất thì khác hẳn, bao gồm các điệu thức chính như sau:
Phrigien: C – Des – Es – F – G – As – B – C
Mixolidien: C – D – E – Fis – G – A – H – C
Lidien: C – D – E – F – G – A – B – C
Dorien: C – D – Es – F – G – A – H – C
Locrien: C – D – Es – F – Ges – As – B – C
Iolien: C – D – E – F – G – A – H – C
Eolien: A – H – C – D – E – F – G – A
Nửa đầu thế kỷ XVII, điệu thức âm nhạc Phương Tây chủ yếu thống nhất gồm hai hệ thống Trưởng và Thứ mà ngày nay chúng ta thường dùng. Hệ thống bình quân của J.S. Bach ra đời thay thế cho hệ thống tuyệt đối là một bước tiến mới trong lịch sử âm nhạc Phương Tây, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhưng, như ta đã biết, cái gì đã chia đều “bình quân” bao giờ cũng chỉ giữ tính đại thể, còn những nét độc đáo, tinh tế lại bị mờ đi. Trong âm nhạc cũng vậy, cần có sự hài hoà, trong đó cơ sở vật lý đóng vai trò quan trọng. Song trong âm nhạc còn bao hàm cả tính thị hiếu thẩm âm của từng dân tộc, tính địa phương, mà những cao độ “ già, non” lại là những nhân tố quan trọng. Bình quân luật đã làm nhoà đi phần nào tính địa phương và những sắc thái tinh tế trong sự tiếp nhận cao độ của thẩm mỹ âm nhạc tự nhiên. Do đó, khi nhạc luật bình quân phổ biến rộng rãi, những nhà lý luận cũng như nhạc công vẫn duy trì nhạc luật không bình quân để giữ sự hài hoà trong âm nhạc đa âm và màu sắc riêng của dân tộc, nhất là ở các nước phương Đông.
3. Khác biệt trong sử dụng các yếu tố của âm nhạc
Giai điệu
Tiết tấu
4. Cơ cấu nhạc cụ dẫn đến khác biệt trong việc sử dụng cũng như phong cách biểu diễn
Sáo
Tại Nam Á có Ấn Độ là đại diện tiêu biểu với hệ thống nhạc cụ riêng rất đặc sắc. Có các nhạc cụ tiêu biểu làm bằng Bầu, Bí, bộ gõ bằng Da được vỗ bằng tay (trên thế giới các nhạc cụ làm bằng chất liệu như vậy đều có nguồn gốc từ Ấn Độ và đã có giả thuyết cho rằng đàn Violon của phương Tây cũng có nguồn gốc từ đàn Sudi của Ấn Độ). Các nhạc cụ tiêu biểu có ảnh hưởng đến khu vực như: đàn Sarasvati, đàn Vina (4 dây), đàn Sitar (7 dây, đánh 1 dây còn 6 dây kia đệm), sáo Pungi (kèn thổi cho múa rắn, có tần số rất hợp với con rắn), trống Baya (1 mặt vỗ bằng tay), trống Tabla (2 mặt vỗ bằng tay)…
Đàn Sitar
Ngoài ra, âm nhạc Phương Đông còn có cách biên chế dàn nhạc đặc biệt mà âm nhạc Phương Tây không có như: dàn nhạc hoà tấu các nhạc cụ có độ vang lớn (Triều Tiên), dàn nhạc hoà tấu cồng chiêng (vùng Đông Nam Á), dàn nhạc hoà tấu Ti – Trúc…
Đương nhiên, các nhạc cụ được sử dụng trong âm nhạc Phương Tây cũng rất phong phú, đa dạng. Các nhạc cụ thời nguyên thuỷ cũng bắt đầu bằng những cây đàn gõ bằng đá, bằng ống sậy, bằng ống xương, bằng ống sừng… Sau đó, người ta biết dùng tới sợi dây căng – chùng và dài – ngắn để tạo các âm thanh cao thấp khác nhau. Thời cổ đại Hy Lạp có các nhạc cụ tiêu biểu như: đàn Lia (nguồn gốc từ phương Bắc – người Phratki), đàn Kipha và kèn Aviot (nguồn gốc từ Tây Á), sáo nhiều lỗ Xirinh… Đến thời trung cổ, âm nhạc của nhà thờ Thiên Chúa giáo thống trị, âm nhạc dân gian phát triển không mạnh. Thời kỳ này, dàn nhạc nhiều tổ hợp nhạc cụ được hình thành và chỉ trong nhà thờ mới có tổ chức dàn nhạc lớn. Âm nhạc thời phục hưng ở phương Tây bắt đầu đi những bước non trẻ, song từng bước có vị trí vững vàng. Các loại nhạc cụ tiêu biểu ở phương Tây gồm: đàn Luyt, đàn Oocgan, đàn Clavecine, đàn Mandoline, đàn Guitare, đàn Vion, đàn Violon, đàn Viola, đàn Violoncello, đàn Contrebass, sáo Flute, kèn Oboi, kèn Clarinetto, kèn Fagotto, trống Timpani, trống Tamburino, trống Tamburo,… luôn được ưa chuộng và được sử dụng thường xuyên trong biên chế dàn nhạc. Do bản tính tâm lý, tập quán, truyền thống… nên cách phân loại nhạc cụ của âm nhạc Phương Tây khác hẳn so với âm nhạc Phương Đông. Họ phân loại nhạc cụ theo nguồn phát âm, cách biên chế dàn nhạc theo bộ: Dây- Gỗ – Đồng – Gõ, nhất là vào nửa sau thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18 thì cách biên chế các dàn nhạc lớn nhỏ mới được hoàn thiện như ngày nay.
Đàn Lia
Đàn Luyt
5. Một số khác biệt khác
Ngoài ra, còn có một số điểm khác biệt giữa âm nhạc Phương Đông và âm nhạc Phương Tây như: âm nhạc Phương Tây thường được phân theo trường phái, gắn liền với những tên tuổi của các nhạc sĩ; trong khi đó, lịch sử âm nhạc Phương Đông được phân theo khu vực, phân theo đặc trưng âm nhạc của từng vùng, từng miền, còn âm nhạc cổ điển chủ yếu là âm nhạc cung đình. Âm nhạc phương Đông không nặng về phối khí cho dàn nhạc mà diễn tấu theo kiểu bè tòng trên cơ sở lòng bản cho trước, tức hứng. Âm nhạc Phương Đông có hình thức biểu diễn tức hứng trong hoà tấu cũng như độc tấu và kể cả trong thanh nhạc. Hình thức này âm nhạc phương Tây không có, bởi khi biểu diễn, người nghệ sỹ phải chơi theo những qui định đã được ghi sẵn trong bản phổ. Âm nhạc Phương Đông còn có kiểu hoà tấu đặc sắc mà phương Tây không có – đó là hoà tấu nhiều nhạc cụ có độ vang lớn được biểu diễn ở ngoài trời, các hình thức biểu diễn thường mang sắc thái nghi lễ, tín ngưỡng thông tục.
Kết
Như vậy, rõ ràng là âm nhạc nói riêng, cũng như văn hoá nói chung của người phương Đông và người phương Tây, ngoài những giá trị chung, sự tương đồng và sự giao thoa văn hoá còn có những nét khác biệt nhất định. Những nét khác biệt ấy được quy định bởi điều kiện sinh sống, những nét đặc trưng riêng trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán sinh hoạt xã hội và tâm lý cộng đồng… Do vậy, những quan niệm về nhất thể hoá văn hoá, nhất thể hoá nền âm nhạc… rõ ràng là hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu về những sự khác biệt ấy hoàn toàn không phải để kỳ thị, đánh giá thấp – cao đối với các nền âm nhạc khác nhau, mà chỉ để nhằm thấy được sự phát triển cực kỳ phong phú của văn hoá nhân loại nói chung, âm nhạc nhân loại nói riêng, và điều quan trọng hơn là để chúng ta có điều kiện học hỏi cái hay, cái đẹp của các nền văn hoá – âm nhạc trên thế giới, cả phương Đông và phương Tây nhằm không ngừng làm giàu cho nền văn hoá, nền âm nhạc của nước nhà.
– Kỳ 1: Phương Đông và phương Tây khác biệt về âm nhạc như thế nào? (Kỳ 1)
Sự Khác Nhau Về Văn Hóa Phương Đông Và Phương Tây
Lịch sử và địa lý
Ở phương đông chủ yếu là những quốc gia có địa hình đồng bằng châu thổ và bình nguyên, có khí hậu đa dạng và thảm thực vật phong phú, giáp biển và đồi núi, thuận lợi cho việc phát triển nền văn minh lúa nước. Từ đó giúp dễ dàng tập hợp các cộng đồng người thành một quốc gia, xây dựng được nét đặc sắc trong văn hóa của từng dân tộc. Trong quá khứ của ngàn năm xa xưa, phương đông huyền bí khi được so sánh khác nhau về văn hóa với phương tây thì phương đông đã từng có một thời đại vàng son vượt bậc mà các nước ở đại lục phía Tây không thể sánh được. Tuy nhiên do sự kém cạnh trong việc chạy đua với hai cuộc cách mạng kĩ thuật ở phương tây mà tụt hậu dần về kinh tê nhưng lại không thể phủ định nền văn hóa ngàn năm lịch sử của phương đông.
Không chỉ có sự khác nhau về văn hóa với phương đông mà phương tây cũng có một sự khác biệt rõ ràng về địa lý, địa hình chủ yếu là các bán đảo kết nối với nhau với nhiều đồi núi cheo leo và các thung lũng, khí hậu ôn hòa nhưng có nơi cũng rất khắc nghiệt, thực vật chủ yếu là các cây ôn đới. Do sự phân cách của các đồi núi nên thời cổ đại phương tây lưu hành hệ thống các vùng đất độc lập với sự thống trị của lãnh chúa ở mỗi vùng. Do sự khắc nghiệt về tự nhiên nên đòi hỏi người dân ở phương tây phải sớm có sự bức phá về mọi mặt và họ đã thành công thông qua hai cuộc cách mạng kĩ thuật, đặc biệt là thời đại Phục Hưng đã giúp cải thiện và làm phong phú hơn nền văn hóa đặc trưng đầy phá cách của phương tây.
Tín ngưỡng và tôn giáo
Phương đông huyền bí với sự đa dạng và phong phú về tín ngưỡng và tôn giáo, là vùng đất hứa của đức tin với nhiều đạo như Phật, Hồi giáo, Ấn Độ giáo,… và tín ngưỡng Khổng tử, Nho tử, tín ngưỡng thời ông bà tổ tiên, tín ngưỡng nhân gian,… vì thế nền văn hóa của các nước phương đông không thể tách biệt khỏi chùa chiền, đền miếu và đời sống tâm linh được truyền từ đời này sang đời khác. Đó là bản chất góp phần làm nên sự phong phú đa dạng trong văn hóa lâu đời của phương đông.
Sự khác nhau về văn hóa phương đông và phương tây đã tạo nên những sự khác biệt rõ ràng trong xã hội, từ suy nghĩ, hành động, cách sống và công việc của con người. Và con người luôn bị mê hoặc bởi những điều mình không biết nên trong thời đại hội nhập, việc tiếp thu và bảo vệ nền văn hóa là một vấn đề quan trọng cần xem xét cẩn thận để hòa nhập chứ không hòa tan, để có thể vừa học tập tinh hoa văn hóa từ phía bên ngoài vừa giữa vững nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự Khác Biệt Giữa Rồng Phương Đông Và Rồng Phương Tây.
Sự khác biệt về hình dáng
Rồng phương Đông hay rồng ở các quốc gia châu Á được mô tả trong các truyền thuyết, truyện cổ thường có mình dài, toàn thân có vảy. Không có cánh nhưng lại có thể tự do bay lượn. Đầu có bờm sư tử và sừng hươu. Đa phần rồng ở các quốc gia châu Á được mô tả là có màu vàng.
Trong khi đó rồng phương Tây hay rồng ở các quốc gia châu Âu lại được mô tả là một loài vật có sức mạnh to lớn, thường có 3 đầu. Một số con cũng chỉ có một đầu. Tuy nhiên hình dáng thì khác hẳn so với rồng phương Đông. Nó được mô tả giống như một loài thằn lằn, có thể khè ra lửa. Da dày và rắn chắc. Chúng có đôi cánh như cánh rơi nhưng to khỏe và có thể bay lượn dễ dàng.
Rồng phương Đông mang nhiều ý nghĩa tâm linh
Sự khác biệt về tính biểu tượng.
Trong văn hóa tâm linh của con người thuộc các quốc gia phương Đông, rồng luôn là một biểu tượng văn hóa đẹp đẽ. Đó là đại diện cho những gì cao quý nhất và đáng tôn thờ nhất. Rồng tượng trưng cho vua, cho thần thánh. Đây là biểu tượng của sự ban phát điềm lành, của sự bao bọc mà những thế lực linh thiêng dành cho con người. Nó còn đại diện cho chủ nghĩa anh hùng. Chính vì vậy rồng rất được tôn thờ trong văn hóa phương Đông.
Đối với văn hóa phương Tây thì tính biểu tượng của con rồng lại mang một thái cực hoàn toàn khác. Rồng trong văn hóa phương Tây lại là đại diện cho thứ sức mạnh tà ác. Chúng tồn tại cùng với sức mạnh của mình luôn là một nỗi ám ảnh đối với con người. Tuy nhiên, trong hầu hết các thần thoại Tây phương chúng đều chết thảm dưới tay của các hiệp sĩ.
Rồng phương Tây là đại diện cho sức mạnh hung hãn, đáng sợ.
Sự khác biệt về hành vi.
Rồng trong tưởng tượng của các quốc gia châu Á mang tính linh thiêng. Thường mang sức mạnh to lớn của mình, đại diện cho thần thánh cứu giúp dân lành. Rồng chính là linh thú bảo vệ xã tắc bình an.
Rồng trong thần thoại phương Tây lại thường sử dụng sức mạnh của mình vào mục đích đen tối. Nó thường canh giữ của cải, người đẹp…Tuy nhiên lại tỏ ra là một thứ sức mạnh “hữu dũng vô mưu”. Nó luôn được miêu tả là một loài quái vật hung tợn và tăm tối.
Rồng phương Đông là đại diện cho điềm lành
Sự khác biệt về mặt ý nghĩa xã hội.
Rồng phương Đông đại diện cho vua chúa, cho cuộc sống vương giả. Đây là linh thú đứng đầu trong tứ linh của văn hóa phương Đông là long, ly, quy, phượng. Vì vậy rồng mang ý nghĩa xã hội vô cùng to lớn trong đời sống văn hóa tâm linh của người châu Á.
Rồng phương Tây mang một ý nghĩa xã hội hoàn toàn khác. Đây là loài vật đại diện cho những gì xấu xa nhất và là thế lực mà con người luôn muốn chống lại.
Rồng phương Tây là thứ sức mạnh mà con người luôn muốn chống lại.
Như vậy sự xung đột văn hóa Đông Tây là điều vẫn luôn luôn hiện diện. Do vị trí địa lý, địa hình, quá trình phát triển… mà sự xung đột này luôn tồn tại. Điều này đã tạo nên sự đa dạng vô cùng thú vị. Sự khác biệt của văn hóa Đông Tây sẽ luôn là một đề tài hay ho cho những ai thích khám phá văn hóa và văn minh nhân loại.
Sự Khác Nhau Giữa Phương Đông Và Phương Tây
Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông còn được thể hiện cụ thể như sau: đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là: Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn… trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ – kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu T097 đến số điện thoại: 0988.44.1615Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác
Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Đông Và Phương Tây Khác Biệt Về Âm Nhạc Như Thế Nào? (Kỳ 2) trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!