Bạn đang xem bài viết Phong Tục Hôn Nhân Xưa Và Nay được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phong tục hôn nhân – cưới hỏi là dấu mốc quan trọng của đời người và đồng thời cũng thể hiện rõ nét đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Tuy vậy, văn hóa là một phạm trù có sự tiếp biến, nên phong tục hôn nhân của mỗi dân tộc luôn có sự chọn lọc, thay đổi cho phù hợp hơn với thời đại mới, trên cái nền của bản sắc truyền thống.
Trầu cau là lễ vật không thể thiếu trong mỗi lễ cưới. Ảnh: sưu tầm
* Từ hôn nhân theo ý nguyện gia đình, dòng tộc…
TS Nguyễn Thị Nguyệt, giảng viên Trường đại học Văn hóa chúng tôi nhận định, hôn nhân của người Việt Nam truyền thống không đơn thuần là việc hai người lấy nhau mà là việc của hai bên cha mẹ, hai dòng họ dựng vợ gả chồng cho con. Từ đó kéo theo việc xác lập quan hệ qua lại giữa hai gia tộc. Bên cạnh đó trong xã hội xưa, giáo dục gia đình thuần theo triết lý của Nho giáo nên hôn nhân luôn đặt trong tình huống Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy.
Tục ngữ Việt Nam có nhiều câu đúc kết vấn đề kén rể, chọn dâu. Chẳng hạn: Lấy vợ xem tông, lấy chồng kén giống, việc đầu tiên không phải là lựa chọn cá nhân cụ thể cho cuộc hôn nhân mà là lựa chọn một gia đình, một dòng họ, xem hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối hay không.
Đám cưới hiện đại ngày nay có xu hướng giản lược nhưng luôn phải đảm bảo vấn đề cơ bản là đăng ký kết hôn để pháp luật công nhận, bảo vệ cuộc hôn nhân hợp pháp. Một số cặp đôi là công nhân lao động sống xa quê, không có điều kiện kinh tế, thì có khi tự tổ chức đám cưới và báo hỉ với gia đình, dòng tộc, tổ chức mâm cơm ra mắt tại quê nhà. Một số địa phương còn tổ chức đám cưới tập thể cho các cặp đôi công nhân lao động khó khăn, người khuyết tật…
Tiếp đó, trong xã hội Việt Nam trước đây, nghề nông nghiệp là chủ yếu nên cần nhiều nhân lực. Ông bà xưa rất quan tâm đến năng lực sinh sản, duy trì nòi giống của người phụ nữ. Người ta thường chúc đôi trai gái mới cưới có Con đàn cháu đống; việc chọn dâu cũng theo tiêu chí: Đàn bà thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con; hoặc Mua heo chọn nái/ lấy gái chọn dòng…
Ngoài ra, đối tượng được dựng vợ gả chồng còn phải có trách nhiệm mang lại các lợi ích cho gia đình. Con rể phải mang về vẻ vang, hãnh diện cho gia đình vợ, và ngược lại con dâu phải đảm đang, quán xuyến cho gia đình chồng: Chồng sang vợ được đi giày/ Vợ ngoan chồng được tối ngày cậy trông.
Theo các nhà nghiên cứu về văn hóa, gia đình ở xã hội Việt Nam truyền thống không tách rời khỏi làng và nước, mà ngược lại “nhà – làng – nước” là một thể thống nhất, có mối liên hệ chặt chẽ. Một trong những ví dụ cụ thể cho mối liên hệ này trong lĩnh vực hôn nhân là tục nộp cheo: Nuôi lợn thì phải vớt bèo/ Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng; hoặc Lấy vợ không cheo/ Tiền gieo xuống đất…
Như vậy, khi đôi trai gái lấy nhau phải nộp cho làng một khoản lệ phí gọi là cheo mới được làng xã công nhận khoản cheo này để làng xã dùng vào những việc chung, công ích. Đa phần tục nộp cheo phổ biến ở miền Bắc hơn vì tính cộng đồng mạnh mẽ được cố kết bởi những lũy tre làng. Còn ở phương Nam, đặc thù có nhiều kênh rạch bao quanh đã hình thành tính mở của làng. Việc nộp cheo không thể hiện rõ ràng như ở miền Bắc. Tuy vậy, khi nghiên cứu, tìm hiểu về di sản văn hóa làng xã ở xã Hiệp Phước, H.Nhơn Trạch, TS Nguyễn Thị Nguyệt cho biết ở xã Hiệp Phước xưa có tổ chức lễ lạy làng trong hôn nhân, thể hiện trách nhiệm của gia đình tổ chức hôn nhân đó đối với làng.
Nhìn rộng ra, hầu hết các cuộc hôn nhân xưa đều làm theo ý nguyện của cộng đồng, vì lợi ích của quốc gia như: cuộc hôn nhân đi vào lịch sử của Mỵ Châu – Trọng Thủy, công chúa Huyền Trân – vua Chàm Chế Mân…, hay ở phạm vi nhỏ hơn ở các gia tộc là vô số những cuộc hôn nhân của thường dân.
* … Đến tự do hôn nhân
Ngày nay, quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, được tôn trọng và thực hiện theo quy định của pháp luật, với các luật cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới… Khác với trước đây Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, thì ngày nay theo Luật Hôn nhân và gia đình, nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn, thì được tự nguyện quyết định trong việc kết hôn.
Các cặp đôi rước dâu bằng xe xích lô, trong tà áo dài truyền thống. Ảnh: TTXVN
Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
Dưới góc nhìn văn hóa, TS Nguyễn Thị Nguyệt nhận định rõ ràng việc tự do yêu và tự do hôn nhân là sự tiến bộ của xã hội, nhưng nếu quan niệm tự do hôn nhân một cách thái quá cũng sẽ trở thành một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng “sống thử” để lại nhiều hệ lụy, nhất là trong giới sinh viên, hoặc công nhân lao động.
Ngoài ra, ngày nay, hôn nhân được hiểu thiên về chuyện cá nhân, riêng tư của mỗi người nhiều hơn trước nên một số tục lệ được điều chỉnh để phù hợp với thực tế. Cụ thể như lễ lạy làng ở xã Hiệp Phước đã được chuyển đổi thành lễ gia tiên, thường tổ chức vào đêm trước ngày rước dâu về nhà chồng. Hoặc việc xem tuổi xem đôi trai gái có hợp với nhau hay không, người con dâu tuổi có xung khắc với gia đình chồng hay không, xem ngày tốt để tổ chức các nghi lễ… vốn dĩ trước đây rất được coi trọng, nay không còn đặt nặng như trước nữa. Những ngày cưới thường được tổ chức vào dịp cuối tuần để tạo thuận lợi cho người tổ chức và tham dự lễ cưới, một số cặp vợ chồng tuy không hợp tuổi vẫn tiến đến hôn nhân và sống hạnh phúc với nhau…
* Gìn giữ các giá trị văn hóa
Để cho quan hệ vợ chồng đời đời bền vững, theo sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của GS-TS Trần Ngọc Thêm thì khi cưới, đôi vợ chồng trẻ thời Hùng Vương có tục trao cho nhau nắm đất và gói muối. Nắm đất tượng trưng cho lời nguyền gắn bó với đất đai – làng xóm – quê hương; gói muối là lời chúc cho tình nghĩa giữa cặp vợ chồng thêm mặn mà chung thủy.
Trong đồ lễ vật của đám cưới ngày nay tuy không dùng đất và muối nhưng cũng luôn có một loại bánh rất đặc biệt có ý nghĩa là bánh su sê. Loại bánh được đọc chệch đi của từ phu thê – mang nghĩa vợ chồng. Bánh làm bằng bột lọc, nhân gồm đường, dừa, đậu xanh, rắc thêm mè, được nắn hình tròn, đặt trong một hộp vuông làm bằng lá dứa úp khíp vào nhau. Bánh su sê với hình vuông tròn như một biểu tượng của triết lý âm dương, biểu tượng của sự hòa hợp, vẹn toàn…
Trong phong tục hôn nhân của người Việt, trải qua hàng ngàn năm vẫn luôn có sự hiện diện của trầu cau – một biểu tượng văn hóa đặc biệt của dân tộc ta, thể hiện của sự mặn nồng trong các lễ cưới. Hình ảnh cây cau vươn cao là biểu tượng của trời, vôi lấy từ đá là biểu tượng của đất, dây trầu quấn quýt lên thân cây tạo nên sự hòa hợp, trở thành biểu tượng của tình yêu đôi lứa: Thưa rằng bác mẹ đã răng/ Làm thân con gái chớ ăn trầu người; hoặc Có trầu mà chẳng có cau/ Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm; hay Em về, anh gởi buồng cau/ Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy…
Đáng chú ý, dù tiếp cận với nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng trang phục cưới truyền thống của cô dâu Việt không bao giờ thiếu tà áo dài. So với áo dài thường, áo dài cưới được may với loại vải có chất liệu cao cấp hơn, màu sắc cũng tươi sáng, rực rỡ hơn như: màu đỏ, vàng, hồng, trắng… Một số áo dài cưới được may cầu kỳ, cách điệu cho phù hợp với xu hướng thời trang, nhưng chung quy vẫn giữ được những nét cơ bản của tà áo dài, tôn vinh sự duyên dáng, nữ tính của người mặc nó. Trong một số đám cưới, chú rể cũng diện trang phục áo dài, đồng bộ với cô dâu.
Lâm Viên
Sự Khác Nhau Giữa Hôn Nhân Xưa Và Nay • Iwedding Blog
Sự khác nhau giữa hôn nhân xưa và nay với các nghi thức cưới hỏi hiện đại đã có những sự đổi khác so với cưới hỏi truyền thống.
Mặc dù một số nghi thức đã được thay đổi hay giản lược nhưng về ý nghĩa thì không có thay đổi quá nhiều.
Ý nghĩa về lễ cưới xưa và nay
Ngày xưa
Ngoài sự đồng ý của cả hai gia đình thì điều kiện tiên quyết còn lại là căn cứ vào hoàn cảnh của cả hai nhà. Cả hai gia đình cần phải có sự phù hợp về địa vị, kinh tế thì cô dâu, chú rể mới được chúc phúc.
Hôn nhân ngày xưa rất xem trọng lễ cưới, nó mang ý nghĩa hơn cả giấy chứng nhận kết hôn. Bởi đây là dịp báo hỷ, chia vui cùng hai gia đình.
Ngày nay
Cùng với xu hướng hiện đại hoá và hội nhập với thế giới, những quan niệm cùng dần thay đổi. Việc tiến đến hôn nhân không chỉ là sự đồng ý của hai gia đình mà điều quan trọng là sự tìm hiểu, hoà hợp và quyết định của cô dâu, chú rể.
Cả hai cần phải đăng ký kết hôn và ý nghĩa về lễ cưới dù thay đổi nhưng vẫn giữ bản sắc như ngày xưa. Vẫn là chung vui của bạn bè, người thân chúc phúc cho đôi bạn tiến đến hạnh phúc trăm năm.
Các nghi thức cưới hỏi xưa và nay
Khi so sánh hôn nhân xưa và nay, điều khác nhau dễ nhận thấy nhất chính là những nghi thức cưới hỏi.
Ngày xưa
Do ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc ngày xưa, nên các nghi lễ cưới hỏi cũng mang nét đặc trưng đất nước này. Những nghi thức này được thực hiện nhiều công đoạn hơn, tuy nhiên phải kể đến những nghi thức chính như sau:
– Lễ nạp tài: Nhà trai mang cặp “nhạn” đến nhà gái, tỏ ý đã chọn được ý trung nhân. – Lễ vấn danh: Nhà trai đến hỏi tên, ngày tháng năm sinh của người con gái. – Lễ nạp cát: Lễ báo kết quả xem tuổi, hợp nhau thì tiến tới, còn nếu không hợp sẽ huỷ. – Lễ nạp tệ: Nhà trai đem sính lễ đến nhà gái. – Lễ thỉnh kỳ: Lễ xin ngày giờ tốt làm lễ thân nghinh. – Lễ thân nghinh: Tức là lễ cưới, đúng ngày giờ trong lễ thỉnh kỳ nhà trai sẽ đem lễ vật đến đón dâu về.
Ngoài những lễ chính kể trên còn có những nghi thức khác như mai mối, lễ cheo,…
Ngày nay
Sự giản lược làm cho các nghi thức được thực hiện ít rườm rà hơn cũng như tiết kiệm được thời gian, chi phí và công sức.
Các nghi lễ ngày nay tuy có tên gọi hơi khác so với nghi lễ trước kia nhưng ý nghĩa thì khá giống. Các nghi thức cưới hỏi chính ngày nay là lễ dạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu, đón dâu, lại mặt.
Trang phục hôn nhân xưa và nay
Ngày xưa
Cô dâu sẽ mặc áo mớ ba, bên trong là áo màu sắc rực rỡ như hồng, xanh, vàng,… phía bên ngoài là áo phủ the thâm. Sau này thì mặc áo dài trắng hoặc váy trắng có thiết kế đơn giản. Còn chú rể thường mặc quần âu, áo sơ mi đơn giản.
Ngày nay
Trang phục lễ cưới hỏi ngày nay khá đa dạng, nhưng thường cô dâu sẽ mặc áo dài trong đám hỏi và váy cưới trong đám cưới.
Áo dài và váy cưới cô dâu ngày nay có nhiều thiết kế khác nhau vì vậy có rất nhiều lựa chọn cho tân nương.
Còn về phía chủ rể sẽ mặc áo vest hiện đại trong cả đám cưới và đám hỏi.
Lễ vật cưới hỏi xưa và nay
Nhìn chung lễ vật cưới hỏi ngày nay về cơ bản không khác nhiều so với lễ vật ngày xưa. Tựu chung sẽ có trầu cau, rượu, thuốc lá, bánh, chè, mứt sen, xôi, heo quay,…
Tuỳ mỗi vùng miền mà lễ vật sẽ có sự khác nhau phần nào nhưng đều mang một ý nghĩa nhất định.
Từ những so sánh hôn nhân xưa và nay như trên đã cho thấy rằng, cưới hỏi dù thời gian nào cũng mang một ý nghĩa rất quan trọng.
Khám Phá Phong Cách Cà Phê Sài Gòn Xưa Và Nay
Cà phê là thức uống đã theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam từ thế kỉ XIX và dần dần mang đậm hồn Việt. Mỗi vùng miền lại có nét đặc trưng rất riêng trong văn hóa thưởng thức cà phê: Thủ đô Hà Nội là những quán cà phê trầm lặng có phần cũ kỹ, Huế với không khí nhẹ nhàng của cà phê vườn lộng gió, riêng Sài Gòn thì đây là nơi hội tụ của tất cả tín đồ cà phê từ mọi xứ.
Quán cà phê cóc đã có từ rất lâu và hiện vẫn đang rất thịnh hành giữa phố phường Sài gòn
Đầu tiên phải kể đến cà phê cóc – một loại hình cà phê tồn tại rất lâu tại mảnh đất này. Từ hẻm nhỏ cho đến đường lớn, chỉ cần đôi chiếc ghế con, một góc vỉa hè là bạn có thể dễ dàng thưởng thức ly cà phê đặc trưng. Cà phê được pha chế tại chỗ bằng pha vợt hoặc pha phin, nước có màu nâu, thơm nồng. Tùy theo sở thích người uống có thể pha thêm đường, sữa và lựa chọn cà phê đá hoặc cà phê nóng.
Người Sài Gòn xưa và nay đều ưa chuộng những quán cà phê dân dã
Nơi đây mọi người có thể thoải mái tám chuyện, đọc báo, thư giãn
Tên của các quán cà phê thường được đặt theo tên người chủ hoặc tên hẻm, tên đường. Giữa lòng Sài thành, sâu trong con hẻm ngoằn ngoèo có những quán cà phê của bà Ba, chị Tám lé, cô Năm… dù ngày nắng, hay ngày mưa cũng đều tấp nập người ra vào.
Khách hàng cũng đa dạng từ bác xe ôm, anh công nhân, giới sinh viên, văn phòng hay thậm chí là những văn nghệ sĩ nổi tiếng đều ưa chuộng không gian đặc biệt, không cầu kỳ và rất bình dân của cà phê cóc ấy.
Dù thời gian trôi qua nhưng thói quen thưởng thức cà phê của người dân vẫn không hề thay đổi
Khách du lịch rất ấn tượng và thích thú khi được trải nghiệm văn hóa cà phê Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng bởi sự bình dị, mộc mạc. Hơn hết một quán cà phê cóc với không gian mở giúp mọi người có thể vừa trò chuyện, vừa ngắm đường phố thậm chí là cùng hò hét vì một trận bóng đá, thoát khỏi nhịp sống hối hả thường ngày.
Để đáp ứng sự phát triển của xã hội thì ngày nay xuất hiện nhiều loại hình quán cà phê khác nhau như cà phê di động, cà phê mang đi… Bên cạnh đó là những quán cà phê lạ và độc như cà phê truyện tranh, cà phê hầu bàn, cà phê thú cưng… Chưa kể đến sự gia nhập ồ ạt của những thương hiệu cà phê phương Tây tạo nên một loại hình “cafe sang chảnh”. Những cửa hàng cà phê với cửa kính sáng bóng, máy lạnh “phà phà”, wifi “vù vù” luôn sáng đèn 24/7 thu hút khá đông giới trẻ sành điệu.
Một góc cà phê vỉa hè trước đây và cà phê bệt ngày nay
Hàng trăm phong cách cà phê phục vụ nhiều đối tượng khác nhau. Mỗi người một sở thích riêng, có thể người già không thích cà phê của “bọn trẻ bây giờ” hay ngược lại nhưng tựu chung ở Sài Gòn thì ai cũng có một quán cà phê “ruột” của riêng mình.
Cái Học Xưa Và Nay
Ngày nay sự học được mọi người quan tâm hàng đầu trong việc giáo dục con người, đến nỗi nói đến giáo dục là người ta nghĩ ngay đến việc đi học, vô hình trung nó được đồng hóa hay đồng nghĩa với cặp từ “giáo dục”. Có lẽ đây là nguyên nhân và mấu chốt của vấn đề dẫn con người xa dần cái ý nghĩa cao quý đích thực của việc học nói riêng, giáo dục nói chung. Nó khác với lối học ngày xưa chính là ở điểm này.
CÁI HỌC CỦA NGƯỜI XƯA
Trước đây, xã hội công nghiệp chưa ngự trị, con người chủ yếu đi học các ngành thuộc về nhân văn và học thuật tư tưởng, đặc biệt là bên Đông phương, người đi học chuyên chăm về tư tưởng đạo lý, đến nỗi đi học là học Đạo chứ không phải học các ngành khoa học như ngày nay. Triết học Đông phương được gọi là Đạo học, mục đích là để hiểu về Đạo, để trở thành hiền giả, hiền triết, thánh nhân. Nó khác ngày nay là đi học để trở thành những người thợ, chuyên viên, chuyên gia hoặc nhà khoa học, triết gia…, có thể nói phần lớn nó ngành nghiên cứu thuộc lãnh vực chuyên môn, nhưng chỉ là vấn đề thuộc tri thức mà thôi.
Cái học trước đây chủ yếu lấy Đạo, lấy Đức làm nền và làm mục đích, nên người ta thường nói: “học làm người”, và người xưa quan niệm rất nhân bản: “không thành công cũng thành nhân” và luôn luôn phải là “văn dĩ tải đạo” . Bởi thế nếu đi học mà không làm quan giúp đời thì kẻ sĩ vẫn ung dung tự tại vui thú với điền viên, với lối sống dân dã hết sức mộc mạc giản dị và thanh cao, không cần những tiện nghi vật chất, vì họ sợ bị ràng buộc và nô lệ vào sự nhiễu nhương của đời sống vật dục. Nhiều kẻ sĩ có khuynh hướng ẩn dật để tu tâm dưỡng tính, trở thành những ẩn sĩ thanh bạch đáng khâm phục. Hay ít ra họ cũng tìm được cái triết lý an vi cao quý, tìm được cái Đạo sống cao thượng, như trong sử sách đã ghi lại rất nhiều.
Tuy cái học ngày xưa không mang tính chuyên môn sâu rộng như ngày nay, nhưng nó luôn được gọi là cái học quán thông, vì học là tìm và nương tựa vào CÁI ĐẠO, mà Đạo là tất cả, là nguyên ủy và cứu cánh của vạn vật, nó là toàn thể của mọi quy luật phát sinh, tồn tại và hủy diệt, “hữu sinh tất hữu diệt; hữu thành tất hữu hủy”. Nó diễn tiến không ngừng theo mỗi thời gian, không gian và điều kiện trong quy luật của nó. Trong đó, sự vật và con người, vũ trụ và nhân sinh đều hòa quyện và tác động vào nhau, đun đẩy nhau để tồn tại, phát triển hoặc hủy diệt lẫn nhau. “Thiên địa vạn vật nhất thể” là như thế. Cái học tổng quan – nhất nguyên – này cho phép con người biết “một” cũng là biết tất cả, vì: “nhất bất biến ứng vạn biến”, nên mọi hiện tượng, hay mọi quy luật không thể chia chẻ hoặc đứng một mình, như sợi tóc chẻ làm tư thì không còn là sợi tóc nữa. Sự chia chẻ chỉ làm nó khô cứng và không còn lý do để tồn tại. Mọi diễn biến của vũ trụ, của tự nhiên, của xã hội, trong các ngành khoa học ngày nay, dù là thiên văn, địa lý, chính trị, kinh tế, sinh học, tâm lý học, y học, lý hóa v.v… vẫn chỉ là một, vì bộ ba THIÊN-ĐỊA-NHÂN không thể tách rời, như sách “Sáng Thế Ký Á Đông”: Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh muôn vật (Đạo Đức Kinh); hoặc: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh Bát quái , từ đó sinh hóa muôn vật (Kinh Dịch).
Nói chung, cái học ngày xưa là cái học để hiểu và tìm ĐẠO, nhất là để sống cho hợp với mọi lẽ trong quy luật của trời đất, thực tế là biết sống, biết xử sự giữa con người với nhau, cũng như giữa con người với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên mà con người đang sống và hiện diện.
Đạo Sống. ĐẠO LÀM NGƯỜI với Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín; ĐẠO XỬ THẾ với Ngũ luân: Quân minh thần trung, Phụ từ tử hiếu, Phu xướng phụ tùy, Huynh hữu đệ cung, Bằng hữu thủ tín; ĐẠO PHU PHỤ: Phu phụ tương kính như tân… ĐẠO LÀM CON: Chữ Hiếu; ĐẠO LÀM VUA… Tất cả đều trở thành ĐẠO. Và còn rất nhiều học thuyết khác, chung quy cũng tìm về Đạo để mưu cầu hạnh phúc cho con người, cho xã hội được tồn tại và ổn định .
CÁI HỌC NGÀY NAY
Ngày nay không ai mà không thấy sự cần thiết của việc học, nó là điều kiện buộc phải có để sống, để hội nhập với xã hội. Nó cũng là điều kiện cơ bản như một tiêu chí để đo lường mức thang giá trị của con người, giá trị của một cá nhân. Dù học môn gì, ngành gì, nó cũng định dạng để gắn liền với nghề nghiệp, với nguồn lợi của thu nhập. Vì vậy, nghề nghiệp và nguồn thu nhập trở thành mục tiêu cho sự học. Do đó quan niệm về sự học cũng thay đổi, một sự thay đổi gần như ngược với xã hội truyền thống trước đây. Điều này diễn ra từ sự biến dịch trong quy luật của lịch sử, khi mà xã hội công nghiệp phát triển thì tất nhiên xã hội truyền thống bị phá vỡ, kéo theo một nền văn hóa cổ truyền lung lay và có nguy cơ sụp đổ, ngay cả nền móng gia đình hạt nhân cũng bị đảo lộn.
Cái học ngày nay là cái học của khoa học nói chung, đặc biệt chú trọng vào khoa học ứng dụng, khoa học kỹ thuật và khoa học thực nghiệm. Bởi thế nó được hệ thống hóa và đi vào chuyên môn để chia chẻ ra rất nhiều môn, nhiều ngành. Nhờ thế nó giúp cho mỗi người đi chuyên sâu vào từng lãnh vực tới mức tinh vi, giúp cho xã hội có rất nhiều nhân tài mang tính chuyên môn để xây dựng và phát triển đất nước. Một guồng máy tốt với những nhân tài thì có thể đưa đất nước nhảy vọt từ lạc hậu lên hàng cường quốc chỉ trong ít chục năm, trở thành một nước văn minh tiên tiến. Nó không như văn hóa là phải mất nhiều thế hệ, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm thì mới có thể xây dựng một nền văn hóa mang tính dân tộc được.
Cuối thế kỷ 20, đầu TK 21, với sự bùng nổ thông tin của kỹ thuật máy tính và mạng, sau đó là toàn cầu hóa, những nước và những người được tiếp cận với thế giới hầu như bị choáng ngộp với những sự kiện và những sáng tạo mới, qua nhiều đổi thay khắp nơi trên thế giới. Mọi người, mọi nước như chạy đua với thời gian để bắt kịp thời đại. Hầu như không còn thời giờ để suy tư về những vấn đề thuộc lãnh vực tinh thần như đạo lý, tư tưởng, văn hóa, lễ giáo, truyền thống… nữa, nếu có chỉ là thứ yếu hoặc vụn vặt. Tất cả các ngành học hướng tới phục vụ con người bằng cách sản xuất ra của cải và tiện nghi hưởng thụ. Nó được kích cầu tối đa, tạo ra những nhu cầu mới, kích thích sự thèm hội tiêu thụ – mua sắm những cái không cần thiết và dư thừa – là đỉnh cao của xã hội công nghiệp ngày nay mà nước nào cũng muốn nhắm tới.
Vì nhu cầu của sự thúc bách, nên cái học ngày nay mang tính đối phó, mang tính dục tốc, chộp thời cơ và tiêu cực của nó là chộp giật. Cho nên vấn đề phương pháp, chính xác, hoàn hảo, đắc lực, hiệu quả, vượt thời gian, kỷ lục, cạnh tranh, loại đối thủ… là yếu tố nòng cốt cho mọi kế hoạch thi hành, nên nó rất năng động và sát phạt trong quy trình diễn tiến. Khác với xã hội truyền thống, chủ trương ở dạng tĩnh, chậm, chắc, bền, chấp nhận cái tương đối và sự khiếm khuyết của mọi sự, mọi vật.
Cái học ngày nay mang tính độc lập, và tính cá nhân được đề cao để tự do phát triển, nên có nhiều cá nhân xuất sắc, được trọng dụng, mang lại rất nhiều nguồn lợi cho họ, đến nỗi cá nhân trở thành một chủ nghĩa như một lý thuyết (cá nhân chủ nghĩa) thật hấp dẫn. Nhiều người cho rằng, cái học ngày nay chỉ tạo ra những Robốt, ý muốn nói tạo ra những công cụ, những bánh xe vô hồn trong một bộ máy vô cảm. Con người làm việc và sống theo những công thức đã được lập trình, được quy định chặt chẽ, không ai còn thời giờ hoạch định cho mình một thế giới riêng tư, vì giờ nào việc đó thật chính xác và rõ ràng, như một cái chốt chạy trong một bộ máy khổng lồ.
Mục đích của con người đi học để đạt được cái danh và cái lợi, mà đỉnh cao của nó mang tính CHUYÊN: chuyên môn, chuyên gia, chuyên viên, chuyên nghiệp…, và mang tính NHÀ: nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà lý luận, nhà kinh tế, nhà kế hoạch, nhà chính trị… Cũng như thành công trong cuộc sống được đo lường và đánh giá bằng lương tháng, bằng lợi nhuận, bằng tiện nghi… Nó trở thành tiêu chí để đánh giá tài năng hay bất tài, giỏi hay dốt, khôn hay dại, giá trị hay không ở đời.
Tóm lại, sự cạnh tranh, sự thống trị, sự đột phá trong sáng tạo, sự thu nhập tiền của hoặc lợi nhuận là động cơ chính yếu thúc đẩy và kích thích việc học của con người ngày nay. Ngoài ra đều là những thứ yếu, nếu có yếu tố tinh thần nào thì cũng để tìm chút an ủi, tạo niềm vui và trang trí mà thôi.
Vì vậy, khi có sự khủng hoảng tinh thần nào đó xảy ra cho cá nhân hoặc cộng đồng xã hội ngày nay thì cũng chỉ là sự tất yếu, vì nó là hệ quả của quy luật giữa nhân với quả hoặc giữa quả với nhân.
SỰ NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN VÀ HƯỚNG ĐI
Sau khi nhìn qua toàn diện của hai cái học xưa và nay – thực ra là có sự chuyển tiếp một cách tiệm tiến, chứ không hẳn rạch ròi như thế – thì người đi học cũng có thể tìm ra một quan điểm dung hoà tốt nhất cho cái học của mình. Từ sự nhận thức thông thường và cơ bản nhất, thì sự vật nào cũng có mặt phải và mặt trái của nó. Như bên Tây phương là nền văn hóa động, nên khoa học thực nghiệm và kỹ thuật phát triển, nó luôn thích ứng, cầu tiến, cộng với ý chí chinh phục rất lớn, nên nó phát triển rất mạnh và rất nhanh. Ngược lại, Đông phương với nền văn minh nông nghiệp, nhất là nền văn minh lúa nước (âm tính) như Việt Nam thì ưa tĩnh, sợ thay đổi, an phận thủ thường, tính bảo thủ, trọng tình cảm, ưa lễ nghĩa… nên rất chậm phát triển. Bởi vậy, dù muốn hay không, cái nền văn hóa dân tộc vẫn là cái cơ bản, quan trọng và cần thiết nhất để xây dựng toà nhà theo mô hình nào thích hợp nhất. Nếu không dựa trên cái nền này thì toà nhà khó có thể đứng vững được.
Thực tế cho thấy lớp trẻ ngày nay có khuynh hướng muốn phá bỏ cái nền văn hóa truyền thống của dân tộc, không những không giữ mà còn có thái độ miệt thị khinh thường nữa. Có lẽ đây là một thứ mặc cảm tự ti thâm căn của lớp trẻ, có thể của cả dân tộc, như Trịnh Công Sơn than thở: “Người nô lệ da vàng ngủ quên trong căn nhà nhỏ…”, từ đó nảy sinh ra vấn đề “chuộng ngoại”. Bất cứ cái gì của Tây cũng đều giá trị và chạy đua theo họ rất mù quáng, thường chỉ học và bắt chước được cái gì kích thích nhất, dễ học nhất, những thứ chỉ là cặn bã của họ, mà chính họ cũng khinh thường. Còn nền văn minh, văn hóa chính thống của họ lại chẳng học được. Thật tội nghiệp cho nhiều công nhân, sinh viên từ các tỉnh về những thành phố lớn để đi làm và học hành, họ bắt chước, rập khuôn lối sống vô văn hóa của một số dân thành thị, cộng với kiểu lai căng du nhập từ nước ngoài để gọi là hoà nhập “ta cũng như ai”. Họ tự chối bỏ bản thân để che lấp cái thân phận “dân quê làm vườn” của mình. Họ đâu hiểu rằng con người Việt Nam chẳng có ai là quý tộc thượng lưu cả, tất cả đều xuất thân từ chân lấm tay bùn mà ra. Khi cha mẹ tới thăm thì họ che dấu vì sợ người ta nhìn thấy gia đình mình quê mùa. Và lúc về quê thì họ giảng cho anh em, cha mẹ những bài học khôn về thời đại, bằng những mánh khoé và những phương tiện hưởng thụ, nhưng họ không hiểu thế nào là người có văn hóa, văn minh cả. Sau đó là bất chấp lễ nghĩa, nề nếp của gia đình mà họ đã hấp thụ. Sự vong thân, vong bản là như thế.
Muốn học thế nào cho đúng đắn nhất thì trước hết phải nhận thức cho đúng, bỏ được cái ý niệm sai lầm tai hại là học để có cơ hội thuận lợi kiếm tiền, kiếm danh. Tiếp đến là nhận thức được cái nền văn hóa truyền thống vô cùng quý giá của dân tộc, trong đó có đạo đức, lòng nhân, tình cảm (quê hương, đất nước), tính cộng đồng, nền nếp gia phong, lễ giáo, cần cù, nhẫn nại, hiếu học… lấy làm nền để xây dựng trên cái học của mình thì mới vững chắc. Mục đích của sự học phải là khát khao tri thức trong cái hay, cái đẹp, cái đúng, cái tốt (Chân-Thiện-Mỹ), chứ không phải học vì việc làm hoặc vì danh lợi, và phải học không ngừng, dù đã ra trường. Học xong ở nhà trường mới chỉ là bắt đầu (chưa hiểu hết khái niệm), chứ chưa phải là đã đủ, đã thông, nên luôn phải trau dồi bằng cách không bao giờ được rời sách vở. Lớp trẻ bây giờ yếu kém mọi mặt vì chỉ học theo lối đối phó để đủ điểm ra trường, nên học không hiểu và không tiêu hóa được, sau đó là giã từ sách vở, rồi đi làm để nghề dạy nghề, trong nhà không hề có tủ sách nào.
Nên theo cái học của người xưa, là học quán thông, học không những ngành của mình mà còn phải tìm tòi trau dồi các ngành về tâm linh, về đối nhân xử thế, về tư tưởng văn hóa v.v… Học khoa học theo như Tây phương chứ không phải học lối sống của họ. Khoa học, văn hóa, đạo đức là những lãnh vực có đối tượng nghiên cứu khác nhau, không lẫn lộn và đào thải nhau, nó lại cần thiết để bổ sung cho nhau. Nếu học văn hóa Á Đông, văn hóa Việt Nam với những nề nếp từ trong gia đình trước hết (gia đình là hạt nhân cơ bản nhất), xuyên qua các loại hình văn hóa trong tổ chức cộng đồng, cộng thêm các ngành khoa học Tây phương thì mình thâu tóm được tất cả. Khi học và trau dồi như vậy, con người sẽ được quân bình cả về nhận thức, về tâm lý và tình cảm.
Tóm lại, sự học thì thời nào cũng cần thiết và cao quý, nhưng nó thực sự có giá trị hay không là tùy vào sự nhận thức của con người. Nếu cái học chỉ là phương tiện kiếm tiền thì nó trở thành đê hạ, phản lại cái chức năng và mục đích cao quý của nó, dẫn con người tới sự mù tối, sản sinh ra những chuyên viên kiếm tiền làm hại cho xã hội, cho văn hóa, cho đạo lý (vi phú bất nhân). Học là bổn phận và trách nhiệm của tuổi trẻ, mục đích là để phục vụ, xây dựng, làm giàu, làm đẹp, làm tốt, trở nên hoàn thiện cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Đó là cái học cao quý muôn thủa cho mọi thời đại.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phong Tục Hôn Nhân Xưa Và Nay trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!