Xu Hướng 3/2023 # Phân Tích Khái Niệm Luật Tố Tụng Hình Sự # Top 4 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Phân Tích Khái Niệm Luật Tố Tụng Hình Sự # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Khái Niệm Luật Tố Tụng Hình Sự được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Phân tích khái niệm luật tố tụng hình sự

Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Quá trình từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi xét xử là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, ưong đó xét xử là hoạt động trung tâm và mang tính quyết định.

Để bảo đảm phát hiện chính xác và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời góp phần bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, pháp luật cần phải quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự.

Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

Các giai đoạn tố tụng hình sự

Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng.

Luật tố tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn thứ nhất: Khởi tố vụ án hình sự

Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khác theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn thứ hai: Điều tra vụ án hình sự

Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật, tiến hành thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ làm rõ đối tượng chứng minh để ra kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều traa và các quyết định khác theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn thứ ba: Truy tố

Trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết để truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn thứ tư: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, toà án cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) tiến hành giải quyết và xét xử vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn thứ năm: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Trong giai đoạn này, toà án cấp trên trực tiếp (cấp xét xử thứ hai) của tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn thứ sáu: Thi hành án hình sự

Trong giai đoạn này, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Giai đoạn đặc biệt: Đây là giai đoạn xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn này, toà án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (giám đốc thẩm) hoặc có những tình tiết mới được phát hiện cố thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án không biết được khi ra bản án, quyết định đó (tái thẩm). Ngoài thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn này còn có thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể

Chế Định Giám Định Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm 2022

Chế định giám định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Tóm tắt:

Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 được ban hành, chế định giám định trong tố tụng hình sự Việt Nam còn sơ sài, nhiều tồn tại và vướng mắc, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện chế định giám định hiện trong Nghị quyết của Đảng, khắc phục tồn tại, vướng mắc qua thực pháp thể tiễn thi hành BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung về chế định giám định. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi phân tích những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản của BLTTHS năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chế định giám định.

1. Trưng cầu giám định

Điều 205 BLTTHS năm 2015 về trưng cầu giám định có một số điểm sửa đổi, bổ sung so với Điều 155 BLTTHS năm 2003 như sau:

(i) Ngoài việc quy định thẩm quyền quyết định trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng như BLTTHS năm 2003 (khoản 1 Điều 155), BLTTHS năm 2015 còn bổ sung thêm cho cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thẩm quyền này (khoản 1 Điều 205).

(iii) Khoản 3 Điều 205 BLTTHS năm 2015 được bổ sung quy định: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.” Sự bổ sung này bảo đảm việc tiến hành giám định được thực hiện nhanh chóng và cũng để Viện kiểm sát thực hiện tốt hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc trưng cầu giám định.

Trước đây, các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được quy định tại khoản 3 Điều 155 BLTTHS năm 2003. Ngày nay, BLTTHS năm 2015 bổ sung 01 điều luật mới (Điều 206) quy định về vấn đề này. Theo đó, ngoài việc kế thừa các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung thêm một số trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, đó là: khi cần xác định tình trạng tâm thần của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ); xác định vũ khí quân dụng, vật liệu nỗ, chất cháy, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; xác định mức độ ô nhiễm môi trường. Việc mở rộng các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định là cần thiết, bảo đảm đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, khoa học – kỹ thuật…

3. Yêu cầu giám định

Điều 207 BLTTHS năm 2015 về yêu cầu giám định là quy định hoàn toàn mới so với BLTTHS năm 2003, có nội dung:

thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận (khoản 1 Điều 207). Quy định quyền này là nhằm bảo đảm cho đương sự hoặc người đại diện của họ có điều kiện thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, phù hợp với quy định của Luật giám định tư pháp.

BLTTHS năm 2015 quy định quyền yêu cầu giám định của đương sự hoặc người đại diện của họ nhưng chưa có quy định về nội dung văn bản yêu cầu giám định và thủ tục yêu cầu giám định nên vấn đề này được thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp năm 2012.

(ii) Khoản 2 Điều 207 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người yêu cầu giám định có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật giám định tư pháp.”.

(iii) Qua nghiên cứu quy định mới của BLTTHS năm 2015 về yêu cầu giám định, chúng tôi thấy rằng quy định này có hạn chế như sau: BLTTHS năm 2015 thiếu vắng quy định về trách nhiệm xem xét, quyết định trưng cầu giám định của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong khi quy định đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định, thì BLTTHS năm 2015 lại chỉ đặt ra trách nhiệm xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định cho cơ quan tiến hành tố tụng là chưa đầy đủ, vì thiếu quy định về trách nhiệm xem xét, quyết định trưng cầu giám định của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (khoản 1 Điều 207).

4. Thời hạn giám định

Trước đây, BLTTHS năm 2003 (khoản 2 Điều 156) mới chỉ quy định: “Trong trường hợp việc giám định không thể tiến hành theo thời hạn mà cơ quan trưng cầu giám định yêu cầu thì cơ quan giám định hoặc người giám định phải thông báo ngay bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan đã trưng cầu giám định biết” mà chưa có quy định rõ về thời hạn giám định. Thực tiễn cho thấy, do chưa có quy định về thời hạn giám định, trong khi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được quy định cụ thể theo từng loại tội phạm dẫn đến nhiều trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát vi phạm thời hạn tố tụng và việc giải quyết vụ án bị kéo dài do phải chờ kết luận giám định®. Khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung 01 điều luật mới (Điều 208) quy định cụ thể, rõ ràng, hợp lý thời hạn giám định đối với từng nhóm các vấn đề cần trưng cầu giám định, thời hạn giám định đối với các trường hợp khác, thời hạn giám định bổ sung hoặc giám định lại. Cụ thể:

(i) Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:

– Không quá 03 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 của BLTTHS năm 2015. Đó là trường hợp: Xác định tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ, tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án.

– Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của BLTTHS năm 2015. Đó là trường hợp: Xác định nguyên nhân chết người (khoản 3) và xác định mức độ ô nhiễm môi trường (khoản 6).

– Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 BLTTHS năm 2015. Đó là trường hợp: Xác định tuổi của bị can, bị cáo, bị hại (khoản 2); Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động (khoản 4); Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ (khoản 5).

(ii) Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định. Theo quy định này thì BLTTHS năm 2015 giao việc quyết định thời hạn giám định đối với các trường hợp khác” (Chắng hạn như khi cần xác định công cụ gây ra dấu vết, người ký văn bản, con dấu thật hay giả…) cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong quyết định trưng cầu giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nêu rõ thời hạn giám định và cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định có trách nhiệm tiến hành giám định trong thời hạn đó.

(iii) Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 208 BLTTHS năm 2015 thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định.

(iv) Thời hạn giám định quy định tại Điều 208 BLTTHS năm 2015 cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung giám định lại.

5. Tiến hành giám định

Cả BLTTHS năm 2015 và BLTTHS năm 2003 đều có quy định về tiến hành giám định. Cụ thể: Điều 156 BLTTHS năm 2003 quy định “1. Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu giám định. Điều tra viên, Kiểm sát viên có quyền tham dự giám định, nhưng phải báo trước cho người giám định biết. 2. Trong trường hợp việc giám định không thể tiến hành theo thời hạn mà cơ quan trưng cầu giám định yêu cầu thì cơ quan giám định hoặc người giám định phải thông báo ngay bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan đã trưng cầu giám định biết”. Nay, Điều 209 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết. 2. Việc giám định do cá nhân hoặc do tập thể thực hiện.”

So sánh với Điều 156 BLTTHS năm 2003, thì Điều 209 BLTTHS năm 2015 có một số điểm mới sau:

(i) Nếu quy định về tiến hành giám định của Điều 156 BLTTHS năm 2003 chỉ áp dụng cho trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định, thì Điều 209 BLTTHS năm 2015 về tiến hành giám định còn áp dụng cho cả trường hợp cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trưng cầu giám định và trường hợp đương sự hoặc người đại diện của họ yêu cầu giám định.

(ii) Điều 209 BLTTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có quyền tham dự giám định, chẳng những Điều tra viên, Kiểm sát viên mà Thẩm phán, người yêu cầu giám định cũng có thể tham dự giám định.

(iii) BLTTHS năm 2015 không còn giữ quy định của khoản 2 Điều 156 BLTTHS năm 2003 trong Điều 209 nữa mà đã chuyển quy định này sang Điều 208 (Thời hạn giám định) để đảm bảo sự phù hợp giữa tên gọi và nội dung của điều luật. Giờ đây, khoản 2 Điều 209 là quy định mới với nội dung: “Việc giám định do cá nhân hoặc do tập thể thực hiện”.

Về giám định cá nhân, giám định tập thể được quy định tại Điều 28 Luật giám định tư pháp năm 2012, theo đó: “1. Giám định cá nhân là việc giám định do 01 người thực hiện. Giám định tập thể là việc giám định do 02 người trở lên thực hiện. 2. Trong trường hợp giám định cá nhân thì người giám định thực hiện việc giám định, ký vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định đó. 3. Trong trường hợp giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định cùng thực hiện việc giám định, ký vào bản kết luận giám định chung và cùng chịu trách nhiệm về kết luận giám định đó; nếu có ý kiến khác thì giám định viên ghi ý kiến của mình vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm về ý kiến đó. Trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm cá nhân về phần kết luận giám định đó.”

6. Giám định bổ sung và giám định lại

Trước đây, BLTTHS năm 2003 quy định giám định bổ sung hoặc giám định lại trong cùng một điều luật (Điều 159). Nhưng nay, BLTTHS năm 2015 quy định giám định bổ sung và giám định lại trong 02 điều luật, đó là Điều 210 (Giám định bổ sung) và Điều 211 (Giám định lại). Về nội dung, thì BLTTHS năm 2015 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS năm 2003 như sau:

(i) Về giám định bổ sung

(ii) Về giám định lại

Việc giám định lại được quy định tại khoản 2, 3 Điều 159 BLTTHS năm 2003 như sau: “2. Việc giám định lại được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại phải do người giám định khác tiến hành. 3. Việc giám định bổ sung hoặc giám định lại được tiến hành theo thủ tục chung quy định tại các điều 155, 156, 157 và 158 của Bộ luật này”. Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu có sự mâu thuẫn giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì phải giải quyết thế nào? Kết luận giám định lại có được dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án hay không? Chỉ với quy định này, BLTTHS năm 2003 chưa có câu trả lời.

Khắc phục hạn chế trên, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định mới với nội dung: “Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp” (khoản 3 Điều 211).

Về Hội đồng giám định, Luật giám định tư pháp năm 2012 tại khoản 1 Điều 30 quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Hội đồng giám định gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật này.”

7. Giám định trong trường hợp đặc biệt

Điều 212 về giám định lại trong trường hợp đặc biệt là quy định mới được bổ sung vào BLTTHS năm 2015 với nội dung: “Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.”

Ở đây, kết luận của Hội đồng giám định được nói đến chính là kết luận giám định lại lần thứ hai. Khi đã có kết luận giám định lại lần thứ hai của Hội đồng giám định thì không được trưng cầu, thực hiện giám định lại nữa, trừ trường hợp đặc biệt do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.

8. Quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận giám định

Điều 158 BLTTHS năm 2003 quy định: “1. Sau khi đã tiến hành giám định, nếu bị can, những người tham gia tố tụng khác yêu cầu thì cơ quan đã trưng cầu giám định phải thông báo cho họ về nội dung kết luận giám định. Bị can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Những việc này được ghi vào biên bản. 2. Trong trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu của bị can, những người tham gia tố tụng khác thì phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.”

So với BLTTHS năm 2003 (Điều 158), thì BLTTHS năm 2015 (Điều 214) đã có một số sửa đổi, bổ sung như sau:

(i) BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thời hạn, trách nhiệm xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi nhận được đề nghị trung cầu giám định của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác(1) (khoản 1 Điều 214). Sự bổ sung này là cần thiết, nhưng việc BLTTHS năm 2015 đưa quy định này vào Điều 214 là không hợp lý, bởi lẽ điều luật này chỉ quy định về “Quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận giám định”.

Ngoài ra, dường như có sự khác nhau giữa khoản 1 Điều 214 và khoản 1 Điều 207 của BLTTHS năm 2015 trong quy định về việc xem xét đề nghị trưng cầu giám định của đương sự hoặc người đại diện của họ. Trong khi khoản 1 Điều 214 BLTTHS năm 2015 đặt ra trách nhiệm xem xét đề nghị trưng cầu giám định cho cả cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, thì khoản 1 Điều 207 BLTTHS năm 2015 lại chỉ quy định trách nhiệm này cho cơ quan tiến hành tố tụng.

(iii) BLTTHS năm 2003 quy định bị can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Những việc này được ghi vào biên bản (khoản 1 Điều 158). Quy định này chỉ hợp lý khi bị can, người tham gia tố tụng khác trình bày trực tiếp với cơ quan tiến hành tố tụng mà không hợp lý trong trường hợp bị can, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và gửi văn bản này cho cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 tại khoản 3 Điều 214 đã sửa đổi, bổ sung như sau: “Bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định; đề nghị giám định bổ . sung hoặc giám định lại. Trường hợp họ trình bày trực tiếp thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải lập biên bản.”. Ở đây, BLTTHS năm 2015 quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chỉ phải lập biên bản khi bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến trực tiếp.

(iv) BLTTHS năm 2003 quy định trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu của bị can, những người tham gia tố tụng khác thì phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết (khoản 2 Điều 158). Ở đây, cơ quan có trách nhiệm thông báo chỉ gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và không rõ việc thông báo bằng hình thức nào. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 bổ sung trách nhiệm của Tòa án trong việc thông báo cho bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác về việc không chấp nhận đề nghị của họ và việc thông báo phải bằng văn bản (khoản 4 Điều 214).

Tuy nhiên, việc BLTTHS năm 2015 chỉ đặt ra trách nhiệm thông báo của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là chưa đầy đủ, vì khoản 1 Điều 214 BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm xem xét đề nghị trưng cầu giám định của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác cho cả cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Nguyễn Cao Cường – Viện Kiểm sát nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên – Huế

Giới Thiệu Nội Dung Cơ Bản Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (Phần I)

Ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, (sau đây gọi là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Văn phòng luật sư Ánh Sáng Luật xin giới thiệu cơ cấu và những điểm mới của BLTTHS 2015.

I. Cơ cấu: BLTTHS năm 2015 có kết cấu gồm 09 phần, 36 chương, 510 điều (BLTTHS năm 2003 có kết cấu gồm 08 phần, 37 chương, 346 điều), cụ thể là:

Phần thứ nhất: Phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ, hiệu lực của BLTTHS (từ Điều 1 đến Điều 142).

Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự (từ Điều 143 đến Điều 235).

Phần thứ ba: Truy tố (từ Điều 236 đến Điều 249).

Phần thứ tư: Xét xử vụ án hình sự (từ Điều 250 đến Điều 362).

Phần thứ năm: Một số quy định về thi hành bản án, quyết định của Tòa án (từ Điều 363 đến Điều 369).

Phần thứ sáu: Thủ tục xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (từ Điều 370 đến Điều 412).

Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt (từ Điều 413 đến Điều 490).

Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế (từ Điều 491 đến Điều 508).

Phần thứ chín: Điều khoản thi hành (Điều 509 và Điều 510).

II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

1. Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

Nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013, gồm: công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 11); suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); bảo đảm sự kiểm tra, giám sát trong hệ thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 33).

– Về suy đoán vô tội (Điều 13): Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

– Về tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26): Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

2. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng, tạo điều kiện để các cơ quan thực hiện tốt trách nhiệm luật định

Nhằm đề cao trách nhiệm và bảo đảm các điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt trách nhiệm luật định, Bộ luật quy định:

– Đối với Cơ quan điều tra: (1) Quy định cụ thể những vụ án thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra của Bộ Công an và Cơ quan điều tra của Bộ Quốc phòng; (2) Bổ sung một số biện pháp điều tra như: nhận biết giọng nói, định giá tài sản; (3) Quy định cụ thể trình tự, thủ tục khi tiến hành từng biện pháp điều tra; (4) Quy định đầy đủ các trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn.

+ Về thẩm quyền điều tra (Điều 163): Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cơ quan điều tra cấp huyện điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện. Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.

+ Về tạm đình chỉ điều tra (Điều 229): Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp: (1) Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra; (2) Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra; (3) Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả (Khoản 1, Điều 229).

– Đối với Viện kiểm sát: bổ sung, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát phải: (1) Thực hành quyền công tố sớm hơn, kể từ khi Cơ quan điều tra giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Quy định cụ thể trách nhiệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, tiến hành một số hoạt động điều tra và trách nhiệm chuyển vụ án khi phát hiện việc điều tra không đúng thẩm quyền; (3) Quy định bắt buộc kiểm sát viên phải có mặt trong các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét.

– Đối với Tòa án: quy định cụ thể thẩm quyền của Tòa án trong việc: (1) Xem xét, kết luận tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do các chủ thể tố tụng thu thập, cung cấp; (2) Quy định các trường hợp Tòa án thu thập, bổ sung chứng cứ; (3) Quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng; (4) Quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

3. Phân định thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán Bộ luật quy định rõ: (1) Trong lĩnh vực được phân công phụ trách, cấp phó không chỉ được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng như hiện hành, mà còn được giao thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; (2) Phân định thẩm quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp tiến hành tố tụng theo hướng những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; hầu hết những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định, tăng cơ bản thẩm quyền cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

4. Quy định cụ thể trình tự, thủ tục trong từng giai đoạn tố tụng nhằm tháo gỡ vướng mắc, bất cập của thực tiễn

5. Đổi mới chế định chứng minh và chứng cứ

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và để phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế, Bộ luật đã: (1) Đổi mới khái niệm chứng cứ; (2) Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tiếp nhận và đánh giá chứng cứ do người tham gia tố tụng cung cấp; (3) Bổ sung vào hệ thống nguồn chứng cứ, gồm: dữ liệu điện tử, kết luận định giá tài sản, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp; (4) Quy định cụ thể trình tự, thủ tục thu thập dữ liệu điện tử.

– Về khái niệm chứng cứ (Điều 86): Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Khái Niệm Và Định Nghĩa Khái Niệm Trong Luật

I. Mỗi khái niệm (KN) đều có hai mặt, đó là nội hàm và ngoại diên. Về mặt kết cấu lôgíc, nội hàm là chất, ngoại diên là lượng của KN. Mỗi nội hàm có một ngoại diên tương ứng. Nội hàm của KN là tập hợp những dấu hiệu bản chất của đối tượng được phản ánh trong KN. Do vậy, không phải mọi dấu hiệu của đối tượng đều được phản ánh trong nội hàm.

Trong khoa học pháp lý, nhiều KN được xác định bằng điều luật. Chẳng hạn, nội hàm của KN “tội cướp” được xác định bởi Điều 151 (nay là Điều 133) Bộ luật Hình sự (BLHS), đó là: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác; Làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được; Nhằm chiếm đoạt tài sản. Ngoại diên của KN là tập hợp những đối tượng có cùng nội hàm. Ngoại diên của KN cho biết có bao nhiêu đối tượng khác cùng loại với nó. Ví dụ, ta có KN “vi phạm pháp luật”; vậy tất cả các hiện tượng xảy ra trong thực tế mà thỏa mãn ba dấu hiệu bản chất sau trong nội hàm của KN này đều thuộc ngoại diên của KN ( Hành vi – hành động hoặc không hành động của con người – được biểu hiện ra bên ngoài; Hành vi được thực hiện phải trái pháp luật, tức là trái với các quy định chứa đựng trong các quy phạm pháp luật nào đó; Hành vi trái pháp luật được thực hiện phải chứa đựng lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó). Để biết một đối tượng có thuộc ngoại diên của một KN nào đó không thì phải xem đối tượng có đầy đủ mọi dấu hiệu bản chất của KN không.

Để định hình, lưu giữ những hiểu biết trong óc cũng như để truyền đạt, trao đổi những hiểu biết của mình với người khác, con người phải dùng đến phương tiện của ngôn ngữ là từ thông qua việc trừu tượng hóa, khái quát hóa hiện thực khách quan. Do đó, KN liên hệ hết sức mật thiết với từ. Tuy nhiên, KN và từ không luôn đồng nhất vì: KN về các đối tượng thường do chính bản thân đối tượng quy định; còn từ thì do con người tự quy ước, tự thoả thuận mà ra; ngay trong một hệ thống ngôn ngữ thì một KN có thể được diễn đạt bởi nhiều từ và một từ có thể thể hiện nhiều KN.

Vì những lý do dẫn đến sự dị biệt giữa từ và KN, tránh sự nhầm lẫn, nhiều ngành khoa học đã xây dựng các hệ thống thuật ngữ của mình. Những thuật ngữ này là từ hay nhóm từ đơn nghĩa, tức là chỉ dùng để diễn đạt một KN tương ứng được sử dụng trong ngành khoa học đó. Về mặt kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật, người ta luôn yêu cầu các KN (thuật ngữ) phải được hiểu theo một nghĩa, nhằm tránh tình trạng mỗi người, mỗi nơi hiểu và vận dụng một cách khác nhau. Yêu cầu này được thể hiện rõ trong Điều 5 Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: “Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải đơn giản, dễ hiểu. Đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung, thì phải được định nghĩa trong văn bản”.

Định nghĩa KN là thao tác lôgíc qua đó chỉ rõ ngoại diên của KN được định nghĩa. Ví dụ, ta có định nghĩa: “Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm” (Điều 33 BLHS 1999). Căn cứ vào định nghĩa này, người ta biết được thế nào là tù có thời hạn, đồng thời phân biệt nó về mặt ngoại diên với các loại hình phạt khác mặc dù chúng cũng đều là hình phạt.

1. ĐN theo tập hợp (thông qua loại và hạng) là ĐN trong đó nêu một KN đã biết, gần gũi và có ngoại diên bao chứa đối tượng cần ĐN, sau đó chỉ ra các dấu hiệu bản chất, đặc thù của đối tượng cần được ĐN để phân biệt nó với các đối tượng khác cùng lệ thuộc ngoại diên của KN đã biết ấy. Cấu trúc lôgíc của ĐN này có thể được mô hình hóa thành: A = a + những dấu hiệu riêng của A.

Ví dụ, “Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải bị giam từ ba tháng đến hai mươi năm” (Điều 25 BLHS năm 1985). Để xác định tù có thời hạn là gì, nhà làm luật đưa ra KN hình phạt. Về nguyên tắc, hình phạt là KN đã được biết, đã được định nghĩa rồi (đáng tiếc là trong BLHS 1985 KN này lại không được định nghĩa, mặc dù nó là KN rất cơ bản của Luật hình sự. Trong BLHS 1999 KN này đã được định nghĩa). Hình phạt là KN gần gũi với KN cần định nghĩa. Cụ thể ở đây không nêu là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước vì KN này rộng hơn nhiều so với hình phạt, bao chứa cả hình phạt và trong nhiều ngành luật khác cũng có biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.

Do trong hình phạt có cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong hình phạt chính lại cũng có nhiều loại nên để tách biệt hình phạt được gọi là “tù có thời hạn” với các hình phạt khác, nhà làm luật buộc phải đưa ra dấu hiệu bản chất, đặc trưng, dấu hiệu mà các hình phạt khác không có: buộc người bị kết án phải bị giam từ ba tháng đến hai mươi năm. Trong cách định nghĩa này người định nghĩa chỉ ra một cách gián tiếp các đối tượng nghiên cứu (ngoại diên của KN được định nghĩa) thông qua việc chỉ ra các dấu hiệu bản chất trong nội hàm của KN phản ánh về chúng. Cách định nghĩa này về cơ bản gồm hai bước: (1) Xác định đối tượng thuộc loại nào bằng cách nêu một KN đã biết, gần gũi và có ngoại diên bao chứa đối tượng cần định nghĩa; (2) Chọn trong nội hàm của KN cần định nghĩa một hoặc tập hợp một số dấu hiệu nào đó mà những đối tượng cùng loại khác không có. Đây là cách định nghĩa cơ bản, chuẩn xác, rất khoa học, có tầm khái quát cao, mức độ uyển chuyển trong việc vận dụng vào thực tiễn rất lớn và được dùng phổ biến trong nhiều ngành khoa học. Tuy nhiên, để làm được định nghĩa theo cách này là rất khó khăn; và rất đáng tiếc, trong thực tế không phải mọi KN đều có thể định nghĩa được bằng cách này.

2. Định nghĩa thông qua liệt kê là định nghĩa trong đó liệt kê tất cả đối tượng được KN phản ánh. Cấu trúc lôgíc của định nghĩa này có thể được mô hình hóa thành: A = (a1, a2 …, an). Ví dụ, “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” (Điều 679 Bộ luật Dân sự). Đây là cách định nghĩa nhằm thẳng vào ngoại diên của KN mà không phải gián tiếp thông qua nội hàm để làm bộc lộ ngoại diên như cách định nghĩa trên. Mặc dù cách định nghĩa này khá phổ biến, đơn giản, tiện lợi, khả năng ứng phó nhanh nhưng tính khoa học, tính chặt chẽ và tính khái quát không cao. Trong một số trường hợp, nếu dùng cách định nghĩa theo tập hợp mà không sát đúng với định nghĩa hoặc gây nên những trở ngại nhất định cho hoạt động thực tiễn thì người định nghĩa có thể chấp nhận cách định nghĩa liệt kê, miễn là có thể dùng nó để giải quyết những trường hợp nhất thời, cụ thể nào đó.

Ví dụ khác: Trong Luật Cạnh tranh 2004 tại Điều 39 đã không có một định nghĩa chung về “cạnh tranh không lành mạnh” dưới hình thức tập hợp mà đã dùng lối định nghĩa liệt kê, theo đó liệt kê ra một số hành vi bị cấm, tức bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. Ta biết, cuộc sống nói chung và thương trường nói riêng thì luôn vận động. Nếu ở thời điểm này chỉ có chừng ấy hành vi bị cấm nhưng trong tương lai lại xuất hiện hành vi khác cũng cần bị cấm thì nhà làm luật có đủ sức mãi chạy theo nó để sửa luật, để liệt kê thêm? Và, trong khi hành vi cần bị cấm mới đã xuất hiện mà luật chưa được sửa đổi chắc hẳn sẽ xuất hiện “khoảng trống pháp luật”, tức là không có quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Theo chúng tôi, trong một văn bản pháp luật nói riêng và trong hệ thống pháp luật nói chung mà có quá nhiều định nghĩa dạng liệt kê thì nó cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến hệ quả tất yếu là tình trạng “chết yểu” của nhiều quy phạm pháp luật, nhiều văn bản quy phạm pháp luật – hiệu lực thời gian của chúng quá ngắn ngủi. Ngoài ra, cách định nghĩa liệt kê còn có mặt hạn chế nữa là số đối tượng thuộc B phải không quá nhiều. Ví dụ, người ta không thể định nghĩa số chẵn là các số sau đây: 2,4,6,8,10,12…

Tóm lại, trong hai cách định nghĩa trên xét dưới các góc độ khác nhau thì cách nào cũng có ưu điểm của nó nhưng xét một cách toàn cục thì cách định nghĩa thứ nhất có nhiều lợi thế hơn. Một số trong những lợi thế của cách định nghĩa theo tập hợp so với cách định nghĩa liệt kê là ở chỗ tính khái quát, tính bao hàm, tính dự liệu cao và do đó tính uyển chuyển của nó rất lớn, dẫn tới việc áp dụng nó một cách lâu dài và thuận lợi hơn. Điều đó có nghĩa là, khi người định nghĩa đã đưa ra một định nghĩa theo tập hợp mà chuẩn xác thì dù có phát sinh một đối tượng mới, một hành vi mới người ta vẫn có thể dựa vào định nghĩa này để điều chỉnh nó, miễn là đối tượng mới, hành vi mới… nằm trong ngoại diên của KN đã được định nghĩa. Theo chúng tôi, với những văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng, có tính ổn định lâu dài như Bộ luật, Luật thì nên đưa vào nhiều định nghĩa cách này, còn những văn bản “dưới luật” thì trong những trường hợp không thể khác được vẫn có thể chấp nhận cách định nghĩa liệt kê.

Đến lượt mình, Chính phủ, bằng định nghĩa liệt kê cứ thế liệt kê ra. Làm được như thế này thì luật sẽ ngắn gọn hơn, tránh được hiện tượng “phiên dịch” văn bản tiếng Việt này bằng một văn bản tiếng Việt khác và nhiều phiền toái khác nữa.

2. Định nghĩa không được lòng vòng, nghĩa là chỉ được sử dụng những KN đã biết, đã được định nghĩa để định nghĩa. Vi phạm quy tắc này có thể dẫn đến sai lầm: (1) Định nghĩa vòng quanh, nghĩa là dùng B để định nghĩa A sau đó dùng A để định nghĩa B. Ví dụ, “Bộ máy nhà nước là bộ máy được tạo thành bởi các cơ quan nhà nước còn các cơ quan nhà nước là các bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước”. (2) Định nghĩa luẩn quẩn, nghĩa là dùng chính A để định nghĩa A. Ví dụ, “Chứng cứ buộc tội là chứng cứ khẳng định một hành vi là tội”. Cả hai dạng sai lầm trên đều có đặc điểm chung là trong phần dùng để định nghĩa có chứa ngay KN cần được định nghĩa và nó đều không giúp người ta hiểu gì hơn về KN cần được định nghĩa. Định nghĩa mắc lỗi này thì coi như chưa định nghĩa gì cả.

3. Định nghĩa phải ngắn gọn, nghĩa là không nên nêu những dấu hiệu nào đó mà người ta có thể suy ra từ các dấu hiệu khác, những dấu hiệu mà không có nó người ta vẫn nhận diện được một cách chính xác đối tượng đang được định nghĩa và không có nó người ta vẫn phân biệt được đối tượng được định nghĩa với các đối tượng khác. Ví dụ, nếu cho rằng: “chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt” (Giáo trình Đại học Luật Hà Nội năm 2000, tr.41) do đó coi chịu hình phạt là dấu hiệu bản chất (thuộc tính) của tội phạm thì đó là một sai lầm vì “có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt” cũng có nghĩa là “có thể không phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt”. Như vậy là có thể có mà cũng có thể không ở một tội phạm. Vậy, dấu hiệu này không thể là dấu hiệu bản chất (thuộc tính) vì thuộc tính luôn được hiểu là ” đặc tính vốn có của một sự vật (hiện tượng) nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận thức được sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác “1. Nêu hết các dấu hiệu bản chất của đối tượng cần định nghĩa thì định nghĩa được đưa ra không làm cho người ta nhận thức sai về đối tượng được định nghĩa. Vấn đề là nó không cần thiết. Vừa đủ là tiêu chuẩn tối cần thiết của tư duy khoa học! Tuân thủ quy tắc này, người định nghĩa không những không được đưa vào định nghĩa những dấu hiệu không bản chất mà ngay cả với những dấu hiệu bản chất thì cũng chỉ cần nêu vừa đủ các dấu hiệu nào đó thôi, miễn sao giúp người tiếp cận định nghĩa nhận diện đúng đối tượng được định nghĩa và phân biệt nó với các đối tượng khác. Điều này giúp cho tư duy của họ không bị rối, giúp cho họ tiết kiệm được tư duy, thời gian và trí nhớ. Có thể vì vậy mà người ta gọi định nghĩa khái niệm là khái niệm của khái niệm.

4. Định nghĩa phải chuẩn xác, rõ ràng. Vi phạm quy tắc này thường xảy ra khi người định nghĩa sử dụng câu chữ không chặt chẽ, không bao quát, không rõ ràng, không đúng văn phạm hoặc sử dụng các từ ngữ hoa mỹ, nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ của từ hoặc của câu mà hậu quả của nó là không xác định được nội hàm và loại biệt ngoại diên của KN. Ví dụ: Mua dâm là hành vi giao cấu có trả tiền (Dự thảo Pháp lệnh Phòng chống mại dâm). Vậy, giao cấu nhưng trả bằng các vật khác tiền thì sao? Hay đó không phải là mua dâm. Vì về nguyên tắc, sau khi đã đưa ra định nghĩa thì định nghĩa đó được xem như một đẳng thức mà vế phải được dùng để xác tín vế trái. Do đó, mọi biến động của vế phải, tất yếu kéo theo sự biến động của vế trái. Trong trường hợp vừa nêu, vế phải đã biến động. Có thể nói, dùng từ “trả tiền” ở đây là không chặt, không bao quát.

Chú thích: 1 Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt, tr. 949 SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 2/2005

5. Không nên định nghĩa phủ định. Quy tắc này yêu cầu không nên đưa vào định nghĩa những dấu hiệu mà chúng không có ở đối tượng của KN. Ví dụ, “Quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân không phải là quản lý một xí nghiệp cơ khí”. Định nghĩa này chỉ mới vạch ra sự tách rời của ngoại diên KN “Quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân” và KN “Quản lý một xí nghiệp cơ khí” nhưng chưa nêu lên được những dấu hiệu bản chất của đối tượng cần được định nghĩa và do đó người ta vẫn chưa hiểu được thật sự “Quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân” là gì. “Không phải là quản lý một xí nghiệp cơ khí” thì là quản lý một xí nghiệp dược phẩm, một xí nghiệp may mặc, một xí nghiệp chăn nuôi? Không biết! KN này coi như chưa được định nghĩa. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý thêm là, quy tắc này yêu cầu “không nên” định nghĩa phủ định chứ không phải là không được (nếu sự phủ định đó cho phép giới hạn được ngoại diên và làm rõ được dấu hiệu bản chất của đối tượng cần định nghĩa). Ví dụ, trong khoa học tự nhiên có một số KN cho phép và thậm chí bắt buộc phải định nghĩa theo cách này như ” Khí trơ là khí không tham gia phản ứng hoá học”.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Khái Niệm Luật Tố Tụng Hình Sự trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!