Bạn đang xem bài viết Phân Biệt Giữa Báo Và Tạp Chí được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
haiyenpt29
Uncategorized
Báo và tạp chí là những ấn phẩm thông tin thời sự hoặc thông tin lí luận, khoa học, phổ biến kiến thức về các sự kiện, vấn đề được xuất bản định kỳ, phát hành rộng rãi hoặc ở phạm vi trong xã hội.
1. Sự giống nhau giữa Báo và Tạp chí
– Đểu có chức năng cơ bản là thu thập, xử lí, truyền tải thông tin về tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin và tiếp nhận thông tin của công chúng.
– Đều có cơ quan chủ quản tổ chức, quản lí hoạt động
– Đều được phân thành nhiều loại theo các mức độ khác nhau, như theo lĩnh vực, khu vực, đối tượng phản ánh, đối tượng công chúng…
– Đều có định kỳ phát hành.
– Đều có lượng độc giả nhất định.
– Đều có số lượng phát hành nhất định.
2. Sự khác nhau giữa Báo và Tạp chí.
STT
Sự khác biệt
Báo
Tạp chí
1
Về chức năng thông tin
– Báo chủ yếu là những thông tin phản ánh, mang tính thời sự (kịp thời, chính xác, đầy đủ). Ví dụ như báo nhân dân, báo tuổi trẻ, báo thanh niên…
– Tạp chí chủ yếu là những thông tin lý luận khoa học, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên ngành. Ví dụ như: tạp chí cộng sản, tạp chí hóa học,tạp chí công nghiệp…
2
Về nhiệm vụ thông tin
– Nhiệm vụ thông tin của báo trong mọi thời kỳ là cổ vũ, động viên kịp thời các phong trào quần chúng cách mạng.- Nhiệm vụ cổ động của báo là thông tin tới nhiều người biết các sự kiện đã, đang, sẽ xảy ra trong đời sống xã hội. – Nhiệm vụ của tạp chí chủ yếu là tuyên truyền. Tuyên truyền để nêu vấn đề, phân tích, tổng hợp, nêu mối liên hệ của vấn đề với mục đích nói nhiều ý cho một số người để nhận thức, bàn bạc cùng tập trung giải quyết tốt vấn đề đó với thực tiễn.
3
Về mô hình tòa soạn
– Mô hình tòa soạn báo thường có có cấu tạo các phòng, ban, bộ phận chuyên môn phức tạp, nhằm đáp ứng việc xuất bản báo, nhất là các tờ báo ra mau kì. – Mô hình tòa soạn của các tạp chí gọn nhẹ hơn (ngoại trừ các tạp chí lớn, xuất bản mau kỳ, số trang nhiều…thường tập trung ở những tờ tạp chí chuyên về các vấn đề của xã hội như thể thao, giới tính, mốt thời trang)- Có những tạp chí xuất bản tháng một kỳ cả tòa soạn chỉ cần một phòng (gồm cả tổng biên tập, các BTV, kỹ thuật)
4
Về đối tượng phục vụ
– Đối tượng công chúng thường đa dạng, với nhiều trình độ nhận thức khác nhau. – Đối tượng tập trung theo lĩnh vực chuyên biệt, nhất là các tạp chí thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật.
5
Về nội dung phản ánh
– Là tất cả sự kiện, vấn đề nảy sinh trong xã hội cần được giới thiệu, thông báo, hướng dẫn dư luận kịp thời.- Do dung lượng về thời gian xuất bản, cũng như dung lượng trên mặt báo có hạn nên báo không có điều kiện đi sâu và nghiên cứu lí luận, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học và nghiên cứu phản ánh. – Là các vấn đề sự kiện cần đi sâu nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và đưa ra giải pháp tháo gỡ hoặc phổ biến những khinh nghiệm, học thuật mang tính khoa học chuyên ngành.
6
Về tổ chức nội dung
– Kế hoạch nội dung thường theo định hướng nội dung các sự kiện đã, đang, sẽ xảy ra trong thực tiễn mà tờ báo đó phải thông tin đến công chúng nhanh nhạy, kịp thời, chính xác, đầy đủ.- Kế hoạch nội dung được hoàn thiện trên cơ sở các tác phẩm sáng tạo của phóng viên, cộng tác viên và việc đinh hình các trang, mục trên báo.
– Thường sử dụng phong phú thể loại tác phẩm và chuyên trang, chuyên mục.
– Kế hoạch nội dung theo những vấn đề của hiện thực mà công chúng đang quan tâm, có nhiệm vụ thông tin, đinh hướng, đưa ra giải pháp thích hợp.- Nội dung thường có kết cấu theo dạng thức sau:
Những vấn đè mang tính lí luận, nghiệp vụ khoa học chuyên ngành.
Phổ biến kiến thức kinh nghiệm
Thông tin tin tức khoa học
7
Về đội ngũ sáng tạo báo chí
– Chủ yếu là phóng viên, cộng tác viên tích cực ở các cơ sở. – Chủ yếu là lực lượng cộng tác viên, họ là những nhà khoa học, chuyên môn thông hiểu các vấn đề nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm, phổ biến kiến thức- Biên tập viên là những người biên tập vững về nghiệp vụ chuyên ngành.
8
Về thời gian xuất bản
– Thời gian của báo thường nhanh hơn (đảm bảo tính thời sự). việc xuất bản theo chu kì của hằng ngày hay nhiều kỳ trong tuần, tháng tùy theo yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan báo – Định kỳ phát hành của tạp chí dài hơn báo. Những tạp chí xuất bản mau kì nhất thường là 15 ngày 1 kì. Thường thì các tạp chí xuất bản tháng 1 kì. Cũng có một số tờ cá biệt, xuất bản 2 tháng hoặc mỗi quý 1 số.
9
Về phạm vi phát hành.
– Khả năng phát hành báo có lợi thế-do đối tượng đọc đa dạng. do đó phạm vi phát hành rộng rãi trong nước, quốc tế. – Phát hành ở phạm vi hẹp, nhất là các tạp chí chuyên ngành. Ngoại trừ các tạp chí về các vấn đề xã hội, có khả năng phát hành rộng trong nước và quốc tế, nhưng số này rất ít.
Share this:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Sự Khác Nhau Giữa Báo Và Tạp Chí
Báo và tạp chí đều có một chức năng chung cơ bản là thu thập, xử lý và truyền đưa thông tin về tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội… nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin của quần chúng nhân dân. Song xét về nội dung và đối tượng phục vụ, giữa báo và chí có sự khác biệt nhau.
Báo có nhiều loại như báo viết, báo nói (đài phát thanh), báo hình… Trong các loại báo đó, người ta còn phân ra nhiều loại báo khác nhau tùy theo đối tượng, phương tiện truyền đưa thông tin và cơ quan quản lý báo. Chẳng hạn, đối với báo viết lại có thế chia thành báo Trung ương và báo địa phương. Căn cứ thời gian phát hành báo, người ta còn chia ra thành báo ngày và báo tuần. Nhưng cũng là báo Trung ương, căn cứ vào tính chất, đối tượng phục vụ, cơ quan quản lý báo lại có thể chia thành báo của các ngành, các đoàn thể. Tương tự như vậy, đối với báo nói, báo hình, căn cứ vào tính chất và phạm vi nghiên cứu cũng như đối tượng phục vụ và cơ quan quản lý của báo, người ta cũng phân ra các loại khác nhau.
Tuy nhiên, dù là báo viết, báo nói,… được phân loại chi tiết theo phạm vi, thời gian và đối tượng phục vụ như thế nào thì đặc trưng nổi bật của các loại báo đó là thông tin phản ánh, chủ yếu là thông tin thời sự phải đảm bảo đạt ba yêu cầu sau đây: Kịp thời, chính xác và đầy đủ.
Yêu cầu thông tin kịp thời của báo là nhằm phát huy tác dụng và tính thuyết phục đối với bạn đọc, bạn nghe đài và xem truyền hình. Yêu cầu chính xác có nghĩa là phản ánh đúng thực tế khách quan. Yêu cầu thông tin đầy đủ nghĩa là không thêm bớt tùy tiện, hoặc bỏ sót hiện tượng thuộc đối tượng nghiên cứu.
Do chỗ báo chủ yếu phản ánh thông tin thời sự, nên đối tượng phục vụ của báo thường đa dạng và có phạm vi rộng đối với mọi giai tầng trong xã hội.
Cũng vì vậy, nội dung phản ánh của báo thường là những vấn đề: hiện tượng kinh tế – xã hội mang tính thời sự nóng hổi cần được giới thiệu, thông báo, hướng dẫn dư luận kịp thời. Do đó, độ dài thông tin phản ánh trên báo cũng chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định – nghĩa là nội dung viết để đăng báo, hoặc viết đế đọc trong các buổi phát thanh hay truyền hình chỉ giới hạn trong khuổn khổ cho phép hoặc quy định đăng tải. Do đó, những vấn đề mang tính chất lý luận, tổng kết kinh nghiệm, những công trình nghiên cứu khoa học, báo không có điều kiện thường xuyên đi sâu nghiên cứu phản ánh.
Về chức năng của các loại báo cũng có quan điếm cho ràng báo chủ yếu làm công tác cổ động, khêu gợi vấn đề, do đó chỉ đem lại một ý niệm chung nhất cho nhiều người. Quan niệm như vậy e rằng khổng hoàn chỉnh và trái với đặc trưng phản ánh thông tin thời sự của báo với hàm nghĩa rộng hơn nhiều so với phạm trù cổ động. Bởi vì, ngoài chức năng cổ động, báo còn làm nhiệm vụ tuyên truyền, hướng dẫn dư luận về nhiều vấn đề xã hội mà quần chúng quan tâm.
Nhờ có giao lưu thông tin do báo giới thiệu và phản ánh, con người luôn luôn tiếp cận và nắm bắt thông tin mới nhất, nâng cao hiểu biết, củng cố lòng tin và tự khẳng định mình để hành động theo định hướng và có mục đích rõ ràng.
Còn tạp chí trên thực tế nó cũng là một tờ báo viết, nhưng khác với báo ở chỗ: Tạp chí là cơ quan lý luận, học thuật, khoa học của một tổ chức, đoàn thể nào đó chủ yếu đi sâu nghiên cứu, hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ khoa học về một lĩnh vực nào đó thuộc phạm vi ngành mình, địa phương mình. Định kỳ phát hành của tạp chí thường dài hơn định kỳ phát hành của báo.
Cũng như các loại báo, căn cứ vào đặc trưng phản ánh thông tin của tạp chí, có thể phân loại tạp chí thành hai loại chủ yếu sau đây: tạp chí thông tin ngôn luận và tạp chí chuyên ngành nghiệp vụ.
Phạm vi nghiên cứu của tạp chí thông tin ngôn luận thường là những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội… Đối tượng phục vụ của loại tạp chí này bao gồm số đông các tầng lớp dân cư. Còn tạp chí chuyên ngành nghiệp vụ chủ yếu đi sâu nghiên cứu lý luận nghiệp vụ khoa học thuộc phạm vi hoạt động và chức năng nghiệp vụ chuyên ngành. Do vậy, đối tượng phục vụ thuộc loại này chủ yếu là những người trong ngành.
Cái khó của tạp chí là ngoài việc bảo đảm tính hấp dẫn và thuyết phục đốivới bạn đọc, thì quan trọng hơn là việc xác định đối tượng phục vụ của tạp chí bao gồm những loại bạn đọc nào: là cán bộ nghiên cứu, hay cán bộ quản lý, hoặc cán bộ cơ sở. Trên thực tế có nhiều loại tạp chí chỉ phục vụ chủ yếu cho một loại bạn đọc là cán bộ nghiên cứu có trình độ khoa học nhất định. Nhưng cũng có loại tạp chí đối tượng phục vụ bạn đọc vừa là cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý, vừa là cán bộ chuyên môn thực hành thuộc ngành đó.
– Những vấn đề chung về lý luận, nghiệp vụ, khoa học.
– Thông tin khoa học.
– Tin tức hoạt động.
Trong đó, những vấn đề chung về lý luận, nghiệp vụ, khoa học thường chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu nội dung các bài đăng tải trên tạp chí. Với nội dung đó, các bài viết thuộc các thể loại tạp chí phải thế hiện được tính chất nghiên cứu, phát hiện những qui luật vận động có thể trong từng lĩnh vực thuộc các ngành nghiệp vụ chuyên môn. Ở đây, chức năng tuyên truyền về những vấn đề lý luận cách mạng, lý luận nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật sẽ đem lại cho độc giả nhiều kiến thức mới mẻ với nhiều ý niệm cụ thể, dễ dàng tiếp cận với thực tế, liên hệ, vận dụng trong điều kiện cụ thể của bản thân, đơn vị mình.
Ngoài chức năng tuyên truyền giáo dục (theo nghĩa rộng và sâu sắc của từnày), tạp chí còn cung cấp thông tin cho độc giả những tri thức bằng con đường ngắn nhất, đó là những tri thức về chính trị, tri thức về kinh tế, tri thức và quản lý, tri thức về khoa học kỹ thuật v.v… Trong chức năng tuyên truyền giáo dục, tạp chí phải góp phần giải thích, hoặc phê phán tình hình, hiện tượng nghiên cứu, đồng thời đề cập đến biện pháp xử lý tình hình, hiện tượng nói trên theo những phương pháp nghiên cứu riêng biệt. thể hiện tính chiến đấu và nghiên cứu khoa học của từng loại tạp chí. Chính vì lẽ đó, đặc trưng nổi bật của tạp chí là chức năng thông tin lý luận và nghiên cứu khoa học, là người bình giá kết qủa các công trinh nghiên cứu khoa học áp dụng trong thực tiễn.
Do tính chất chuyên sâu của tạp chí vừa mang tính lý luận, vừa mang tính chiến đấu trong nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, cho nên hình thức biếu hiện của tạp chỉ thường có nhiều chuyên mục hấp dẫn, có điều kiện in đẹp và không hạn chế độ dài của bài viết. Như vậy, nội dung phản ánh thông tin trên tạp chí cũng rất đa dạng và phong phú, phù hợp với điều kiện không gian và thời gian ấn hành tạp chí. Do vậy, tính kịp thời, khẩn trương của thông tin lý luận không đòi hỏi khắt khe như thông tin thời sự. Tuy nhiên tính kịp thời của thông tin lý luận đối với tạp chí đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu giải đáp nhanh những vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra mà bạn đọc quan tâm.
Do tạp chí mang tính chất nghiên cứu, trao đối và hướng dẫn nghiệp vụ, nên các bài viết đăng tải trên tạp chí không nhất thiết phải là những vẫn đề đã chín muồi, hoặc đã được khẳng định khoa học, mà có thể có những bài viết với chủ đích chỉ nhằm “xới vấn đề” hoặc trao đổi mang tính chất học thuật, tham khảo theo những quan điểm khác nhau. Trên cơ sở đó bạn đọc có thể khai thác, hoặc bình giá theo quan điểm riêng về hiện tượng nghiên cứu mà mình quan tâm. Vì lẽ đó, yêu cầu chính xác đốì với một bài viết trên tạp chí cũng khác với yêu cầu chính xác của một bài phản ánh trên báo, hoặc phát thanh trên đài đòi hỏi phải bảo đảm tính khách quan, chân thật. Tương tự như thế, yêu cầu thông tin đầy đủ đối với tạp chí cũng khác với báo là tạp chí có thế lược bỏ các yếu tố cấu thành tổng thể nghiên cứu, mà chỉ đề cập đến một vấn đề cốt yếu thuộc tổng thể nghiên cứu để giới thiệu với bạn đọc.
Ứng với mỗi tạp chí là một loại độc giả. Do đó, các bàì viết phải đáp ứng yêu cầu của độc giả. Nội dung của bài viết phải đảm bảo thiết thực, mang tính khoa học, có sức thuyết phục. Nếu không, tạp chí chỉ còn là một dạng bản tin đơn thuần, chứ không còn là tờ tạp chí với đúng nghĩa và tên gọi của nó là cơ quan lý luận, nghiên cứu, trao đổi và hướng dẫn nghiệp vụ chuyên ngành.
Bùi Khiêm Tagged bãotạp chíGiới Thiệu Tạp Chí Kinh Tế Và Dự Báo Số 36 (753)
Giới thiệu Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 36 (753)
– Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 36/2020 gồm các nội dung sau:
Năm 2014, khái niệm doanh nghiệp xã hội lần đầu tiên được đưa vào Luật Doanh nghiệp. Năm 2016, Chính phủ phê duyệt Đề án quốc gia đầu tiên về hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Đề án 844). Năm 2017, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đưa ra khái niệm và các hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp lý nào đề cập đến loại hình doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tạo tác động (impact startup). Trên thế giới, loại hình impact startup được một số quốc gia sử dụng để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Tại Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội quốc gia giai đoạn 2021-2030 cũng xác định chọn phát triển nhanh và bền vững làm trọng tâm. Vì thế việc nghiên cứu về loại hình impact startup có thể sẽ mở ra hướng tư duy mới, đóng góp cho vận động và thực thi chính sách thành công tại Việt Nam. Thông qua bài viết, “Xây dựng khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tạo tác động (impact startup)”, tác giả Trương Thị Nam Thắng, Phan Hoàng Lan, Vũ Mai Hảo sẽ cung cấp một góc nhìn, một cách tư duy về impact startup.
Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể về kinh tế – xã hội, đặc biệt là đối với kinh tế. Tuy nhiên, hiện tượng suy giảm đà tăng trưởng cùng với những vấn đề về môi trường, xã hội, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặt ra câu hỏi về chất lượng của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tại sao tăng trưởng kinh tế Việt Nam lại suy giảm dần? Điều này là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan? Câu hỏi này cần được tính toán xem xét thực nghiệm và trả lời một cách nghiêm túc để tìm ra nguyên nhân suy giảm đà tăng trưởng và đưa ra những kiến nghị giải pháp phù hợp cho nền kinh tế trong giai đoạn 2021-2030. Bài viết “Các động lực chính tạo ra tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2008-2018”, nhóm tác giả Võ Xuân Hoài, Bùi Thị Hoàng Mai sẽ làm rõ hơn những nội dung này.
Việt Nam là một trong những “người tiêu dùng” lớn nhất thế giới về trái cây và rau củ và trong chế độ ăn của người Việt. Trung bình một người Việt Nam tiêu thụ khoảng 0,9 kg trái cây trong một tháng, tương đương với 10,8 kg/người/năm và lượng trái cây tiêu thụ bình quân có sự cách biệt giữa ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Người dân ở Hà Nội trung bình tiêu thụ 68 kg trái cây/năm và TP. Hồ Chí Minh là 74.6 kg trái cây/năm. Lượng tiêu dùng trái cây phụ thuộc vào mức độ khác nhau về sự phát triển kinh tế, thói quen sống và phạm vi địa lý. Hành vi lựa chọn và tiêu dùng các sản phẩm trái cây chịu ảnh hưởng bởi nhận thức của người mua về chất lượng sản phẩm; đặc biệt là người tiêu dùng rất lo ngại về thực phẩm không an toàn, nên họ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề chất lượng, nguồn gốc của thực phẩm. Thông qua bài viết, “Chất lượng trái cây Việt Nam – Thực trạng và vai trò trong việc lựa chọn của người mua”, nhóm tác giả Phạm Thị Huyền, Bùi Hồng Quý sẽ nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi mua trái cây và đánh giá thực trạng chất lượng trái cây hiện tại ở Việt Nam, đặc biệt là trên quan điểm của người tiêu dùng.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập giữa các khu vực, khi Việt Nam là thành viên của các tổ chức kinh tế thế giới, tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các nước với nhau, thì lĩnh vực vận tải hàng không có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế hội nhập. Thị trường vận tải hàng không của nước ta hiện nay ngoài các hãng hàng không trong nước (Vietnam Airlines, Vietjet Air, Jetstar Pacific, Bamboo Airways, Vasco) đã có hơn 60 hãng hàng không quốc tế, trong đó có những hãng hàng không chuyên vận hàng hóa, như: Lufthansa cargo, DHL Aviation, FedEx, Cargolux, Air Hongkong, Thai Airways cargo, China cargo airlines… Với đặc điểm sản phẩm trong vận tải hàng hóa hàng không thường không có nhiều sự khác biệt, vì thế dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các hãng hàng không với nhau trong việc thu hút và giữ chân khách hàng. Để xác định vị thế trên thị trường và xây dựng hình ảnh trong tâm trí của khách hàng, thì việc nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm đem đến sự hài lòng cho khách hàng trở thành một vấn đề hết sức quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các hãng hàng không. Bài viết, “Vai trò của các yếu tố chất lượng dịch vụ đối với sự hài lòng của khách hàng: Nghiên cứu trường hợp vận tải hàng hóa hàng không ở Việt Nam”, nhóm tác giả Ngô Đức Phước, Trần Quang Phú sẽ đi sâu phân tích nhưng nội dung này.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, các DN sẽ tìm kiếm các công nghệ tiên tiến để đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất và tiêu dùng, mở rộng thêm nhiều thị trường mới và cạnh tranh lành mạnh hơn trên phạm vi toàn cầu. Để tối ưu hóa tiềm năng này, các nhà lãnh đạo và DN trên thế giới cần phải thiết lập một thị trường lao động tinh nhuệ hơn để đối mặt với một kỷ nguyên mới, với nhiều thay đổi và tiến bộ lớn. Các trường đại học và bản thân NLĐ do đó cũng cần cập nhật các thay đổi của thị trường để cung cấp và trau dồi các kỹ năng cần thiết trong bối cảnh mới. Bài viết, “Các kỹ năng cần thiết của người lao động trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0”, nhóm tác giả Nguyễn Minh Thủy, Phạm Xuân Trường, Từ Thúy Anh sẽ tổng hợp và đưa ra một số đề xuất để giúp NLĐ có được những kỹ năng phù hợp với CMCN 4.0 trong sự thay đổi không ngừng của công nghệ.
Cùng với đó, trong số tạp chí kỳ này, Tạp chí trân trọng giới thiệu một số bài viết của ngành kế hoạch và đầu tư các địa phương, như: Hà Nội, Tuyên Quang, Bắc Ninh… Ngoài ra, Tạp chí còn có nhiều bài viết của các chuyên gia, nhà khoa học phân tích các vấn đề nổi bật trong thời gian qua sẽ đem đến cho bạn đọc thông tin tham khảo hữu ích./.
MỤC LỤC
Trương Thị Nam Thắng, Phan Hoàng Lan, Vũ Mai Hảo: Xây dựng khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tạo tác động (impact startup)
Võ Xuân Hoài, Bùi Thị Hoàng Mai: Các động lực chính tạo ra tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2008-2018
Đỗ Đình Thanh: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng thương mại của khách hàng tại TP. Hồ Chí Minh
Lê Thị Yên: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng về chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế của các bệnh viện công tại tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Huyền Trang: Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua hàng thời trang trực tuyến thông qua Facebook của người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh
Trương Linh Thương, Lê Thị Thương: Quản lý nguồn nhân lực – Nghiên cứu trường hợp Bệnh viện Y học cổ truyền, Bộ Công an
Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Võ Nhật Minh Anh: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của bệnh nhân về chất lượng dịch vụ điều trị nội trú tại Trung tâm Y tế huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Thị Bảo Ngọc, Nguyễn Thanh Hùng: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua sắm trực tuyến mỹ phẩm của người tiêu dùng TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
Phạm Thị Huyền, Bùi Hồng Quý: Chất lượng trái cây Việt Nam – Thực trạng và vai trò trong việc lựa chọn của người mua
Huỳnh Quốc Tuấn: Mối quan hệ giữa Hình ảnh điểm đến, Sự hài lòng và Ý định quay trở lại của du khách nội địa đến Đồng Tháp
Trương Đức Nga, Nguyễn Thị Hải Uyên: Đánh giá chất lượng dịch vụ internet cáp quang VNPT TP. Hồ Chí Minh
Mai Thị Hồng Duyên, Nguyễn Thị Kim Anh: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự gắn bó của cán bộ nhân viên với khách sạn Mường Thanh Luxury Nha Trang
Châu Hoài Bão, Lê Trần Thanh Nhàn: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng trong công việc của thực tập sinh tại Công ty Cổ phần Giao nhận và Vận chuyển In Do Trần
Trịnh Thị Nguyệt Hà, Phạm Văn Tài: Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kê khai thuế của các doanh nghiệp tại huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang
Ngô Đức Phước, Trần Quang Phú: Vai trò của các yếu tố chất lượng dịch vụ đối với sự hài lòng của khách hàng: Nghiên cứu trường hợp vận tải hàng hóa hàng không ở Việt Nam
Nguyễn Thị Trâm Anh, Trần Diệp Trùng Dương: Tiếp cận tín dụng của các DNNVV: Nghiên cứu tại TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
Bùi Thị Việt Hà: Các nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của người lao động tại Công ty TNHH Foremart Việt Nam
Đào Thị Mẫu Đơn: Thực trạng ứng dụng mô hình bán lẻ điện tử của các doanh nghiệp may nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội
Nguyễn Minh Thủy, Phạm Xuân Trường, Từ Thúy Anh: Các kỹ năng cần thiết của người lao động trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0
Phước Minh Hiệp, Võ Thị Kim Oanh: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua quần áo may sẵn trực tuyến của người tiêu dùng trên địa bàn TP. Bến Tre
Dương Thị Thanh Hiền: Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tập trực tuyến của học viên đang học tại Trường Đại học Duy Tân
Bùi Thanh Hà: Tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động vùng Tây Bắc
Diệp Thanh Tùng, Trần Hoàng Bảo Ngọc: Hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi tôm tại thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh
Ngô Thị Hồng Nhung: Nghiên cứu các mô hình hành vi trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Phan Đình Quyết, Nguyễn Hoàng Việt: Nghiên cứu lý thuyết năng lực cung ứng dịch vụ của các doanh nghiệp logistics
Đào Cẩm Thủy: Xây dựng nhân hiệu trong kỷ nguyên số
Hoàng Thị Thùy Dương: Nâng cao sự gắn kết nhân viên với tổ chức trong các doanh nghiệp sau M&A – Kinh nghiệm của Ngân hàng Shinhan
Nguyễn Thị Hường, Trần Phước, Tăng Thị Thanh Thủy: Các nhân tố ảnh hưởng đến thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong các công ty cổ phần đại chúng tại Việt Nam
Hồ Thị Châu, Nguyễn Trường Sơn: Đánh giá thực trạng phát triển bền vững du lịch Khánh Hòa theo góc độ kinh tế
Trần Thị Thu Hải, Nguyễn Ngọc Quý: Ảnh hưởng của môi trường vật lý tới văn hóa doanh nghiệp – Tình huống nghiên cứu tại Công ty TNHH Tư vấn và Xây dựng Đại học Giao thông vận tải
IN THIS ISSUE
Truong Thi Nam Thang, Phan Hoang Lan, Vu Mai Hao: Formulate the concept of impact startup
Vo Xuan Hoai, Bui Thi Hoang Mai: The main drivers of Vietnam’s GDP growth in the period 2008-2018
Do Dinh Thanh: Determinants of customers’ decisions to choose commercial banks in Ho Chi Minh City
Le Thi Yen: Determinants of satisfaction with quality of medical examination and treatment services using health insurance in Tra Vinh province-based public hospitals
Nguyen Van Tien, Nguyen Huyen Trang: Research on factors affecting Ho Chi Minh City-based consumers’ intention of buying clothes online through Facebook
Truong Linh Thuong, Le Thi Thuong: Human resource management – Case study of Traditional Medicine Hospital under Ministry of Public Security
Nguyen Thi Hong Hanh, Vo Nhat Minh Anh: Influential factors on patients’ satisfaction with quality of inpatient care at Giong Rieng district’s Medical Center, Kien Giang province
Nguyen Thi Bao Ngoc, Nguyen Thanh Hung: Factors impacting intention of buying cosmetics online of consumers in Rach Gia, Kien Giang province
Pham Thi Huyen, Bui Hong Quy: Quality of Vietnamese fruits – Current situation and the role in buyer’s choice
Huynh Quoc Tuan: The relationship among Destination image, Satisfaction and Revisit intention of domestic visitors to Dong Thap province
Truong Duc Nga, Nguyen Thi Hai Uyen: Assess quality of fiber-optic internet service of VNPT Ho Chi Minh City
Mai Thi Hong Duyen, Nguyen Thi Kim Anh: Factors affecting staff’s commitment to Muong Thanh Luxury Nha Trang hotel
Chau Hoai Bao, Le Tran Thanh Nhan: Factors affecting job satisfaction of interns at Indo Trans Logistics Corporation
Trinh Thi Nguyet Ha, Pham Van Tai: Determinants of the risk of tax declaration in enterprises in Giang Thanh district, Kien Giang province
Ngo Duc Phuoc, Tran Quang Phu: The role of components of service quality in customer satisfaction: The case of air freight sector in Vietnam
Nguyen Thi Tram Anh, Tran Diep Trung Duong: Credit access of SMEs: The case study of Nha Trang city, Khanh Hoa province
Bui Thi Viet Ha: Factors influencing work motivation of employees at Foremart Vietnam Co., Ltd
Dao Thi Mau Don: Application of e-tailing in Hanoi-based garment SMEs
Nguyen Minh Thuy, Pham Xuan Truong, Tu Thuy Anh: Essential skills for workers in the context of the Fourth Industrial Revolution
Phuoc Minh Hiep, Vo Thi Kim Oanh: Factors influencing consumers’ decision to buy ready-to-wear clothes online in Ben Tre city
Duong Thi Thanh Hien: Determinants of the need for E-learning of students at Duy Tan University
Bui Thanh Ha: Impact of vocational training on the income of workers in the Northwest region
Diep Thanh Tung, Tran Hoang Bao Ngoc: Economic efficiency of shrimp farming models in Duyen Hai town, Tra Vinh province
Ngo Thi Hong Nhung: Research on behavioral theories about road traffic field
Phan Dinh Quyet, Nguyen Hoang Viet: Literature review on service delivery capacity of logistics enterprises
Dao Cam Thuy: Building personal brand in the digital age
Hoang Thi Thuy Duong: Improving employees’ commitment to with businesses after M&A – Experience of Shinhan Bank
Nguyen Thi Huong, Tran Phuoc, Tang Thi Thanh Thuy: Factors influencing the establishment of internal audit department at public joint stock companies in Vietnam
Ho Thi Chau, Nguyen Truong Son: Assessing the reality of sustainable tourism development in Khanh Hoa from economic perspective
Tran Thi Thu Hai, Nguyen Ngoc Quy: Impact of the physical environment on corporate culture – Case study of Consultancy and Construction Limited company of University of Transport and Communication s
Tạp Chí Khoa Học Và Công Nghệ
THỰC TRẠNG VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TIẾNG ANH BẬC TIỂU HỌC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
ENGLISH TEACHING METHODS AT THE PRIMARY SCHOOL LEVEL IN DANANG CITYĐăng tại: Số 12(61), quyển 3; Trang: 8-14
Hiện nay tại các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giáo viên dạy tiếng Anh đã và đang áp dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm thích nghi với điều kiện môi trường học tập. Tuy nhiên, ở nhiểu trường giáo viên vẫn sử dụng một số phương pháp dạy và học chưa thật sự phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học. Để tìm hiểu bức tranh về phương pháp giảng dạy tiếng Anh ở bậc tiểu học, đề tài thực hiện khảo sát thực trạng dạy và học tiếng Anh bậc tiểu học ở một số trường trong thành phố Đà Nẵng nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết hiện nay của việc giảng dạy tiếng Anh như là một môn học bắt buộc ở bậc tiểu học trên quy mô toàn quốc, trong đó Đà Nẵng là một đơn vị thí điểm. Đối tượng khảo sát gồm giáo viên dạy tiếng Anh và học sinh học tiếng Anh lớp 3, 4, 5 bậc tiểu học học tại địa phương đang theo học chương trình tiếng Anh của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Từ khóa: Phương pháp dạy học tiếng Anh; Học sinh tiểu học; Giáo viên tiếng Anh tiểu học; Hoạt động day; Hoạt động học; Ngữ liệu bài học
There has been a wide range of methods of teaching English to young learners being used in primary schools in Danang City to best suit the learning conditions. However, some methods and techniques used by the primary school teachers of English in these schools are not suitable to pupils at the young age. In other words, they are not child-friendly enough. Accordingly, this research has been conducted to find out what methods of teaching are being used and how they are used in language classrooms where English will become a compulsory subject at the primary school level throughout the country and in Danang, one of the piloted cities. The subjects of the research are concerned with the primary school teachers of English and pupils learning English at grades 3, 4, and 5 at the local schools, who are using the English teaching textbooks prepared in accordance with the English education program proposed by the Ministry of Education and Training.
Key words: Methods of teaching English; Primary school pupils; primary school teachers of English; Teaching activities; Learning activities; Language points
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Biệt Giữa Báo Và Tạp Chí trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!