Xu Hướng 6/2023 # Một Số Phương Pháp Tư Duy Sáng Tạo Và Cách Thức Áp Dụng Vào Giảng Dạy # Top 7 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Một Số Phương Pháp Tư Duy Sáng Tạo Và Cách Thức Áp Dụng Vào Giảng Dạy # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Một Số Phương Pháp Tư Duy Sáng Tạo Và Cách Thức Áp Dụng Vào Giảng Dạy được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Phương pháp” là “Cách thức nhận thức, nghiên cứu hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội” [tr.793]. Còn “Tư duy” là “Giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý” [tr.1070].

Lịch sử loài người đã ghi nhận những thành tựu đặc biệt quan trọng được xuất phát bởi những phương pháp tư duy sáng tạo, khoa học, như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, trừu tượng và cụ thể hóa đã được các nhà triết học và sử dụng trong thời kỳ cổ đại và trung đại. Nhưng việc mô tả, đánh giá về từng phương pháp được cho là rời rạc và thiếu thống nhất.

Đến năm , việc Alex Osborn phát minh ra phương pháp tư duy sáng tạo Brainstorming (Tập kích não) đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như: tâm lý học, y học… Từ đó, nhân loại đã chứng kiến sự ra đời nhiều phương pháp tư duy sáng tạo khác nhau với những dấu ấn đậm nét trong thành công của các cá nhân, tổ chức ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.

Trong thời đại Cách mạng 4.0 thì phương pháp tư duy sáng tạo rất được coi trọng, con người có thể tạo ra những “Nhà máy thông minh – Smart factory” trên nền tảng công nghệ số với Hệ thống không gian mạng thực – ảo (cyber physical system), Internert Vạn vật (Internet of Things – IoT), Điện toán đám mây (Cloud computing) và Điện toán nhận thức (Cognitive computing), đặc biệt với sự xuất hiện, phát triển của Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) có thể chiếm lĩnh thế mạnh ở một số lĩnh vực so với con người.

Đến nay, nhận thức về phương pháp tư duy có nhiều quan điểm khác nhau nhằm giải thích nội hàm của khái niệm này. Tuy nhiên, trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam lại ít có chương trình đào tạo nào đề cập đến vấn đề trên. Mặc dù, mục tiêu của hệ đào tạo đại học là đào tạo về phương pháp tư duy làm việc, hướng sinh viên tìm tòi, sáng tạo trên nền tảng những tri thức (về chính trị, về kiến thức cơ sở ngành và kiến thức chuyên ngành) được trang bị trong nhà trường nhằm giải quyết những nhiệm vụ, công việc thực tế sau khi tốt nghiệp.

Trong phạm vi của bài, tác giả xin giới thiệu một số phương pháp tư duy sáng tạo được áp dụng phổ biến tại các cơ sở giáo dục đại học trong và ngoài nước:

Một là, phương pháp Brainstorming (Tập kích não):

Đây là một phương pháp dùng để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này thực hiện bằng cách tập trung trên một vấn đề và rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho vấn đề đó. Các quan điểm về vấn đề trước hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng nhiều, càng đủ càng tốt. Chúng có thể rất rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn đề. Trong Brainstorming thì vấn đề được đào bới từ nhiều khía cạnh và nhiều cách nhìn khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm và đánh giá. Phương pháp này có thể tiến hành bởi từ một đến nhiều người. Số lượng người tham gia càng nhiều sẽ càng giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn diện hơn nhờ vào nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, khả năng khác nhau của mỗi cá nhân.

Hai là, phương pháp Mindmap (Bản đồ tư duy):

Mindmap là phương pháp được đưa ra như một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính thì não bộ con người còn có khả năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não. Mindmap là một phương pháp trình bày ý tưởng bằng hình ảnh, giúp não bộ phát huy tối đa khả năng ghi nhớ, giúp người tư duy tìm ra phương pháp hữu hiệu nhất để giải quyết vấn đề một cách tối ưu.

là phương pháp được Tiến sĩ Edward de Bono phát minh vào năm 1980. Đến năm 1985, Tiến sĩ Edward de Bono đã mô tả chi tiết trong cuốn sách “” do ông làm tác giả. Phương pháp Six Thinking Hats là một phương pháp mạnh mẽ và độc đáo, nhằm hướng mọi người cùng tập trung vào vấn đề từ cùng một góc nhìn, do đó sẽ triệt tiêu hoàn toàn các tranh cãi xuất phát từ các góc nhìn khác nhau. Bên cạnh đó, giúp các cá nhân có được nhiều cái nhìn về một đối tượng mà những cái nhìn này sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy được. Đây là một khuôn mẫu cho sự suy nghĩ và nó có thể kết hợp thành lối suy nghĩ định hướng. Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có chỗ đứng riêng của nó nhưng các phê phán đó sẽ không được phép thống trị như là thường thấy ở lối suy nghĩ thông thường.

Ngoài những phương pháp tư duy sáng tạo có tính phổ biến như trên, các lĩnh vực khoa học, xã hội khác nhau còn phát triển, áp dụng nhiều phương pháp khác nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực cá nhân và hiệu quả trong học tập, lao động.

2. Sự cần thiết và cách thức vận dụng phương pháp tư duy sáng tạo vào giảng dạy và học tập trong đào tạo đại học tại Học viện Cảnh sát nhân dân

Học viện Cảnh sát nhân dân được xây dựng, phát triển trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu của Bộ Công an và tiến tới là cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của quốc gia. Với hệ thống nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ sở vật chất hiện đại, Học viện Cảnh sát nhân dân đã và đang đảm trách nhiệm vụ đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực với các hệ học tập trung và không tập trung thuộc các trình độ đại học và sau đại học, đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

“Sản phẩm” của quá trình đào tạo tại Học viện Cảnh sát nhân dân là những sĩ quan Cảnh sát được trang bị đầy đủ tri thức, kỹ năng về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ và ngoại ngữ, tin học cùng những kỹ năng mềm khác thuộc các tiêu chí chuẩn đầu ra cho học viên của Học viện.

Để trở thành những sĩ quan Cảnh sát tương lai, học viên của Học viện Cảnh sát nhân dân cần có những phương pháp tư duy phù hợp để phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập các môn học thuộc chương trình đào tạo và tiến tới là phục vụ cho nhiệm vụ công tác và chiến đấu tại Công an các đơn vị, địa phương.

Nguyên nhân của những hạn chế trên có thể xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau. Nhưng trong đó, việc học viên lựa chọn phương pháp tư duy, học tập cho từng môn học còn chưa hợp lý, thậm chí nhiều học viên còn sử dụng phương pháp truyền thống là học “thuộc lòng” những nội dung môn học. Chính nguyên nhân đó là “rào cản” lớn nhất cho việc tìm kiếm phương pháp tư duy phù hợp.

Ngoài ra, những hạn chế của chính giảng viên cũng là một nguyên nhân trực tiếp. Đánh giá cho thấy, nhiều giảng viên còn đơn thuần sử dụng các phương pháp giảng dạy truyền thống, như: Thuyết trình, phát vấn mà không chú trọng sử dụng các phương pháp sư phạm tích cực theo hướng lấy người học làm trung tâm, giúp người học “biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo”.

Trên cơ sở mục tiêu cụ thể của giáo dục đại học đến năm 2023 (Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2023 ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ) là “Nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội; đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động…”. Trong phạm vi của bài viết, tác giả trình bày cách thức vận dụng những phương pháp tư duy sáng tạo đã nêu ở trên vào quá trình giảng dạy – học tập, trong đào tạo đại học tại Học viện Cảnh sát nhân dân.

– Thứ nhất, cách thức vận dụng phương pháp Brainstorming (Tập kích não)

* Giảng viên trong buổi học cần đưa ra những khái niệm một cách thật rõ ràng. Đồng thời xác định rõ học viên cần đạt được các mục tiêu, yêu cầu nào trong một đáp án. Việc làm này giúp vấn đề, câu hỏi đưa ra sẽ được cô lập hóa với môi trường xung quanh và các thông tin khác.

* Tập trung vào vấn đề, câu hỏi, tình huống. Tránh các ý kiến hay các điều kiện bên ngoài có thể đánh lạc hướng buổi học. Trong giai đoạn này, giảng viên cần thu thập tất cả các ý kiến của học viên, thường có thể viết lên giấy hoặc bảng.

* Khuyến khích học viên có tinh thần tích cực, chủ động. Mỗi học viên trong lớp học đều phải cố gắng đóng góp và phát triển các ý kiến.

* Học viên cần đưa ra càng nhiều ý kiến càng tốt. Các ý kiến cần thể hiện mọi mặt của vấn đề, kể cả những ý kiến không thực tiễn hay ý kiến khác lạ.

Không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh giá hay phê bình vào ý kiến hay giải đáp của thành viên khác trong nhóm.

Xác định rằng không có câu trả lời nào là sai.

Thu thập lại tất cả câu trả lời ngoại trừ các câu trả lời bị lặp lại.

Trưởng nhóm chỉ định hay lựa chọn thành viên chia sẻ ý kiến trả lời (thậm chí là những ý kiến rời rạc).

Người thư ký phải viết tất cả các câu trả lời, nếu có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết lên bảng).

Tìm kiếm những câu trả lời có ý trùng lặp hay tương tự.

Nhóm các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay yêu cầu nghiệp vụ.

Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp.

Sau khi đã xác định được danh sách các ý kiến, hãy tranh luận thêm về câu trả lời chung.

Thứ hai, cách thức vận dụng phương pháp Mindmap

Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy – học các môn học công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân, phương phápMindmap (Bản đồ tư duy) có thể phát huy tối đa khả năng tư duy sáng tạo cho học viên. Từ một vấn đề hoặc từ khóa, học viên có thể phát triển thành nhiều vấn đề khác nhau, có giá trị quan trọng trong việc làm rõ các nội dung môn học và các kiến thức môn học khác.

Quá trình vận dụng phương pháp Bản đồ tư duy cần chú ý những nguyên tắc:

* Không nên dừng suy nghĩ lại quá lâu mà hãy viết liên tục để duy trì sự liên kết giữa các suy nghĩ.

* Không cần tẩy xóa, sửa chữa.

* Viết tất cả những gì suy nghĩ mà không lo lắng đến sự đúng sai của ý kiến.

* Sơ đồ tư duy được viết, vẽ và đọc theo hướng bắt nguồn từ trung tâm di chuyển ra phía ngoài và di chuyển theo chiều kim đồng hồ. Các từ ngữ sẽ nằm ở bên trái sơ đồ và được đọc từ phải qua trái.

Do Bản đồ tư duy được tạo thành bởi hầu hết là các từ khóa (keywords) và bằng những từ khóa có thể giúp người học nắm bắt được cơ bản các nội dung của môn học hoặc bài học. Ví dụ: trong bài Công tác sưu tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân, các từ khóa cần được xác định như: điều kiện, khả năng; biểu hiện nghi vấn; loại A, loại B…

Các tiêu đề phụ nên được viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh để làm nổi bật và nên gắn liền với trung tâm. Tiêu đề phụ nên vẽ theo hướng chéo góc chứ không nên theo hướng nắm ngang để có thể tỏa ra một cách tối đa.

Giảng viên hoặc trưởng nhóm có thể vẽ nối tiếp nhánh cấp 2 vào nhánh cấp 1, nhánh cấp 3 vào nhánh cấp 2… để tạo ra sự liên kết tư duy. Ở các nhánh này, người vẽ nên vẽ nhiều nhánh cong hơn đường thẳng, để tạo sự mềm mại, dễ nhớ. Đồng thời, người vẽ nên sử dụng các từ khóa và hình ảnh ở mỗi nhánh, nhưng mỗi nhánh nên dùng một từ khóa khác nhau. Ngoài ra có thể sử dụng các biểu tượng hoặc cách viết tắt để tiết kiệm không gian và thời gian. Tất cả các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm và cùng một màu (nếu có thể).

Bước này nên bổ sung thêm nhiều hình ảnh để giúp các ý được nhấn mạnh tầm quan trọng và giúp cho người học dễ hình dung, dễ nhớ hơn, bởi não bộ có khả năng tiếp thu hình ảnh cao hơn chữ viết.

Thứ ba, cách thức vận dụng phương pháp Six Thinking Hats (Sáu chiếc mũ) ​

* Mũ đỏ (Intuitive): mang hình ảnh của lửa đang cháy trong lò, sự ấm áp. Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ đỏ, chúng ta chỉ cần đưa ra các cảm giác, cảm xúc, trực giác, những ý kiến không có chứng minh hay giải thích, lí lẽ của mình về vấn đề đang giải quyết. Một số câu hỏi có thể sử dụng: Cảm giác ngay lúc này là gì? Trực giác đang mách bảo điều gì? Thích hay không thích vấn đề này?

* Mũ vàng (Positive): mang hình ảnh của ánh nắng mặt trời, sự lạc quan, các giá trị, các lợi ích… Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ vàng, sinh viên sẽ đưa ra các ý kiến lạc quan, có logic, các mặt tích cực, các lợi ích của vấn đề, mức độ khả thi của phương án. Một số câu hỏi có thể sử dụng: Những thuận lợi khi tiến hành phương án này là gì? Đâu là mặt tích cực của vấn đề này? Liệu vấn đề này có khả năng thực hiện được không?

* Mũ đen (Negative): mang hình ảnh của đêm tối, đất bùn. Người đội mũ đen sẽ liên tưởng đến các điểm yếu, các lỗi, sự bất hợp lý, sự thất bại, sự phản đối, chần chừ, thái đội bi quan. Một số câu hỏi có thể sử dụng: Những rắc rối, nguy hiểm nào có thể xảy ra? Những khó khăn nào có thể phát sinh khi tiến hành phương án này? Những nguy cơ rủi ro nào đang tiềm ẩn?

Mũ xanh lá cây: Các thành viên của nhóm này cần nêu ra các ý kiến làm sao để giải quyết vấn đề. Các giải pháp sáng tạo, các phương pháp tiến hành, các kế hoạch thực hiện cần được đề cập một cách tối đa.

Mũ vàng: Các thành viên của nhóm này sẽ đánh giá tính khả thi của các phương án, giải pháp mà nhóm mũ màu xanh lá cây đã nêu. Đồng thời phân tích về những thuận lợi khi lựa chọn phương án, giải pháp đó.

Mũ đen: Các thành viên của nhóm này cần đánh giá những yếu tố rủi ro, bất lợi trong các phương án, giải pháp mà nhóm mũ xanh lá cây đưa ra và phải chỉ ra được tại sao các phương án, giải pháp đó không thích hợp khi giải quyết các vấn đề, tình huống nghiệp vụ với những cơ sở lập luận có tính thuyết phục.

Những nội dung trên có tính chất tham khảo, tác giả xin được nêu để các nhà khoa học, giảng viên và chuyên gia đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện và vận dụng có hiệu quả vào quá trình đào tạo đại học tại Học viện Cảnh sát nhân dân.

1. https://www.mindtools.com/

4. Alan Williams, 21 Brainstorming Techniques That Work , BookBaby, 2014

5. Tony Buzan, Mind Map Mastery: The Complete Guide to Learning and Using the Most Powerful Thinking Tool in the Universe, Watkins, 2023

Phương Pháp Dạy Toán Lớp 2 Giúp Bé Phát Triển Tư Duy Sáng Tạo

Để cùng con học Toán, trước hết bạn phải nắm bắt được chương trình Toán lớp 2 có điểm gì khác biệt so với lớp 1. Từ lớp 1 đến lớp 2 là một khoảng cách kiến thức khá rộng đối với các bạn nhỏ. Một số học sinh có kết quả học tập tương đối tốt ở lớp 1 nhưng nếu chưa quen với khối lượng kiến thức lớp 2 có thể bị chững lại.

Phương pháp dạy Toán lớp 2 tốt nhất là phụ huynh nên chủ động tham khảo những nội dung cơ bản trong năm học này, đưa ra định hướng giúp con học Toán dễ dàng, nhẹ nhàng và không áp lực.

Phương pháp dạy Toán lớp 2 cần bám sát vào chương trình học chính thức

Cụ thể ở lớp 1, bé mới làm quen với các phép cộng trừ và đề bài đơn giản thì lên lớp 2 bé sẽ biết về phép nhân chia, chu vi các hình cùng nhiều dạng bài mới mẻ, đề bài dài và phức tạp hơn.

Đặc biệt bé sẽ phải học cách giải Toán với lời văn chi tiết. Sự thay đổi này có thể mang lại tâm trạng thích thú khi được tiếp cận với nhiều điều mới, tuy nhiên cũng có thể khiến bé cảm thấy môn Toán khó hiểu, dễ phát sinh tâm lý ngại học Toán.

Chương trình Toán lớp 2 hiện nay bao gồm các nội dung chính như sau:

Ôn tập và củng cố kiến thức Toán lớp 1

Phép cộng trừ có nhớ trong phạm vi dưới 100

Phép nhân, phép chia

Các số trong phạm vi 1000

Đơn vị đo lường độ dài, khối lượng, thời gian, tiền tệ

Tính chu vi tam giác, tứ giác

Cách dạy trẻ học Toán lớp 2 để phụ huynh hướng dẫn con học tại nhà Hướng dẫn con đọc và hiểu đúng đề bài

Các bài Toán lớp 2 bắt đầu đa dạng hơn về hình thức, đề bài cũng phức tạp hơn. Trong khi đó nhiều bạn học sinh ở lứa tuổi này lại hơi nhanh nhảu, đôi khi không hiểu hoặc hiểu sai ý đề bài. Để có phương pháp dạy Toán lớp 2 tốt nhất, b ố mẹ nên nhấn mạnh với con rằng đọc đề và hiểu đúng đề bài là kĩ năng không thể thiếu để giải Toán đúng và nhanh chóng.

Sau khi con đọc đề, bạn cần hỏi con 2 điều, điều thứ nhất là con có những thông tin gì và điều thứ hai là con cần phải tìm điều gì. Từ đó trẻ sẽ dần biết cách loại bỏ những thông tin không cần thiết để tập trung vào giải Toán.

Dạy con trình bày bài Toán mạch lạc

Bố mẹ hãy kiểm tra bài học, sách vở của con hàng ngày để biết con trình bày Toán ra sao, cần sửa điều gì. Ngoài ra hãy hỏi ý kiến của con về một bài Toán: con thấy bài này có khó không, con định làm như thế nào? Những câu hỏi như vậy giúp bé tự định hình ra các bước giải, học cách trình bày quan điểm bằng lời nói.

Phương pháp dạy Toán lớp 2 không chỉ tập trung vào kiến thức mà còn cải thiện cách trình bày

Bồi dưỡng kiến thức theo từng dạng bài

Làm bài tập theo dạng, theo nhóm kiến thức là một phương pháp dạy Toán lớp 2 giúp bé tư duy liền mạch, ôn tập kiến thức hiệu quả hơn. Những dạng Toán thường gặp ở lớp 2 đó là:

Thực hiện phép tính cộng trừ nhân chia

Tìm x từ các điều kiện cho trước

Tìm số tự nhiên, số bé nhất, số lớn nhất

Bài Toán có lời văn để tìm số hạng, số bị trừ, thừa số…

Chuyển đổi, so sánh độ dài, khối lượng

Nhận biết khái niệm hình học, tính chu vi

Luôn nhắc con kiểm tra bài, không làm ẩu

Nhiều trẻ làm Toán nhanh nhưng không cẩn thận, thường làm sai hoặc trình bày rất ẩu. Lúc này bố mẹ hãy nhắc nhở con 3 điều: đọc kĩ đề bài, nháp trước khi điền kết quả vào giấy và kiểm tra lại kết quả lần cuối. Việc này sẽ hình thành tính cẩn trọng, khéo léo cho con. Nếu con làm sai mà chưa nhận ra được sai ở đâu, hãy chỉ cho con và yêu cầu con làm lại bài tập.

Khuyến khích con đưa ra cách làm khác

Khi con đã nắm được các bước giải Toán chuẩn, đúng theo cách làm trên lớp, bạn có thể hỏi con có cách làm nào khác không. Phụ huynh cần khuyến khích con tìm ra các cách giải mới, có thể không nhanh hơn cách làm thông thường nhưng miễn là tìm ra đáp án đúng. Đây chính là cách để kích thích sự sáng tạo – điều mà nhiều bạn nhỏ tiểu học đang thiếu.

Cùng con đọc sách Toán, học mà chơi, chơi mà học

Lứa tuổi từ 6 đến 10 rất hiếu kì trước những điều mới mẻ nhưng không kiên nhẫn. Bởi vậy việc học ở lớp, trong một môi trường quá quen thuộc dễ khiến các em cảm thấy nhàm chán.

Phụ huynh nên đồng hành cùng con, khuyến khích con bằng những cách tiếp cận môn Toán mới mẻ hơn như là đọc sách tham khảo, chơi các trò chơi Toán học, xem video dạy cách tính mẹo… Bên cạnh đó các bậc phụ huynh có thể tìm kiếm một số cuốn sách tham khảo tổng hợp kiến thức Toán lớp 2, tập trung vào Toán phát triển năng lực lớp 2 để bồi dưỡng cho bé. Không chỉ mang đến những kiến thức Toán cơ bản, những cuốn sách này còn rất hữu ích trong việc phát triển tư duy sáng tạo, nuôi dưỡng niềm yêu thích môn Toán.

Phụ huynh sẽ tìm được phương pháp dạy Toán lớp 2 phù hợp từ những cuốn sách tham khảo chất lượng

Khơi Nguồn Sáng Tạo Toán Học Lớp 2 là một cuốn sách rất phù hợp dành cho các phụ huynh đang tìm kiếm cách dạy trẻ học Toán lớp 2. Thông qua những bài Toán từ cơ bản đến nâng cao, sáng tạo, cuốn sách mang đến phương pháp dạy Toán lớp 2 mới mẻ nhưng vẫn bám sát chương trình đổi mới của Bộ GD và ĐT.

Phương Pháp Reggio Emilia: Cơ Hội Cho Trẻ Tư Duy Sáng Tạo

Trong thời gian gần đây, phương pháp Reggio Emilia đang được rất nhiều bố mẹ Việt quan tâm bởi những lợi ích mà phương pháp này mang lại. Tuy nhiên, phương pháp này khá mới và ít trường mầm non áp dụng nên tài liệu về phương pháp Reggio Emilia chưa có nhiều.

Phương pháp Reggio Emilia là gì?

Sau thế chiến thứ hai, nước Ý chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chiến tranh thứ hai nên cần nguồn lực để xây dựng lại xã hội. Chính phủ nước này nhận thấy rằng là giáo dục chính là nền tảng để phát triển đất nước nên có rất nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển của các phương pháp tiên tiến. Phương pháp giáo dục Reggio Emilia được hình thành trong giai đoạn đó.

Được sáng lập và phát triển bởi nhà tâm lý học người Ý Loris Malaguzzi, Reggio Emilia nhanh chóng được phổ biến như một phương pháp giáo dục ưu việt, được áp dụng bởi đông đảo trường mầm non của Italy cho đến tận bây giờ.

Theo triết lý của phương pháp giáo dục sớm này, mỗi đứa trẻ đều có những khả năng vô tận, đang chờ đợi được đóng góp cho thế giới. Trẻ em không phải những đối tượng bị động mà thực chất rất giàu tiềm năng, mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng. Các chuyên gia giáo dục của Reggio Emilia cho rằng thông qua sự tò mò và trí tưởng tượng trong quá trình học hỏi, những khả năng tiềm ẩn của đứa trẻ sẽ dần được giải phóng.

Phương pháp tiếp cận Reggio Emilia

Hướng tiếp cận phương pháp giáo dục Reggio Emilia là thúc đẩy sự sáng tạo và tạo nguồn cảm hứng cho trẻ nhỏ trong những năm đầu đời. Chính vì thế, phương pháp Reggio Emilia quan trọng đức tính mạnh mẽ, kiên cường tràn đầy khao khát khám phá thế giới của trẻ nhỏ. Mỗi em bé đều mang trong mình sự tò mò vô hạn và chính sự tò mò này thúc đẩy các em tự khám phá thế giới theo cách của riêng mình. Thay vì có giáo trình cụ thể, Reggio Emilia thường để trẻ tự tương tác, khám phá môi trường xung quanh.

Đặc điểm của phương pháp Reggio Emilia

Khi so sánh phương pháp Reggio Emilia và Montessori, Reggio Emilia có những điểm tương đồng về mặt triết lý với phương pháp Montessori, vì thế nên bố mẹ thường gặp khó khăn và nhầm lẫn trong việc chọn đúng trường mầm non có phương pháp giáo dục này. Trước khi đánh giá một trường học áp dụng phương pháp này, bố mẹ nên cân nhắc một số đặc điểm của phương pháp Reggio Emilia như:

Trẻ học thông qua tương tác với bạn bè và đồ vật

Reggio Emilia đề cao vai trò của các hoạt động nhóm. Trong các nhóm, mỗi trẻ đều có vai trò như nhau, được tôn trọng và đều có tiếng nói như nhau. Trẻ em được học theo phương pháp Reggio Emilia thường sẽ được khuyến khích đưa ra ý kiến và tự khám phá ra kiến thức trong quá trình thực hành của mình.

Trẻ em tự quyết định việc học của mình

Môi trường học đóng vai trò then chốt

Môi trường học của phương pháp giáo dục sớm Reggio Emilia rất quan trọng. Các trường học Reggio Emilia được coi là “xưởng nghệ thuật” với không gian lớp học tràn ngập ánh sáng, thông thoáng. Đây cũng là nơi trưng bày các loại vật liệu sáng tạo như đất sét, màu nước hay các sản phẩm của trẻ. Trẻ sẽ được thoải mái sáng tạo và đưa ra suy nghĩ của mình của mình thông qua việc thực hiện các dự án từ những vật liệu trên .

Giáo viên đóng vai trò là người hợp tác

Các Phương Pháp, Kỹ Năng Và Cách Thức Giảng Dạy

Những câu hỏi [5.1]

Một trong những kỹ năng quan trọng nhất một giảng viên có thể phát triển là đặt ra những câu hỏi hữu hiệu. Những câu hỏi này có thể khuyến khích các học viên trong tiến trình thông hiểu thánh thư và giúp họ nhận ra và hiểu các lẽ thật quan trọng của phúc âm. Những câu hỏi này cũng giúp các học viên suy nghĩ về cách phúc âm đã ảnh hưởng đến cuộc sống của họ và cân nhắc cách họ có thể áp dụng các nguyên tắc phúc âm bây giờ và trong tương lai như thế nào. Việc đặt ra những câu hỏi hữu hiệu có thể khuyến khích các học viên mời Đức Thánh Linh vào kinh nghiệm học hỏi của họ qua việc sử dụng quyền tự quyết và làm tròn vai trò của họ trong tiến trình học hỏi.

Việc đưa ra những câu hỏi cặn kẽ trong lúc chuẩn bị bài học để dẫn đến việc hiểu và làm cho các học viên tập trung tâm trí trong khi học là điều rất đáng bỏ ra nhiều nỗ lực. Khi hoạch định những câu hỏi, trước hết một giảng viên nên xác định mục đích để đặt ra một câu hỏi cụ thể (ví dụ, một giảng viên có thể mong muốn các học viên khám phá ra thông tin ở bên trong một đoạn thánh thư, để nghĩ về ý nghĩa của một đoạn thánh thư, hoặc chia sẻ chứng ngôn về lẽ trung thực của một nguyên tắc). Sau đó giảng viên nên thận trọng phác thảo câu hỏi với mục đích đó trong tâm trí. Việc chọn lựa kỹ một số từ có thể tạo ra một sự khác biệt lớn để biết một câu hỏi có đưa đến kết quả mong muốn hay không.

Các giảng viên nên cố gắng chuẩn bị và đặt ra những câu hỏi nhằm khơi dậy suy nghĩ và cảm nghĩ. Nói chung, họ nên tránh những câu hỏi có thể trả lời là “có” hay “không,” hoặc khi câu trả lời hiển nhiên đến nỗi các học viên không được thúc đẩy để suy nghĩ về câu trả lời đó. Các giảng viên cũng nên tránh những câu hỏi có thể gây ra tranh luận vì điều này có thể làm cho các học viên khó chịu và tạo ra tranh cãi trong lớp học, điều này sẽ làm Thánh Linh buồn phiền (xin xem 3 Nê Phi 11:29).

Khi đặt ra những câu hỏi trong lớp học, thì điều quan trọng là các giảng viên phải cho các học viên thời gian để suy nghĩ về câu trả lời của họ. Đôi khi các giảng viên đặt ra một câu hỏi, ngừng lại trong một hoặc hai giây, và rồi khi không có ai trả lời ngay thì hốt hoảng và tự mình đưa ra câu trả lời. Tuy nhiên, những câu hỏi hữu hiệu thường đòi hỏi phải suy nghĩ và ngẫm nghĩ, và các học viên có thể cần thời gian để tìm ra câu trả lời trong thánh thư hoặc trình bày rõ ràng một câu trả lời. Thỉnh thoảng có thể hữu ích để cho các học viên thời gian viết xuống câu trả lời của họ trước khi trả lời.

Chúa Giê Su Ky Tô, Đấng Chủ Tể, đã sử dụng nhiều loại câu hỏi để khuyến khích những người khác suy ngẫm và áp dụng các nguyên tắc Ngài đã giảng dạy. Những câu hỏi của Ngài đều khác nhau tùy theo điều gì Ngài đang tìm cách để mang vào cuộc sống của những người Ngài giảng dạy. Một số câu hỏi khuyến khích những người lắng nghe Ngài phải suy nghĩ và tham khảo thánh thư để có được câu trả lời, chẳng hạn như khi Ngài hỏi: “Trong luật pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó?” Lu Ca 10:26). Những câu hỏi khác nhằm mời gọi sự cam kết, như khi Ngài hỏi: “Các ngươi nên là những người như thế nào?” (3 Nê Phi 27:27).

Mặc dù một giảng viên có thể đặt ra rất nhiều câu hỏi khác nhau, nhưng có bốn loại câu hỏi tổng quát đặc biệt quan trọng trong việc giảng dạy và học hỏi phúc âm:

Những câu hỏi mời các học viên phải tìm kiếm thông tin

Những câu hỏi dẫn dắt các học viên phải phân tích để hiểu

Những câu hỏi mời gọi những cảm nghĩ và chứng ngôn

Những câu hỏi khuyến khích việc áp dụng

Những Câu Hỏi Mời Gọi Các Học Viên phải Tìm Kiếm Thông Tin [5.1.1]

Tìm kiếm những câu hỏi giúp các học viên xây đắp sự hiểu biết cơ bản của họ về thánh thư bằng cách mời họ tìm kiếm những chi tiết quan trọng về nội dung của nhóm thánh thư. Vì những câu hỏi tìm kiếm đều khuyến khích các học viên tìm kiếm thông tin ở trong các câu văn thánh thư, nên việc đặt ra những câu hỏi như vậy trước khi đọc các câu thánh thư là nơi có thể tìm thấy các câu trả lời là điều rất hữu ích. Điều này tập trung vào sự chú ý của các học viên và cho phép họ khám phá ra các câu trả lời ở bên trong câu chuyện thánh thư.

Những câu hỏi tìm kiếm thường gồm có những từ như ai, điều gì, khi nào, bằng cách nào, nơi nào và tại sao. Một số ví dụ về những câu hỏi nhằm mục đích mời các học viên tìm kiếm thông tin gồm có:

Những câu trả lời cho những câu hỏi tìm kiếm nên thiết lập một nền tảng về sự hiểu biết cơ bản để các loại câu hỏi khác có thể xây dựng trên đó nhằm thúc đẩy sự hiểu biết và áp dụng nhiều hơn. Câu trả lời của Đấng Cứu Rỗi: “Theo lời người ta nói thì Con người là ai?” ( Ma Thi Ơ 16:13) đem lại một quá trình về thông tin. Các câu trả lời do các môn đồ của Ngài đưa ra đã chuẩn bị họ cho câu hỏi sâu sắc và thấm thía hơn: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” ( Ma Thi Ơ 16:15).

Các Câu Hỏi Dẫn Dắt Các Học Viên đến việc Phân Tích để Hiểu [5.1.2]

Phân tích những câu hỏi thường được đặt ra sau khi các học viên đã trở nên quen thuộc với các câu thánh thư họ đang nghiên cứu. Các câu hỏi này có thể mời các học viên tìm kiếm một sự hiểu biết sâu rộng và sâu sắc hơn về thánh thư. Các câu hỏi này có thể giúp các học viên xem xét mối quan hệ và mẫu mực hoặc khám phá ra những điều tương phản ở bên trong thánh thư. Phân tích những câu hỏi hầu như luôn luôn có thể có hơn một câu trả lời.

Phân tích những câu hỏi thường đáp ứng ít nhất cho một trong số ba mục đích. Họ có thể giúp các học viên:

Hiểu rõ hơn văn cảnh và nội dung của thánh thư.

Nhận ra các nguyên tắc và giáo lý phúc âm.

Phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về các nguyên tắc và giáo lý đó.

Giúp các học viên hiểu rõ hơn văn cảnh và nội dung của thánh thư. Phân tích những câu hỏi có thể giúp các học viên mở rộng sự hiểu biết về thánh thư và những sự kiện bằng cách giúp họ xem xét các đoạn thánh thư trong văn cảnh của quá trình lịch sử và văn hóa, hoặc theo quan điểm của các đoạn thánh thư khác. Những câu hỏi như vậy cũng có thể giúp các học viên làm sáng tỏ ý nghĩa của những từ hay cụm từ và giúp họ phân tích các chi tiết của cốt truyện cho có ý nghĩa hơn. Tiến trình này chuẩn bị cho các học viên có thể nhận ra các nguyên tắc và giáo lý.

Ví dụ về những loại câu hỏi này gồm có:

Lời giải thích của Chúa Giê Su trong Ma Thi Ơ 13:18-23 giúp chúng ta hiểu những lời giảng dạy của Ngài trong câu 3 đến câu 8?

Các anh chị em thấy những khác biệt nào giữa câu trả lời của La Man và Lê Mu Ên về lời hướng dẫn của thiên sứ với câu trả lời của Nê Phi? (xin xem 1 Nê Phi 3:31; 4:1-7).

Điều gì dẫn đến việc đánh mất 116 trang mà đã thúc giục Chúa phải khuyên dạy Joseph Smith rằng ông “không nên sợ loài người hơn sợ Thượng Đế”? ( GLGƯ 3:7).

Giúp đỡ các học viên nhận ra các nguyên tắc và giáo lý của phúc âm. Khi các học viên phát triển sự hiểu biết của mình về văn cảnh và nội dung của thánh thư, thì họ có thể nhận ra các nguyên tắc và giáo lý chứa đựng trong văn cảnh và nội dung đó một cách dễ dàng hơn. Phân tích những câu hỏi có thể giúp các học viên rút ra kết luận và giải thích rõ ràng các nguyên tắc hoặc giáo lý được tìm thấy trong nhóm thánh thư (xin xem phần 2.5.1, “Nhận Ra Các Giáo Lý và Nguyên Tắc” ở trang 30).

Một số ví dụ về các câu hỏi này gồm có:

Thành công của Nê Phi minh họa cho nguyên tắc nào trong việc lấy được các bảng khắc bằng đồng mặc dù gặp nhiều khó khăn? (xin xem 1 Nê Phi 3-4).

Chúng ta có thể học được các giáo lý nào từ Khải Tượng Thứ Nhất về thiên tính của Thượng Đế? (xin xem JS-LS 1:15-20).

Chúng ta có thể học được bài học nào từ nỗ lực của người đàn bà bị bệnh về huyết để chạm tay vào Đấng Cứu Rỗi, và do đó đưa đến câu trả lời của Ngài dành cho bà? (xin xem Mác 5:24-34).

Bằng chứng nào cho thấy rằng chúng ta yêu mến Thượng Đế với tất cả “năng lực, tâm trí và sức mạnh?” ( Mô Rô Ni 10:32).

Tại sao việc luôn luôn cầu nguyện sẽ giúp các anh chị em đạt được sức mạnh thuộc linh cần thiết để khắc phục những cám dỗ như nói chuyện không tử tế với những người khác hoặc tham gia vào trò giải trí làm xúc phạm đến Thánh Linh? (xin xem GLGƯ 10:5).

Các anh chị em thường thấy những hành vi và cá tính nào trong cuộc sống của một người nào đó được xây đắp trên nền móng của Đấng Ky Tô? (xin xem Hê La Man 5:1-14).

Bằng cách sử dụng điều chúng ta đã học được trong An Ma 40, các anh chị em sẽ giải thích giáo lý về sự phục sinh như thế nào cho một người bạn không thuộc vào tín ngưỡng của chúng ta?

Các Câu Hỏi Mời Gọi Những Cảm Nghĩ và Chứng Ngôn [5.1.3]

Một số câu hỏi giúp các học viên suy nghĩ và hiểu các nguyên tắc và giáo lý của phúc âm, trong khi các nguyên tắc và giáo lý khác có thể làm cho họ suy ngẫm về những kinh nghiệm thuộc linh và dẫn dắt các học viên đến việc cảm nhận sâu sắc hơn lẽ trung thực và ý nghĩa của một nguyên tắc hay giáo lý trong cuộc sống của họ. Nhiều khi những cảm nghĩ đó đem đến một ước muốn mãnh liệt hơn trong lòng của các học viên để sống theo một nguyên tắc phúc âm một cách trung tín hơn. Trong một bài ngỏ cùng các nhà giáo dục tôn giáo CES, Anh Cả Henry B. Eyring đã nhắc đến những loại câu hỏi này khi ông nói:

“Một số câu hỏi mời gọi sự soi dẫn. Các giảng viên giỏi sẽ đặt ra những câu hỏi đó. … Đây là một câu hỏi có thể không mang đến sự soi dẫn: ‛Làm thế nào để nhận ra một vị tiên tri chân chính?’ Câu hỏi đó dẫn đến một bản liệt kê gồm có các câu trả lời rút ra từ việc thuộc lòng các câu thánh thư và những lời của các vị tiên tri tại thế. Nhiều học viên có thể tham gia trả lời. Hầu hết có thể đưa ra ít nhất một lời đề nghị về một đoạn thánh thư. Và tâm trí thường được kích động.

“Nhưng chúng ta cũng có thể đặt ra câu hỏi theo cách này, với chỉ một điều khác biệt nhỏ: ‛Các anh chị em đã cảm thấy mình ở nơi hiện diện của một vị tiên tri vào lúc nào?’ Điều đó sẽ mời gọi các cá nhân lục tìm trong ký ức của họ những cảm nghĩ đó. Sau khi đặt ra câu hỏi, chúng ta có thể khôn ngoan chờ đợi một giây lát trước khi mời một người nào đó đưa ra câu trả lời. Ngay cả những người không nói gì cũng sẽ suy nghĩ về những kinh nghiệm thuộc linh. Điều đó sẽ mời Đức Thánh Linh đến” (“The Lord Will Multiply the Harvest,” 6).

Đây là một số ví dụ về những câu hỏi có thể khuyến khích cảm nghĩ và mời gọi chứng ngôn:

Các anh chị em đã cảm thấy được bình an và niềm vui đến từ việc tha thứ một người nào đó vào lúc nào?

Hãy nghĩ về lúc Chúa hướng dẫn những quyết định của các anh chị em vì các anh chị em tin cậy nơi Ngài thay vì trông cậy vào sự hiểu biết riêng của mình (xin xem Châm Ngôn 3:5-6). Các anh chị em đã được ban phước như thế nào khi làm như vậy?

Nếu có thể đích thân bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Đấng Cứu Rỗi vì sự hy sinh của Ngài dành cho các anh chị em thì các anh chị em sẽ thưa gì với Ngài?

Cuộc sống của các anh chị em khác biệt như thế nào vì điều đã xảy ra trong Khu Rừng Thiêng Liêng?

Các anh chị em đã thấy những người khác đối phó với những thử thách một cách trung tín là khi nào? Điều đó đã ảnh hưởng đến các anh chị em như thế nào?

Một lời cảnh báo: Những câu trả lời cho các câu hỏi về tính chất này có thể là đặc biệt riêng tư và nhạy cảm. Các giảng viên cần phải bảo đảm rằng các học viên không bao giờ cảm thấy bắt buộc phải trả lời một câu hỏi, chia sẻ những cảm nghĩ hay kinh nghiệm của họ, hoặc chia sẻ chứng ngôn. Ngoài ra, các giảng viên nên giúp các học viên hiểu tính chất thiêng liêng của những kinh nghiệm thuộc linh cá nhân và khuyến khích họ chia sẻ các kinh nghiệm đó vào lúc thích hợp (xin xem GLGƯ 63:64).

Các Câu Hỏi Khuyến Khích Việc Áp Dụng [5.1.4]

Cuối cùng, mục đích của việc giảng dạy phúc âm là giúp các học viên áp dụng các nguyên tắc và giáo lý được tìm thấy trong thánh thư và hội đủ điều kiện để nhận được các phước lành đã được hứa với những người trung tín và biết vâng lời. Các học viên nào có thể thấy cách họ đã được ban phước vì sống theo các nguyên tắc phúc âm trong quá khứ thì sẽ ước ao nhiều hơn và chuẩn bị kỹ hơn để áp dụng các nguyên tắc này một cách thành công trong tương lai. Những câu hỏi có thể đóng một vai trò thiết yếu trong việc giúp các học viên thấy cách họ có thể áp dụng các nguyên tắc này trong hoàn cảnh hiện tại của họ và cân nhắc cách họ có thể áp dụng các nguyên tắc này trong tương lai.

Các anh chị em cần có những thay đổi nào nhằm mục đích giữ ngày Sa Bát được thánh một cách tốt hơn để có thể hoàn toàn không bị tì vết của thế gian? (xin xem GLGƯ 59:9-13).

Vị tiên tri đã khuyên dạy mà các anh chị em có thể tuân theo điều gì một cách chính xác hơn? (xin xem An Ma 57:1-27).

Làm thế nào nguyên tắc nếu chúng ta tìm kiếm vương quốc của Thượng Đế trước hết, thì chúng ta sẽ được phước trong các phương diện khác của cuộc sống của mình có thể giúp các anh chị em ưu tiên cho các mục tiêu và sinh hoạt của mình cho hai hoặc ba năm kế tiếp? (xin xem Ma Thi Ơ 6:33).

Gọi các học viên bằng tên. Việc gọi tên học viên để trả lời một câu hỏi hoặc đưa ra lời góp ý giúp khuyến khích một môi trường học hỏi đầy yêu thương và kính trọng.

Đừng sợ sự im lặng. Đôi lúc, khi được hỏi với một câu hỏi hữu hiệu, các học viên có thể không trả lời ngay. Giảng viên chớ lo lắng nếu có sự im lặng miễn là điều đó không kéo dài quá lâu. Đôi khi, các học viên cần một cơ hội để suy ngẫm về điều họ được hỏi và cách họ có thể trả lời câu hỏi đó. Việc suy ngẫm như vậy có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh.

Lặp lại câu hỏi cho rõ nghĩa. Đôi khi các học viên có thể gặp khó khăn để trả lời một câu hỏi vì câu hỏi không rõ ràng. Giảng viên có thể cần phải nhắc lại câu hỏi cho rõ nghĩa hoặc hỏi các học viên xem họ có hiểu điều được hỏi không. Các giảng viên nên tránh liên tiếp đặt ra một loạt câu hỏi mà không để cho các học viên có đủ thời gian suy nghĩ cặn kẽ để trình bày rõ ràng những câu trả lời thích hợp.

Ghi nhận câu trả lời trong một cách tích cực. Khi học viên đưa ra một câu trả lời, giảng viên cần phải ghi nhận trong một cách nào đó. Cách này có thể là một lời cám ơn giản dị hoặc một lời góp ý về câu trả lời đó. Khi một câu trả lời không đúng được đưa ra, giảng viên cần phải cẩn thận để không làm cho học viên đó cảm thấy ngượng nghịu. Một giảng viên hữu hiệu có thể nói thêm về phần góp ý đúng của học viên hoặc đặt ra một câu hỏi tiếp theo câu hỏi trước để cho phép một học viên suy nghĩ lại câu trả lời của mình.

Cùng Đọc Thánh Thư Với Nhau trong Lớp [5.3]

Việc đọc thánh thư trong lớp có thể giúp các học viên trở nên quen thuộc với thánh thư và hiểu rõ hơn các câu họ đang học. Điều đó cũng có thể giúp họ trở nên tin tưởng hơn trong khả năng để tự mình đọc thánh thư. Các giảng viên cần phải cẩn thận để không làm cho những người không đọc giỏi hoặc những người quá nhút nhát cảm thấy ngượng nghịu. Các học viên không thích đọc to thì không nên bị bắt buộc phải làm như vậy, nhưng các giảng viên có thể khuyến khích họ tham gia trong những cách nào họ cảm thấy thoải mái hơn. Ví dụ, việc chỉ định trước một đoạn thánh thư ngắn cho một học viên để học viên đó có thể tập đọc thì có thể là một cách thích hợp để học viên đó tham gia vào lớp học.

Có nhiều cách để cùng đọc thánh thư với nhau trong lớp:

Bảo các học viên đọc to, hoặc là từng người đọc hoặc là cùng đọc chung với nhau.

Bảo các học viên đọc cho nhau nghe.

Bảo các học viên im lặng đọc một đoạn.

Chỉ định các học viên khác nhau đọc những lời nói của nhiều nhân vật khác nhau trong một câu chuyện.

Đọc to cho các học viên nghe khi họ dò theo trong quyển thánh thư của họ.

Phần Trình Bày của Giảng Viên [5.4]

Mặc dù việc học viên đóng một vai trò tích cực trong tiến trình học hỏi là quan trọng đối với việc họ hiểu và áp dụng thánh thư, nhưng điều này không thay thế việc một giảng viên cần phải trình bày bài học một cách thích hợp vào những lúc khác nhau trong khi các học viên lắng nghe. Vì mục đích của quyển sách hướng dẫn này, những lúc một giảng viên nói chuyện và các học viên lắng nghe sẽ được gọi là “phần trình bày của giảng viên.” Khi được sử dụng một cách thích hợp, phần trình bày của giảng viên có thể nâng cao các phương pháp giảng dạy khác. Tuy nhiên, nếu lạm dụng, thì sinh họat tập trung vào giảng viên này có thể làm giảm bớt hiệu quả của việc giảng dạy cũng như giới hạn cơ hội học hỏi bằng cách nghiên cứu và bằng đức tin của một học viên.

Phần trình bày của giảng viên có thể rất hữu hiệu khi tóm lược nhiều tài liệu, trình bày thông tin mới mẻ đối với các học viên, đưa ra phần chuyển tiếp giữa những phần khác nhau của bài học, hoặc rút ra kết luận. Một giảng viên có thể cần giải thích, làm sáng tỏ, và dẫn giải để các học viên có thể hiểu rõ ràng hơn văn cảnh của một nhóm thánh thư. Một giảng viên cũng có thể nhấn mạnh đến các giáo lý và nguyên tắc chính yếu cũng như khuyến khích các học viên nên áp dụng các giáo lý và nguyên tắc này. Có lẽ quan trọng hơn hết là các giảng viên có thể làm chứng về các lẽ thật phúc âm và bày tỏ tình yêu thương của họ đối với Cha Thiên Thượng và Vị Nam Tử của Ngài.

Khi sử dụng phần trình bày của giảng viên, cũng như khi sử dụng bất cứ phương pháp giảng dạy nào, các giảng viên nên liên tục đánh giá mức độ tiếp thu bài học của các học viên bằng cách tự đặt ra những câu hỏi như: “Các học viên của tôi có thích thú và tập trung không?” và “Họ có hiểu điều đang được trình bày không?” Cuối cùng, phương pháp giảng dạy này hoặc bất cứ phương pháp giảng dạy nào khác hữu hiệu như thế nào đều được xác định qua việc các học viên có đang học hỏi bởi Thánh Linh, hiểu thánh thư và mong muốn áp dụng điều họ đang học hỏi không.

Những ý kiến sau đây có thể giúp một giảng viên sử dụng phương pháp này một cách hữu hiệu hơn.

Hoạch định các phần trình bày của giảng viên về bài học. Thỉnh thoảng, các giảng viên chuẩn bị kỹ các phần khác của bài học nhưng không có cùng một chú ý như thế cho những phần của bài học mà họ sẽ nói hầu hết thời gian. Một trong những mối quan tâm về phần trình bày của giảng viên là các học viên có thể dễ dàng trở thành những người chỉ tham dự một cách thờ ơ trong khi họ học hỏi. Do đó, phần trình bày của giảng viên cũng cần phải có việc hoạch định và chuẩn bị kỹ bao gồm việc quyết định cách bắt đầu và cách khai triển việc giảng dạy một cách hợp lý.

Sử dụng nhiều cách thích hợp. Có những cách để giới thiệu phần trình bày phong phú của giảng viên. Các giảng viên có thể tránh tình trạng đơn điệu chán ngắt bằng cách thay đổi cách chuyển giọng, tiếng nói và âm lượng và bằng cách đi quanh phòng trong khi đang trình bày bài học. Nhiều loại tài liệu khác nhau cũng có thể được trình bày. Ví dụ, các giảng viên có thể kể những câu chuyện, sử dụng óc hài hước thích hợp, nói đến những bức hình hoặc những đồ vật trưng bày khác, đọc những lời trích dẫn, sử dụng bảng phấn hoặc phần trình bày với dụng cụ thính thị, và chia sẻ chứng ngôn. Phần trình bày của giảng viên một cách đa dạng và thích hợp đều luôn luôn nâng cao khả năng hiểu biết và áp dụng thánh thư của học viên.

Anh Cả Bruce R. McConkie dạy: “Dĩ nhiên không có gì sai khi kể một câu chuyện hiện đại khuyến khích đức tin, một câu chuyện đã xảy ra trong gian kỳ của chúng ta. … Thật vậy, việc này cần phải được khuyến khích mạnh mẽ. Chúng ta cần phải bỏ ra nhiều nỗ lực để cho thấy rằng những điều đang xảy ra trong cuộc sống của Các Thánh Hữu ngày nay cũng giống như đã xảy ra trong số những người trung tín thời xưa. …

“Có lẽ mẫu mực hoàn hảo trong việc trình bày những câu chuyện khuyến khích đức tin là giảng dạy điều được tìm thấy trong thánh thư rồi đưa ra lời xác nhận sự thật sống động về điều đó bằng cách cho biết một điều tương tự và tương đương đã xảy ra trong gian kỳ của chúng ta cũng như đã xảy đến cho các tín hữu của chúng ta và -một cách lý tưởng nhất- cho cá nhân chúng ta” (“The How and Why of Faith-Promoting Stories,” New Era, tháng Bảy năm 1978, 4-5).

Các giảng viên có thể chia sẻ những câu chuyện từ cuộc sống của các vị tiên tri và từ lịch sử Giáo Hội, cũng như các câu chuyện được tìm thấy trong các bài nói chuyện tại đại hội trung ương và các tạp chí Giáo Hội. Họ cũng có thể chia sẻ những câu chuyện có thật từ kinh nghiệm của họ. Một số kinh nghiệm học hỏi có ý nghĩa và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất xảy ra khi các giảng viên mời các học viên chia sẻ câu chuyện từ cuộc sống của họ có giải thích về họ được phước nhờ vào việc sống theo một nguyên tắc phúc âm như thế nào.

Cần phải lưu ý đến một số lời cảnh báo và khuyên dạy về việc sử dụng các câu chuyện.

Nếu việc kể chuyện trở thành phương pháp hay kỹ thuật chi phối việc giảng dạy, thì chính các câu chuyện đó có thể trở thành điểm tập trung của bài học, làm giảm bớt thời gian thật sự dành ra cho việc đọc thánh thư và làm phai mờ các giáo lý và nguyên tắc họ giảng dạy.

Việc sử dụng quá nhiều câu chuyện từ cuộc sống của các giảng viên có thể đưa đến sự phô trương cá nhân và các giảng viên “trưng mình làm ánh sáng cho thế gian để họ có thể tìm lợi lộc và sự ca tụng của thế gian” ( 2 Nê Phi 26:29).

Mặc dù các câu chuyện có thể soi sáng và làm cho việc giảng dạy thánh thư được sinh động và giúp các học viên cảm nhận được quyền năng của Thánh Linh, nhưng đừng bao giờ sử dụng các câu chuyện này để khai thác mối cảm xúc.

Các giảng viên nên cẩn thận đừng thêm thắt những sự kiện về một câu chuyện có thật để làm cho câu chuyện gây xúc động hay tác động mạnh mẽ hơn.

Nếu một câu chuyện không có thật, chẳng hạn như một câu chuyện cười minh họa một quan điểm, thì nên nói rõ từ lúc bắt đầu rằng câu chuyện đó không có thật.

Khi cho các học viên làm việc từng cặp hoặc trong các nhóm nhỏ, thì có thể hữu ích để nhớ những điều sau đây:

Trước khi chia các học viên ra thành các nhóm nhỏ, các giảng viên nên đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng về điều các học viên sẽ được kỳ vọng để làm trong sinh hoạt đó. Thường thường là điều hữu ích để viết những chỉ dẫn này lên trên bảng hoặc in ra trên một tờ giấy để phân phát, và cho phép các học viên tham khảo lại những chỉ dẫn này trong lúc sinh hoạt.

Các sinh hoạt học hỏi trong nhóm nào quan trọng đối với cuộc sống và hoàn cảnh của các học viên thường làm cho họ cảm thấy thích thú và tham gia nhiều hơn.

Việc chỉ định một học viên làm người lãnh đạo của mỗi nhóm cũng như một thời gian giới hạn cụ thể sẽ giúp nhóm đó tập trung vào nhiệm vụ. Các sinh hoạt nhóm quá dài thường đưa đến việc các nhóm hoàn tất vào những lúc khác nhau và có thể đưa đến cảnh rối loạn trong lớp học.

Thường thường các học viên tham gia vào sinh hoạt một cách thích thú hơn nếu giảng viên mời họ trước để chuẩn bị chia sẻ với lớp học hoặc giảng dạy cho lớp học một điều mà họ đã học được từ sinh hoạt đó. Điều này cũng tạo cơ hội cho các học viên để tập giảng dạy phúc âm cho những người khác.

Các học viên thường làm việc giỏi hơn trong nhóm khi họ tra cứu thánh thư, đọc một lời trích dẫn, hoặc làm tròn một nhiệm vụ nào khác riêng rẽ trước khi họ quy tụ lại với nhau.

Trong các nhóm có năm hay nhiều học viên hơn, việc mỗi cá nhân tham gia một cách có ý nghĩa có thể trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, các nhóm lớn hơn thường gặp khó khăn hơn để tập trung vào nhiệm vụ.

Việc làm việc trong các nhóm nhỏ có thể không phải là phương pháp tốt nhất để trả lời những câu hỏi giản dị vì phải có thời gian để tổ chức các học viên thành các nhóm.

Khi bị lạm dụng thì các sinh hoạt học hỏi nhóm có thể trở nên kém hữu hiệu.

Viết Bài Tập [5.7]

Các giảng viên nên mời các học viên tham gia viết bài tập như ghi chép, viết nhật ký, giấy liệt kê những việc cần làm, sự suy ngẫm cá nhân, và các bài tiểu luận. Thỉnh thoảng, việc mời các học viên trả lời cho một câu hỏi gợi ý nghĩ bằng cách viết xuống sẽ giúp gia tăng và làm sáng tỏ suy nghĩ của họ. Việc mời các học viên trả lời một câu hỏi bằng cách viết xuống trước khi chia sẻ những ý nghĩ của họ với lớp học sẽ cho họ thời giờ để sắp xếp ý kiến của họ và nhận được ấn tượng từ Đức Thánh Linh. Các học viên có thể sẵn sàng hơn khi chia sẻ những ý nghĩ của họ nếu đã viết xuống trước, và điều họ chia sẻ sẽ thường có ý nghĩa hơn. Trong số những điều khác, các bài tập viết sẽ tạo cơ hội cho các học viên tham gia riêng, nhận được sự soi dẫn, chuẩn bị để giảng dạy và chia sẻ những cảm nghĩ của họ với những người khác, nhận ra bàn tay của Chúa trong cuộc sống của họ và bày tỏ chứng ngôn. Khi các giảng viên quyết định bài tập nào để viết là thích hợp cho một kinh nghiệm học hỏi, thì họ nên cân nhắc nguyên tắc này đã được Anh Cả David A. Bednar chia sẻ: “Việc viết xuống điều chúng ta học, suy nghĩ, và cảm nhận trong khi học thánh thư là một hình thức khác của việc suy ngẫm và một lời mời mạnh mẽ đến Đức Thánh Linh để được liên tục chỉ dạy” (“Because We Have Them before Our Eyes, New Era, tháng Tư năm 2006, 6-7).

Việc viết bài tập dành cho các học viên nhỏ hơn hoặc những người có khả năng giới hạn hơn cần phải được đơn giản hóa để giúp họ thành công. Ví dụ, một giảng viên có thể chuẩn bị một bài tập điền vào chỗ trống trong đó học viên được cung cấp thêm chi tiết và sẽ hỏi ít hơn. Các giảng viên có thể giúp các học viên này bằng cách tập trung vào bài tập viết về những đoạn thánh thư ngắn hoặc những câu hỏi cụ thể và bằng cách cho họ đủ thời giờ để hoàn tất bài tập đó.

Các học viên thường hưởng được lợi ích nhiều hơn từ sinh hoạt viết khi:

Các giảng viên cung cấp những chỉ dẫn được viết ra rõ ràng để các học viên có thể tiếp tục tham khảo trong suốt bài tập đó.

Sinh hoạt này giúp họ trong việc áp dụng các lẽ thật đó vào bản thân họ.

Các học viên được giảng viên của họ hỗ trợ và phụ giúp trong suốt sinh hoạt viết bài.

Việc định ra khoảng thời gian giới hạn thích hợp tùy thuộc vào mức độ khó của bài tập.

Các học viên được mời giải thích, chia sẻ, hoặc làm chứng về một điều gì đó mà họ đã học được từ sinh hoạt đó.

Các học viên được bảo đảm rằng các sinh hoạt viết bài tập trung vào những cảm nghĩ hay cam kết của cá nhân sẽ không được chia sẻ với những người khác, kể cả giảng viên, nếu không có sự cho phép của học viên.

Sinh hoạt đó là một phần đầy ý nghĩa của kế hoạch bài học và không được đưa ra với tính cách là “công việc bận rộn” hoặc là một hình phạt vì có hạnh kiểm xấu.

Các phương pháp tùy chọn nhằm ghi lại các ý nghĩ và ý kiến được cung ứng cho những người có khó khăn về khả năng viết. Những phương pháp này có thể gồm có việc bảo một học viên khác làm người ghi chép, thu băng, và vân vân.

Đừng lạm dụng sinh hoạt viết bài.

Bảng Phấn hay Bảng Trắng [5.8]

Một bảng phấn hay bảng trắng được chuẩn bị kỹ có thể là bằng chứng về sự chuẩn bị của giảng viên và thêm vào một cảm nghĩ về mục đích trong lớp học. Việc sử dụng bảng một cách hữu hiệu trong khi dạy bài học có thể chuẩn bị cho các học viên học hỏi và mời gọi một sự tham gia đầy ý nghĩa, nhất là đối với những người có khuynh hướng học bằng cách nhìn vào hình ảnh. Khi sử dụng bảng, các giảng viên nên nhớ phải viết cho rõ ràng và viết chữ to đủ để mọi người đều thấy, chắc chắn rằng tài liệu phải có khoảng cách đều nhau giữa các chữ, có thứ tự và dễ đọc. Nơi nào không có sẵn bảng phấn hay bảng trắng, thì một tờ giấy lớn hay tấm bích chương cũng có thể làm tròn mục đích đó.

Trên bảng, một giảng viên có thể vạch ra những điểm hay nguyên tắc chính yếu của bài học, vẽ sơ đồ một giáo lý hay một sự kiện, vẽ bản đồ, trình bày một biểu đồ phát triển, trưng bày hay vẽ hình những điều được tìm thấy trong thánh thư, tạo ra các sơ đồ cho thấy những sự kiện lịch sử, liệt kê những điều từ thánh thư như các học viên tìm ra, hoặc làm nhiều sinh hoạt khác nhằm sẽ nâng cao việc học hỏi.

Đồ Vật và Hình Ảnh [5.9]

Thường rất khó để giảng dạy những khía cạnh mơ hồ của phúc âm. Việc sử dụng các đồ vật và hình ảnh có thể là một cách hữu hiệu để các giảng viên giúp học viên hiểu những nguyên tắc thuộc linh. Ví dụ, một đồ vật quen thuộc giống như xà bông có thể giúp các học viên hiểu một nguyên tắc trừu tượng hơn giống như sự hối cải. Đấng Cứu Rỗi thường nhắc đến những vật chất thế gian (như bánh, nước, đèn cầy và cái đấu) để giúp những người nghe Ngài hiểu các nguyên tắc thuộc linh.

Các đồ vật và hình ảnh có thể được sử dụng để giúp các học viên hình dung ra các nhân vật, nơi chốn, sự kiện, đồ vật và biểu tượng trong thánh thư trông giống như thế nào. Thay vì chỉ nói về những cái ách (xin xem Ma Thi Ơ 11:28-30), giảng viên có thể mang một cái ách vào lớp, cho thấy một tấm hình về cái ách hoặc vẽ nó lên trên bảng. Các học viên có thể ngửi và chạm tay vào một đóa hoa trong khi họ đọc về “hoa huệ ngoài đồng” ( Ma Thi Ơ 6:28-29). Họ có thể nếm bánh không men.

Những Phần Trình Bày bằng Dụng Cụ Trợ Huấn để Nghe và Nhìn và Máy Vi Tính [5.10]

Các thánh thư chứa đầy những câu chuyện về việc Chúa giúp con cái của Ngài hiểu những lời giảng dạy của Ngài qua cảnh tượng và âm thanh (xin xem 1 Nê Phi 11-14; GLGƯ 76; Môi Se 1:7-8, 27-29). Các phương tiện để nghe và nhìn và công nghệ, khi được sử dụng một cách thích hợp và hữu hiệu, có thể giúp các học viên hiểu rõ thánh thư hơn và học tập cùng áp dụng các lẽ thật phúc âm.

Các phương tiện để nghe và nhìn có thể mô tả những sự kiện quan trọng từ thánh thư và có thể giúp các học viên hình dung và đạt được kinh nghiệm từ những sự kiện này. Các nguồn phương tiện này có thể giúp đóng diễn cách người ta áp dụng các nguyên tắc phúc âm để khắc phục những thử thách và vấn đề của họ cũng như có thể cung ứng các cơ hội để Thánh Linh làm chứng về lẽ thật.

Công nghệ vi tính cho phép các giảng viên chiếu các đoạn phim video; trưng bày những câu hỏi quan trọng, hình ảnh hoặc lời trích dẫn từ Các Vị Thẩm Quyền Trung Ương; hoặc tô đậm các nguyên tắc và giáo lý đã được nhận ra trong một bài học. Những phần trình bày của máy vi tính cũng có thể được sử dụng khá giống như cách một tấm bảng phấn hay bảng trắng có thể được sử dụng-để phác thảo những điểm chính yếu của bài học, trưng bày các phần tham khảo thánh thư, và đưa ra những chỉ dẫn trực quan cho các sinh hoạt học hỏi của một cặp, một nhóm hay một cá nhân. Việc sử dụng công nghệ trong những cách này có thể hữu ích cho các học viên là những người học bằng cách nhìn vào hình ảnh cũng như có thể giúp các học viên sắp xếp và hiểu rõ hơn điều họ đang học.

Việc sử dụng các phương tiện để nghe và nhìn, máy vi tính, hoặc công nghệ khác nên giúp làm cho các bài học được rõ ràng, thú vị, đáng nhớ và không nên làm cho các học viên bị xao lãng đến mức không cảm nhận được các ấn tượng của Thánh Linh.

Khi sử dụng các phương tiện để nghe và nhìn hoặc công nghệ vi tính trong một bài học, các giảng viên nên bố trí thiết bị trước khi lớp bắt đầu và chắc chắn rằng thiết bị đó vận hành tốt. Họ cũng nên chắc chắn rằng tất cả các học viên sẽ có thể nghe và thấy được phần trình bày từ chỗ ngồi của họ. Trước khi lớp học bắt đầu, các giảng viên nên chuẩn bị phương tiện để nghe và nhìn hoặc máy vi tính để bắt đầu đúng chỗ khi cần đến trong bài học. Cũng có thể là một ý kiến hay cho các giảng viên để tập sử dụng công nghệ cho phần trình bày trước khi sử dụng công nghệ này trong bài học.

Những hướng dẫn [5.10.1]

Việc sử dụng các phương tiện thính thị và công nghệ đi kèm với một số thử thách vốn có và những trở ngại có lẽ xảy ra nhiều hơn so với bất cứ phương pháp giảng dạy nào khác. Các giảng viên nên sáng suốt khi quyết định nếu phần trình bày với dụng cụ để nghe và nhìn hoặc máy vi tính có thích hợp và hữu ích cho kinh nghiệm học hỏi không. Việc trông cậy quá nhiều vào công nghệ có thể dẫn đến những bài học dựa vào công nghệ và phương tiện truyền thông thay vì các bài học dựa vào thánh thư và tập trung vào học viên. Những câu hỏi sau đây có thể phụ giúp các giảng viên trong việc chọn những quyết định khôn ngoan để sử dụng các phương tiện để nghe và nhìn và máy vi tính:

Phương tiện này có giúp các học viên học về điều gì là quan trọng không? Những phần trình bày bằng phương tiện để nghe và nhìn có thể rất thú vị và gây ấn tượng sâu sắc cho các học viên, nhưng điều này có đóng góp trực tiếp vào các mục đích của bài học và vào những gì các học viên cần phải học không? Việc sử dụng các phương tiện này để giải trí hoặc chiếm hết thời giờ trống còn lại đều không có đủ lý do để sử dụng các phương tiện đó. Các giảng viên nên xem hoặc lắng nghe bất cứ phần trình bày nào trước khi sử dụng trong lớp và chắc chắn rằng phần trình bày đó củng cố hoặc hỗ trợ thánh thư cũng như các giáo lý và nguyên tắc được giảng dạy trong bài học.

Đây là một phương tiện cho bài học hay là điểm tập trung chính của bài học? Anh Cả Boyd K. Packer dạy: “Những dụng cụ trợ huấn để nghe và nhìn trong một lớp học có thể là một phước lành hay một tai họa, tùy thuộc vào cách chúng được sử dụng. Các dụng cụ này có thể được so sánh với đồ gia vị và hương vị đi kèm theo bữa ăn. Nên sử dụng các dụng cụ này một cách có giới hạn để làm nổi bật một bài học hoặc làm cho bài học được thú vị” ( Teach Ye Diligently, duyệt lại hiệu đính 1991, 265).

Phương tiện đó có thích hợp và phù hợp với các tiêu chuẩn của Giáo Hội không? Phương tiện đó có tính cách gây dựng không? Nhiều sản phẩm được làm ra trên thế giới có thể chứa đựng một thông điệp hay nhưng thường đi kèm theo một nội dung đáng chê trách mà có thể xúc phạm đến Thánh Linh hoặc hỗ trợ những ý kiến không phù hợp với những điều giảng dạy của phúc âm. Một đoạn video hoặc băng thu thanh, cho dù có thích hợp đi chăng nữa, cũng không nên được sử dụng nếu đến từ một nguồn chứa đựng tài liệu không thích hợp mà ra. Các sản phẩm gây ra tranh luận hoặc làm náo động dư luận thường thường không xây đắp đức tin và chứng ngôn.

Phương tiện này có vi phạm bản quyền hoặc các luật pháp có thể áp dụng khác không? Nhiều băng video, bài hát, và các tư liệu thính thị khác đều được hạn chế sử dụng bởi luật bản quyền hoặc thỏa thuận với người dùng. Rất quan trọng để tất cả các giảng viên và các vị lãnh đạo lớp giáo lý và viện giáo lý phải tuân theo các luật bản quyền của quốc gia nơi họ đang giảng dạy cũng như làm đúng theo các luật pháp và nghĩa vụ có thể áp dụng để họ cũng như Giáo Hội không bị dính líu đến các vụ tố tụng pháp lý.

Những chỉ dẫn sau đây áp dụng cho các giảng viên và các vị lãnh đạo lớp giáo lý và viện giáo lý trong tất cả các quốc gia.

Sử Dụng Tài Liệu do Giáo Hội Xuất Bản [5.10.2]

Trừ khi được nói khác trên tài liệu do Giáo Hội xuất bản, các giảng viên và các vị lãnh đạo có thể sao chụp và cho xem phim, băng video, hình ảnh và những phần thu thanh và thu hình nhạc do Giáo Hội sản xuất dành cho Giáo Hội, còn lớp giáo lý và viện giáo lý sử dụng với mục đích không thương mại. Nhạc từ Sách Thánh Ca, Sách Hát của Thiếu Nhi, và các tạp chí Giáo Hội có thể được Giáo Hội và lớp giáo lý và viện giáo lý sử dụng với mục đích không thương mại, ngoại trừ chỗ nào có ghi rõ điều gì hạn chế trên bài thánh ca hoặc bài ca đó. Giảng viên và các vị lãnh đạo lớp giáo lý và viện giáo lý có thể tải xuống và cho lớp học xem các tài liệu do Giáo Hội xuất bản, trừ khi những tài liệu như vậy có điều hạn chế được ghi khác.

Sử Dụng Tài Liệu Không-Do Giáo Hội Xuất Bản [5.10.3]

Theo quy tắc chung, không nên tải xuống từ Internet các chương trình, phần mềm của máy vi tính và các tài liệu thính thị hoặc cho lớp học xem từ Internet trừ khi đã mua giấy phép thích hợp rồi. Trừ khi một băng video, bài hát hay tài liệu để nhìn và nghe khác do Giáo Hội sở hữu, thì sẽ có rủi ro đáng kể khi việc cho xem tài liệu như vậy trong lớp học có thể vi phạm luật bản quyền, trong bất cứ quốc gia nào. Do đó, theo quy tắc chung, các giảng viên và các vị lãnh đạo lớp giáo lý và viện giáo lý trên khắp thế giới không nên cho lớp học của mình xem các tài liệu không do Giáo Hội xuất bản.

Việc sao chụp tài liệu phương tiện truyền thông chứa đựng bản quyền về âm nhạc (chẳng hạn như bản nhạc hay băng thu thanh, thu hình nhạc) là một sự vi phạm trực tiếp đến luật bản quyền trừ khi có sự cho phép bằng văn bản do người sở hữu bản quyền cung cấp. Việc sao chụp lời của bài ca do tác giả giữ bản quyền cũng là bất hợp pháp nếu không được cho phép.

Những chỉ dẫn sau đây phác thảo một cách cụ thể một số ngoại lệ đối với luật bản quyền ở Hoa Kỳ mà sẽ cho phép các giảng viên và các vị lãnh đạo lớp giáo lý và viện giáo lý ở Hoa Kỳ cho lớp học xem các đoạn video mà không cần phải nhận được trước giấy phép từ người sở hữu bản quyền của băng video đó. Mặc dù có những ngoại lệ tương tự trong các quốc gia khác, các giảng viên lớp giáo lý và viện giáo lý nên liên lạc với văn phòng Intellectual Property Office để xác định các luật pháp và ngoại lệ cụ thể áp dụng riêng cho quốc gia của họ trước khi cho lớp học xem các đoạn video từ các băng video hay chương trình đã được xuất bản và được thu lại từ truyền hình hoặc từ Internet với mục đích thương mại.

Sử dụng các chương trình thu lại từ truyền hình. Ở Hoa Kỳ, một chương trình truyền hình được cho công chúng xem mà không phải trả tiền và được thu lại từ truyền hình, hoặc từ hệ thống dây cáp, thì chỉ có thể được sử dụng trong lớp học mà thôi nếu hội đủ những điều kiện sau đây: (a) Đoạn phim của chương trình đó được giữ lại không quá 45 ngày, và rồi phải xóa đi ngay. {b) Đoạn phim của chương trình đó chỉ được sử dụng trong lớp học trong vòng 10 ngày đầu tiên tiếp theo ngày thu đoạn phim đó (tiếp theo 10 ngày đầu tiên, nhưng vẫn ở trong vòng 45 ngày, bản sao đó chỉ có thể được sử dụng để đánh giá giảng viên hoặc xác định chương trình đó có nên được sử dụng trong các bài học tương lai không). (c) Bản sao đó chỉ có thể được cho xem một lần mà thôi (chỉ được sử dụng hai lần nếu cần phải nhấn mạnh việc giảng dạy). (d) Bản sao đó chỉ được cho xem trong một lớp học hoặc chỗ tương tự dành để giảng dạy mà thôi. (e) Toàn bộ thông điệp hay nội dung của chương trình đều không được sửa đổi. (f) Không được sao chụp bản sao đó để chia sẻ với những người khác. (g) Bất cứ bản sao nào cũng phải gồm có thông báo về bản quyền cho chương trình khi được thu lại. (h) Chương trình không được sát nhập vào các chương trình khác (về mặt hình thức hoặc điện tử) để tạo ra một sản phẩm giảng dạy hay sản phẩm khác.

Nếu các giảng viên hay vị lãnh đạo lớp giáo lý và viện giáo lý có thắc mắc mà không được giải đáp bằng những chỉ dẫn này, thì xin tham khảo 21.1.12, “Copyrighted Materials” trong sách hướng dẫn của Giáo Hội ( Handbook 2: Administering the Church 2010, 21.1.12). Sau đó, nếu cần, xin liên lạc với:

Intellectual Property Office50 E. North Temple Street, Room 1888Salt Lake City, UT 84150-0018Số điện thoại: 1-801-240-3959 hoặc 1-800-453-3860, số máy nhánh 2-3959Số Fax: 1-801-240-1187E-mail: cor-intellectualproperty@ldschurch.org

Âm Nhạc [5.11]

Âm nhạc, nhất là những bài thánh ca của Giáo Hội, có thể đóng một vai trò đáng kể trong việc giúp các học viên cảm nhận được ảnh hưởng của Đức Thánh Linh trong kinh nghiệm học hỏi phúc âm. Trong lời nói đầu của quyển thánh ca của Giáo Hội, Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn đã nói: “Âm nhạc đầy soi dẫn là một phần thiết yếu của các buổi họp trong nhà thờ của chúng ta. Các bài thánh ca mời gọi Thánh Linh của Chúa, tạo ra một cảm giác nghiêm túc, đoàn kết chúng ta với tư cách là các tín hữu, và cung ứng một phương tiện để cho chúng ta dâng lên lời ngợi khen Chúa.

“Một số bài giảng tuyệt vời nhất được rao giảng bằng cách hát các bài thánh ca. Các bài thánh ca mang chúng ta đến sự hối cải và công việc thiện lành, xây đắp chứng ngôn và đức tin, an ủi người mệt mỏi, khuyên giải người đau buồn, và soi dẫn chúng ta để kiên trì đến cùng” ( Hymns, ix). Anh Cả Dallin H. Oaks dạy: “Tôi tự hỏi chúng ta có đang sử dụng đủ phương tiện đã được Thượng Đế ban cho không trong những buổi họp, trong các lớp học và trong nhà của chúng ta không. …

“Âm nhạc thiêng liêng của chúng ta là một sự chuẩn bị mạnh mẽ để cầu nguyện và giảng dạy phúc âm” (“Worship through Music,” Ensign, tháng Mười Một năm 1994, 10, 12). Các giảng viên nên giúp các học viên hiểu tầm quan trọng của âm nhạc trong việc thờ phượng và âm nhạc có thể giúp tạo ra một môi trường như thế nào để Thánh Linh có thể hoạt động một cách hiệu quả hơn.

Chơi nhạc đầy soi dẫn trong khi các học viên đến lớp học hoặc trong lớp học trong khi họ đang làm bài tập viết đã được chỉ định.

Mời và khuyến khích các học viên tham gia một cách có ý nghĩa khi cả lớp cùng nhau hát bài thánh ca.

Hãy tạo cơ hội để việc đọc lời của các bài thánh ca có thể giúp các học viên xây đắp cũng như bày tỏ chứng ngôn về các giáo lý và nguyên tắc của phúc âm.

Mời các học viên trình bày những bài hát thích hợp trong lớp.

Lời Khuyên và Lời Cảnh Giác Tổng Quát [5.12]

Mặc dù một ước muốn để xây đắp mối quan hệ tốt đẹp với các học viên là thích hợp, nhưng ước muốn được khen ngợi, nếu không được thừa nhận hoặc không kiểm tra, thì có thể khiến cho các giảng viên phải bận tâm hơn đến điều họ nghĩ về mình thay vì nghĩ về việc giúp đỡ các học viên học hỏi và tiến triển. Điều này thường dẫn các giảng viên đến việc thay thế các phương pháp nhằm làm gia tăng hình ảnh của họ trong mắt các học viên cho các phương pháp nhằm mục đích mời Đức Thánh Linh đến. Các giảng viên sa vào bẫy lưới này đều phạm tội mưu chước tăng tế vì họ “trưng mình làm ánh sáng cho thế gian để họ có thể tìm lợi lộc và sự ca tụng của thế gian” ( 2 Nê Phi 2:26). Các giảng viên nên thận trọng rằng việc họ sử dụng óc hài hước, những câu chuyện cá nhân hoặc bất cứ phương pháp giảng dạy nào đều không được thực hiện với chủ ý để giải trí, gây ấn tượng hay nhận được lời khen ngợi của các học viên. Thay vì thế, tất cả các nhà giáo dục tôn giáo đều tập trung vào việc phải làm vinh hiển Cha Thiên Thượng và dẫn các học viên đến với Chúa Giê Su Ky Tô.

Chủ Tịch Howard W. Hunter dạy: “Tôi chắc rằng các anh chị em đều nhận ra cơ nguy có thể có về các học viên của các anh chị em bị ảnh hưởng và thuyết phục nhiều đến nỗi họ xây đắp lòng trung thành với các anh chị em thay vì với phúc âm. Giờ đây đó là một vấn đề tuyệt diệu để đối phó, và chúng tôi chỉ hy vọng rằng tất cả các anh chị em đều là các giảng viên có sức thuyết phục như vậy. Nhưng có một điều nguy hiểm thật sự ở đây. Đó là lý do tại sao các anh chị em phải mời các học viên của mình tự học thánh thư chứ không phải chỉ đưa ra lời giải thích và phần trình bày thánh thư của mình. Đó là lý do tại sao các anh chị em cần phải mời các học viên cảm nhận Thánh Linh của Chúa, chứ không phải chỉ đưa ra cho họ suy nghĩ riêng của mình về Thánh Linh. Cuối cùng đó là lý do tại sao các anh chị em cần phải mời các học viên đến thẳng với Đấng Ky Tô, chứ không phải chỉ đến với một người giảng dạy các giáo lý của Ngài, dù người đó có tài giỏi đến đâu đi nữa. Các anh chị em sẽ không phải lúc nào cũng ở bên cạnh các học viên này. Các anh chị em không thể nào nắm tay họ sau khi họ đã tốt nghiệp trung học hay đại học. Và các anh chị em không cần các môn đồ riêng” (“Eternal Investments” [một buổi họp tối với Chủ Tịch Howard W. Hunter, ngày 10 tháng Hai năm 1989], 2).

Ngoài ra, lời khuyên dạy và những lời cảnh giác sau đây cũng áp dụng cho nhiều phương pháp và tình huống giảng dạy khác nhau:

Sử dụng sự tranh đua. Các giảng viên nên cẩn thận trong việc sử dụng sự tranh đua trong lớp học, nhất là khi các học viên ganh đua với nhau. Sự tranh đua có thể đưa đến vấn đề tranh chấp, làm nản lòng, nhạo báng hay ngượng ngùng và làm cho Thánh Linh phải rút lui.

Củng cố tình trạng tiêu cực. Các giảng viên nên sáng suốt trong việc bày tỏ nỗi thất vọng với lớp học hoặc với riêng một học viên. Hầu hết các học viên cảm thấy không thích đáng tới một mức độ nào đó và cần phải được xây dựng và khuyến khích thay vì củng cố những khiếm khuyết của họ.

Lời Mỉa Mai. Cho dù được biểu lộ bởi một giảng viên với một học viên hoặc từ một học viên này với một học viên khác, thì lời mỉa mai hầu như luôn luôn là tiêu cực và gây tổn thương cũng như có thể dẫn đến việc nhạo báng và mất Thánh Linh.

Sự truyền đạt và lời lẽ không thích hợp. Các giảng viên nên tránh la hét hoặc tranh cãi với các học viên. Lời báng bổ và thô tục không có chỗ đứng trong một môi trường giáo dục tôn giáo.

Sử dụng sức mạnh thể chất. Các giảng viên không bao giờ được sử dụng vóc dáng và sức mạnh của mình để hăm dọa hay bắt buộc một học viên phải có hạnh kiểm tốt. Ngay cả những lúc đùa giỡn bằng sức mạnh cũng có thể bị hiểu lầm hoặc gia tăng trở thành một điều gì đó nghiêm trọng hơn. Các giảng viên nên dùng sức mạnh với một học viên chỉ khi nào sự bảo vệ một học viên khác là lý do chính đáng mà thôi.

Lời lẽ cụ thể về phái tính. Các giảng viên nên nhận thức và nhạy cảm với lời lẽ cụ thể về phái tính trong thánh thư. Một số thánh thư được diễn tả bằng lời lẽ thuộc giống đực vì tính chất của ngôn ngữ được bắt nguồn từ các câu thánh thư này. Các giảng viên nên nhắc nhở các học viên rằng một số từ ngữ giống đực đều dùng để chỉ cả nam giới lẫn nữ giới. Khi A Đam được phán bảo rằng “tất cả mọi người bất cứ ở đâu cũng phải hối cải” ( Môi Se 6:57), chắc chắn là Chúa phán bảo với cả nam lẫn nữ. Có những lúc các hình thức giống đực là cụ thể và chính xác. Ví dụ, Các Đấng trong Thiên Chủ Đoàn đều thuộc nam giới, và những điều nói về các bổn phận chức tư tế áp dụng cho các anh em.

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Phương Pháp Tư Duy Sáng Tạo Và Cách Thức Áp Dụng Vào Giảng Dạy trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!