Bạn đang xem bài viết Một Số Điểm Mới Trong Phần Các Tội Phạm Của Bộ Luật Hình Sự (Sửa Đổi) Năm 2022 được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(1) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XIII)
Có 03 điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản tại chương này:
Một là, BLHS năm 2015 không có điều luật riêng quy định về tội hoạt động phỉ như Điều 83 của BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 không phi tội phạm hóa đối với hành vi hoạt động phỉ mà hành vi phạm tội này đã được quy định trong cấu thành của một số tội phạm cụ thể, ví dụ như: tội bạo loạn (Điều 112), tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113)…
Hai là, tách Điều 91 BLHS năm 1999 quy định tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân thành 02 điều luật: Điều 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân) và Điều 121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân). Việc tách điều luật này để phân hóa trách nhiệm hình sự phù hợp với tích chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm.
Ba là, bổ sung một khung mới trong các điều luật để quy định về việc xử lý đối với trường hợp “chuẩn bị phạm tội”, theo đó, người chuẩn bị phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều phải chịu trách nhiệm hình sự với mức phạt tù cao nhất đến 05 năm(1). Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
(2) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XIV)
Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người BLHS năm 2015 quy định gồm 34 Điều (từ Điều 123 đến Điều 156) trong đó bổ sung mới 4 điều, sửa đổi 30 điều. Những nội dung mới cơ bản của Chương gồm:
- Bổ sung thêm 02 tội danh mới: Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) và Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154) và tách các hành vi mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em tại Điều 120 BLHS năm 1999 thành 03 điều luật riêng: Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152), Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153).
- Thay các tình tiết định tội, định khung hình phạt tương đối (gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, bằng các tình tiết định lượng tuyệt đối về hậu quả của tội phạm.
- Bổ sung quy định “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác” là hành vi thuộc mặt khách quan của một số tội xâm phạm tình dục bên cạnh hành vi “giao cấu” đã được quy định tại các BLHS trước đây.
(3) Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân (Chương XV)
Chương XV BLHS năm 2015 có những sửa đổi cơ bản, tập trung vào 04 vấn đề: (1) Tách 01 điều luật thành 02 điều độc lập và bổ sung 01 tội danh mới (Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân (Điều 167 BLHS năm 2015)). (2) Nâng mức hình phạt tù, cải tạo không giam giữ trong một số tội, đồng thời bỏ hình phạt cảnh cáo ở một số tội để thể hiện sự nghiêm khắc trong xử lý nhóm tội phạm này, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. (3) Làm rõ, khắc phục các tình tiết có “tính định tính”, tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. (4) Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung để bảo đảm phân hóa trách nhiệm hình sự.
(4) Các tội xâm phạm sở hữu (Chương XVI)
- Sửa tên điều luật từ “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” (Điều 144 BLHS 1999) thành “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” (Điều 179 BLHS năm 2015). Việc sửa đổi như vậy nhằm bổ sung đối tượng bị xâm hại không chỉ Nhà nước mà cả cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
- Bổ sung đối tượng tài sản bị xâm hại là “cổ vật” và “bảo vật quốc gia”. Những tài sản này có thể có những loại tuy giá trị quy thành tiền không đáng kể, nhưng những giá trị về văn hóa, về lịch sử về tinh thần thì không thể tính hết được, đặc biệt không thể quy giá trị tài sản này thành tiền.
- Nâng giá trị tài sản bị sử dụng trái phép từ 50 triệu lên 100 triệu đồng đối với Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177); Nâng mức khởi điểm tài sản bị thiệt hại từ 50 triệu lên 100 triệu đồng đối với Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179); Nâng mức khởi điểm tài sản bị thiệt hại từ 50 triệu lên 100 triệu đồng đối với Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).
- Cụ thể hóa các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong BLHS năm 1999 (từ Điều 133 đến Điều 143) bằng các hậu quả vật chất và phi vật chất cụ thể.
- Các hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu đều được sửa đổi theo hướng giảm nhẹ: (1) bỏ hình phạt tử hình ở tội cướp tài sản, bỏ hình phạt chung thân ở các tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS; hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; (2) giảm hình phạt tù quy định tại Điều 179, Điều 180; (3) bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở một số tội: Chiếm giữ trái phép tài sản Điều 176, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Điều 178.
- Bổ sung một khoản trong các điều quy định về tội Cướp tài sản và Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản để xử lý đối với người chuẩn bị phạm các tội này.
- Bỏ hình phạt tử hình đối với tội cướp tài sản (Điều 168).
- Quy định cụ thể những tội danh mà người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự và mức hình phạt cụ thể đối với hành vi phạm tội trong trường hợp này.
Sửa Điều 175 quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để nâng cao tính khả thi và phù hợp với yêu cầu phòng, chống tội phạm này. Cụ thể:
- Bãi bỏ tình tiết chiếm đoạt tài sản dưới 04 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng là điều kiện cấu thành tội này quy định tại khoản 1;
- Cụ thể hóa và bổ sung mới hành vi chiếm đoạt tài sản dưới 04 triệu đồng quy định tại Khoản 1 điều luật này, bao gồm: “đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”
- Bãi bỏ “dấu hiệu bỏ trốn”, bổ sung dấu hiệu “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
(5) Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (chương XVII)
- Tội phạm hóa 3 hành vi: Cưỡng ép ly hôn (Điều 181); Cản trở ly hôn (Điều 181); Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187).
- Phi tội phạm hóa hành vi tảo hôn, bởi vì, xét cho cùng thì thực trạng tảo hôn xảy ra chủ yếu do các nguyên nhân xã hội, sự tuyên truyền, giáo dục của gia đình, xã hội chưa có hiệu quả cao. Thậm chí có trường hợp tảo hôn do sức ép của người lớn, của cha mẹ. Do vậy, đối với hành vi này chỉ áp dụng chế tài hành chính để xử lý là phù hợp.
- Thu hút hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật vào tội danh đăng ký hộ tịch trái pháp luật (Điều 336).
- Hình sự hóa hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187).
- Cụ thể hóa một số tình tiết định tội tại một số điều luật: Ví dụ: tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 181 về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã được cụ thể hóa thành các hậu quả như “làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn ”, “làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát” hoặc tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 185 về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thành các hậu quả “Làm cho nạn nhân bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất danh dự, đau khổ tinh thần” hoặc “Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân”.
(6) Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII)
- Số lượng các tội phạm trong chương này tăng từ 35 tội lên 47 tội;
+ Bỏ 4 tội: Tội kinh doanh trái phép; Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế; Tội vi phạm quy định về cấp bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng;
+ Thay thế Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng bằng một số tội: Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Đ 217); Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Đ 218); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Đ 219); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 220); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 221); Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 222); Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 223); Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 224); Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Đ 230);
+ Bổ sung 01 tội danh trong lĩnh vực chứng khoán(2): tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212) nhằm đảm bảo BLHS bao quát được hết những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực chứng khoán, bởi vì việc làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán đã xảy ra khá phổ biến trong thời gian qua nhưng chế tài hành chính không đủ sức răn đe, trong khi đó thị trường chứng khoán là thị trường tương đối nhạy cảm, có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định, phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Bổ sung 4 tội danh trong lĩnh vực bảo hiểm: tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214); tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215) và tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216).
+ Tách tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh tại Đ 157 BLHS năm 1999 thành 2 tội: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Đ 193) và Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Đ 194);
+ Tách tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại Điều 155 BLHS năm 1999 thành 2 tội là: Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Đ 190) và Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Đ 191)
- Quy định hình phạt tiền là hình phạt chính đối với phần lớn các tội phạm. Do người phạm tội về kinh tế nhằm mục đích về kinh tế nên có thể dùng hình phạt tiền thay thế cho hình phạt tù vẫn đạt được mục đích xử lý tội phạm, thực hiện chủ trương giảm hình phạt tù.
- Sửa đổi, bổ sung cụ thể hóa một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt một số tội phạm, cụ thể:
+ Dấu hiệu số lượng lớn, số lượng rất lớn, số lượng đặc biệt lớn được BLHS năm 1999 quy định tại các điều luật thuộc nhóm tội phạm này đã được BLHS năm 2015 cụ thể hóa bằng số lượng cụ thể.
- Dấu hiệu phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng, trong trường hợp rất nghiêm trọng và trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng làm căn cứ định khung hình phạt đã được cụ thể hóa bằng trị giá tiền thật hoặc tương ứng với tiền thật (trong trường hợp tiền giả hoặc tương ứng với công cụ chuyển nhượng giá hoặc những giấy tờ có giá giả khác).
- Sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản của một số tội phạm như: bổ sung thêm phạm vi khách thể cần được bảo vệ của tội vi phạm quy định trong hoạt động của tổ chức tín dụng (Điều 179 BLHS năm 1999), theo đó, BLHS năm 2015 không chỉ xử lý hình sự đối với những hành vi vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng như BLHS năm 1999 mà còn xử lý những hành vi vi phạm quy định trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng thuộc phạm vi bị xử lý hình sự; sửa đổi cấu thành cơ bản của một số tội phạm trong lĩnh vực nhằm đảm bảo chính xác hơn, đầy đủ hơn các hành vi cần được xử lý hình sự cũng như loại bỏ bớt những hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Điều 207 BLHS năm 2015 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả) đã loại bỏ khách thể cần được bảo vệ là “ngân phiếu giả, công trái giả” như quy định tại Điều 180 BLHS năm 1999; Điều 211 BLHS năm 2015 (tội thao túng thị trường chứng khoán) Khoản 1: Bỏ quy định gây hậu quả nghiêm trọng, lượng hóa hậu quả thành tiền; Khoản 2: Lượng hóa quy định thu lợi bất chính lớn bằng tiền; bỏ quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, xác định rõ hậu quả xảy ra đối với nhà đầu tư và lượng hóa hậu quả đó bằng tiền; bổ sung thêm 04 loại hành vi trong cấu thành cơ bản để đảm bảo sự đầy đủ, chính xác và bao quát hết những hành vi nguy hiểm trong lĩnh vực chứng khoán
(7) Các tội phạm về môi trường (Chương XIX)
- Sửa đổi cấu thành các tội phạm về môi trường theo hướng cụ thể hóa các hành vi và quy định mức định lượng vi phạm cụ thể để xử lý hình sự, bảo đảm tính khả thi, thuận lợi cho thực tiễn áp dụng
Đa số các điều luật quy định tội phạm về môi trường được sửa đổi về cấu thành tội phạm theo hướng cụ thể hóa các hành vi và quy định mức định lượng vi phạm cụ thể để xử lý nhằm bảo đảm tính khả thi và thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Đối với các tội phạm quy định cấu thành hình thức thì việc quy định mức độ nghiêm trọng của hành vi để xử lý về hình sự được dựa trên cơ sở tham khảo quy định của các văn bản về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này, đồng thời căn cứ vào các yếu tố khác (quy mô của các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, tính hợp lý, khả thi của quy định).
Bên cạnh đó, để xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, các trường hợp vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị xử lý với mức phạt tiền rất cao (nhiều trường hợp phạt tiền đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù đến 07 năm đối với cá nhân).
- Bổ sung 01 tội danh mới “Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông” (Điều 238)
Tội danh này được bổ sung nhằm xử lý các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều, phòng, chống thiên tai; bảo vệ bờ, bãi sông; các hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng công trình thủy lợi, đê điều, phòng chống thiên tai, công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; không tuân thủ quy trình, quy chuẩn vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, công trình phân lũ, làm chậm lũ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành gây hậu quả nghiêm trọng.
- Mở rộng phạm vi áp dụng và nâng mức phạt tiền: Do tính chất nghiêm trọng của các tội phạm về môi trường và mục đích chủ yếu của các hành vi phạm tội là nhằm đạt được các lợi ích kinh tế, nên phạm vi áp dụng của hình phạt tiền được mở rộng, mức phạt tiền được nâng lên đảm bảo tính răn đe, trừng trị đối với các hành vi vi phạm. Cụ thể:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi áp dụng của hình phạt tiền
Hình phạt tiền được bổ sung tại khung cơ bản tại khoản 1 Điều 241 về tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người .
Hình phạt tiền được quy định là hình phạt chính tại khung tăng nặng của một số tội (ví dụ: tội gây ô nhiễm môi trường; tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; tội vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm).
Thứ hai, nâng mức phạt tiền tại các điều luật
Tất cả các điều luật trong Chương tội phạm về môi trường (12/12 điều) có sự điều chỉnh theo hướng nâng cao mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm, mức phạt tiền được quy định ở mức rất cao, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
- Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với một số tội phạm về môi trường
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại tại Chương XI; có 09/12 tội phạm về môi trường quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và áp dụng hình thức xử lý vi phạm, gồm: Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 236); tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 236); tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237); tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238); tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239); tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 242); tội hủy hoại rừng (Điều 243); tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244); tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245); tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246).
Hình phạt đối với pháp nhân phạm tội bao gồm phạt tiền (hình phạt chính và hình phạt bổ sung), đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm huy động vốn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định.
- Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. (09/12 tội danh: tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237); tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238); tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 239); tội huỷ hoại rừng (Điều 243); tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244); tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điêu 245); tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246).
(8) Các tội phạm về ma túy (Chương XX)
- Quy định cụ thể hơn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và định lượng đối tượng tác động, hậu quả do tội phạm gây ra; đồng thời phân hóa trách nhiệm giữa các hành vi phạm tội đảm bảo tính công bằng trong việc xử lý tội phạm. Như vậy đã tạo thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật. Cụ thể:
- Quy định rõ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại 05 điều luật (Đ. 249, 250, 252, 257 và 258), bổ sung để làm rõ hành vi “chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” ở Điều 256, bổ sung và sắp xếp lại cho phù hợp với quy trình quản lý, sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần ở Điều 259.
- Quy định rõ các trường hợp cụ thể nếu người thực hiện hành vi phạm tội phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngay tại khoản 1 của 07 điều luật (Đ. 247, 249, 250, 252, 253, 254, 259).
- Quy định rõ mức tối thiểu chất ma túy mà người thực hiện hành vi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự vào 06 điều luật (Đ. 247, 249, 250, 252, 253, 254).
- Bỏ hình phạt tử hình đối với 02 tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội chiếm chất ma túy. Hình phạt cao nhất đối với các tội phạm này theo quy định của Điều 249 và Điều 252 BLHS năm 2015 là tù chung thân. Mức hình phạt tù được quy định thấp hơn ở một số tội phạm thuộc các điều luật (Điều 249, 252, 258, 259).
- Tách Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thành 04 điều quy định về từng tội danh độc lập và bỏ hình phạt tử hình đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội chiếm đoạt chất ma túy. Hình phạt cao nhất đối với các tội phạm này theo quy định của BLHS năm 2015 là tù chung thân, (tội tàng trữ trái phép chất ma túy – Điều 249, tội vận chuyển trái phép chất ma túy – Điều 250, tội mua bán trái phép chất ma túy – Điều 251, tội chiếm đoạt chất ma túy – Điều 252).
- Tách Điều 200 quy định tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy thành 02 điều: Điều 257. Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy, Điều 258. Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
- Sửa đổi nhiều điều luật quy định cụ thể hơn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250), tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 257), tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 258).
- Quy định cụ thể hơn định lượng đối tượng tác động, hậu quả do tội phạm gây ra (số lượng cây chứa chất ma túy tại Điều 247. Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; số lượng phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 254. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy…).
- Nâng định lượng chất ma túy ở điểm đầu của khung cơ bản (khoản 1) một số điều luật: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250), tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252), tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 253), tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 254).
(9) Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XXI)
- Tội phạm hóa một số hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, bao gồm: Sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng mục đích trái pháp luật (Điều 285); Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291); Cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 292); Sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293); Cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294); Cưỡng bức lao động (Điều 297); Bắt cóc con tin (Điều 301); Cướp biển (Điều 302); Vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện (Điều 314).
- Tách 03 tội ghép trong chương này của BLHS 1999 thành 06 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt (các Điều 263, 264, 270, 271, 275, 276). Đó là các tội: Điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ; điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt; điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thuỷ (các Điều 205, 211, 215 BLHS 1999).
- Mở rộng phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng thuộc các tội: Cản trở giao thông đường bộ (Điều 261); Tổ chức đua xe trái phép (Điều 265); Đua xe trái phép (Điều 266).
- Cụ thể hóa hành vi phạm tội và bổ sung các tình tiết định khung đối với hầu hết các tội xâm phạm an toàn giao thông, các tội xâm phạm an toàn công cộng, các tội xâm phạm trật tự công cộng và cụ thể hóa các tình tiết thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn tại mục các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông.
(10) Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Chương XXII)
- Bãi bỏ tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính quy định tại Điều 269 BLHS năm 1999.
- Tội phạm hóa hành vi môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép tại Điều 349.
- Tách Điều 275 BLHS năm 1999 quy định về tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thành 02 điều luật (Điều 349. Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, Điều 350. Tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép) đề phân hóa chính sách hình sự đối với các tội phạm này.
– Quy định phạt tiền là hình phạt chính đối với 04 tội danh: Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 340); làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341); chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 342)
(11) Các tội phạm về chức vụ (Chương XXIII)
Chương XXIII BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tất cả 15 điều của Chương XXI BLHS năm 1999 với những sửa đổi cơ bản, tập trung vào 08 vấn đề lớn: (1) Điều chỉnh khái niệm tội phạm về chức vụ để xử lý tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư, đồng thời bổ sung hành vi tham nhũng trong lĩnh vực tư trong một số tội(3); (2) Điều chỉnh hợp lý mức định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong hầu hết các tội phạm trong Chương này cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong tình hình mới; (3) Điều chỉnh một số cấu thành tội phạm, bổ sung của hối lộ là “lợi ích phi vật chất” trong một số tội; (4) Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt cải tạo không giam giữ, đồng thời điều chỉnh mức hình phạt trong một số tội; (5) Tách các tình tiết định tính “gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định trong cùng một khung hình phạt trong một số tội để quy định trong các khung hình phạt khác nhau, đồng thời cụ thể hóa tất cả các tình tiết định tính này bằng các thiệt hại cụ thể.
- Sửa đổi nội dung quy định về định lượng (thay định lượng tương đối bằng định lượng tuyệt đối) tại các cấu thành tội phạm.
- Mở rộng phạm vi của các tội phạm tham nhũng ra cả lĩnh vực tư và mở rộng đối tượng tác động của các tội phạm về tham nhũng (không chỉ là lợi ích vật chất mà gồm cả lợi ích phi vật chất.)
(12) Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (chương XXIV)
Việc sửa đổi, bổ sung tập trung vào 06 vấn đề sau: (1) Sửa đổi khái niệm, phạm vi các tội xâm phạm hoạt động tư pháp(4); (2) Sửa đổi phạm vi chủ thể, đối tượng tác động của tội phạm trong một số tội phạm(5); (3) Tăng nặng hình phạt đối với một số tội phạm cụ thể; (4) Bổ sung khung tăng nặng, các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự và cụ thể hóa các tình tiết có tính “định tính” nhằm bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất; (5) Sửa đổi, bổ sung Tội dùng nhục hình và Tội bức cung nhằm đáp ứng yêu cầu của Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người mà Việt Nam là thành viên; (6) tội phạm hóa đối với hành vi vi phạm quy định về giam giữ và hành vi gây rối trật tự phiên tòa (Điều 388 và Điều 391).
(13) Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu (Chương XXV)
- Bổ sung tội ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393)(6) và tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại di vật của tử sỹ (Điều 418).
- Tách Điều 321 (Tội làm nhục, hành hung đồng đội) thành 2 Điều: Điều 397 (Tội làm nhục đồng đội) và Điều 398 (Tội hành hung đồng đội).
- Tách Điều 327 (Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự) thành 2 Điều: Điều 404 (Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự) và Điều 405 (Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự).
- Tách Điều 328 (Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự) thành 2 Điều: Điều 406 (Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự) và Điều 407 (Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự).
- Bỏ hình phạt từ hình ở tội chống mệnh lệnh (Điều 394) và tội đầu hàng địch (Điều 399).
(14) Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (Chương XXVI)
Chương XXVI BLHS năm 2015 đã có sự sửa đổi nhằm đảm bảo phù hợp và đầy đủ hơn, không để sót, lọt hành vi phạm tội, đồng thời tuân thủ kỹ thuật lập pháp; tội phạm được quy định thành 5 Điều, được quy định từ Điều 421 đến Điều 425 BLHS. Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm vào nền hòa bình của các dân tộc, xâm phạm vào độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
(1) Mức chế tài này giảm hơn nhiều so với BLHS năm 1999 (các Điều 17 và 52). (2) Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán cũng là những tội phạm mới được bổ sung vào BLHS năm 1999 trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009, gồm có 03 tội danh (tội công bố thông tin sai lệc hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán – Điều 181a; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán – Điều 181b; tội thao túng giá chứng khoán – Điều 181c). (3) Việc mở rộng khái niệm tội phạm về chức vụ cũng như khái niệm người có chức vụ để xử lý các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực tư chỉ áp dụng đối với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ. (4) BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ có tính khái quát cao như sau: “ các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án ”. Hoạt động tố tụng là quá trình (trình tự) giải quyết vụ án, vụ việc ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính – lao động – kinh doanh thương mại… bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân góp phần vào việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật. (5) Sửa đổi, bổ sung tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 375) theo hướng mở rộng chủ thể của tội này, theo đó, ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thâm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì những người khác có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp cũng có thể trở thành chủ thể của tội này vì họ có cơ hội tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc. (6) Tội ra mệnh lệnh trái pháp luật là một tội danh mới được quy định trong BLHS năm 2015 và là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng.
Nguyễn Phương Thảo
Về Chế Định Điều Tra Tội Phạm Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Nhã – Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
1. Chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu, giữ vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự (TTHS). Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng. Đặt giai đoạn điều tra trong mối quan hệ với các hoạt động tố tụng khác, người viết bài này đã từng đề nghị nên chia TTHS thành 3 giai đoạn chính, theo đó xây dựng 3 đạo luật riêng biệt là: Luật Điều tra hình sự, Luật Xét xử hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Đạo luật điều tra hình sự sẽ xác định rõ nguyên tắc điều tra, phân định thẩm quyền điều tra, quyền và nghĩa vụ điều tra của các chủ thể tiến hành điều tra, các biện pháp điều tra và biện pháp ngăn chặn… Những nội dung này hiện đang được quy định rải rác trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự.
Để đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, có rất nhiều nội dung cần được bàn thảo. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập sâu ở khía cạnh tổ chức điều tra thông qua việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa các chủ thể mà không đề cập đến các nội dung khác như biện pháp điều tra, biện pháp ngăn chặn, kiểm sát điều tra, các thời hạn trong điều tra, người bị tình nghi phạm tội, bị can, người bào chữa…
2. Nhận thức chung về Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự
Điều tra tội phạm là hoạt động hành chính – tư pháp, do các chủ thể thuộc hệ thống hành pháp thực hiện. Đó là một loạt các cơ quan khác nhau với nhiều tên gọi khác nhau, để cho thuận tiện, người ta dùng chung khái niệm: Cơ quan điều tra (CQĐT) trong TTHS.
Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 110 BLTTHS và được cụ thể hoá ở Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự. Theo đó, CQĐT được tổ chức trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là một phả hệ tổ chức phức tạp, xét cả về chiều dọc lẫn chiều ngang(1).
Việc phân định thẩm quyền điều tra cho từng loại, và trong mỗi loại là theo cấp điều tra lại càng phức tạp hơn. Có thể nói rằng, tính rành mạch, khoa học trong tổ chức CQĐT và phân chia thẩm quyền điều tra giữa các cơ quan này trong TTHS hiện hành còn ở mức rất tương đối.
Bàn về CQĐT trong TTHS mà không đề cập đến một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây xin được gọi tắt là: Cơ quan khác) thì thật thiếu sót. Cho tới ngày hôm nay, các nhà lập pháp vẫn chưa tìm ra một tên gọi rõ ràng, khả dĩ cho Cơ quan khác này, bởi vì, đây chỉ là một loạt các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (dù một số không ít thuộc lực lượng vũ trang nhân dân) được giao thêm nhiệm vụ tham gia điều tra tố tụng (2).
Với đội ngũ hùng hậu các Cơ quan khác được tổ chức như hiện nay, khó có thể đưa ra kết luận: Vậy thì ai, CQĐT hay Cơ quan khác giữ vai trò chủ đạo trong điều tra hình sự nói chung và trong điều tra tố tụng hình sự nói riêng. Nhiều ý kiến cho rằng, với đội ngũ đông đảo, lại nắm hai loại quyền năng quan trọng là quyền năng quản lý hành chính nhà nước và quyền năng tố tụng hình sự nên thực tế Cơ quan khác đang giữ thế thượng phong trong phát hiện, ngăn chặn và điều tra tội phạm.
Cơ quan khác điều tra tội phạm chủ yếu thông qua hoạt động nghiệp vụ đa dạng của mình. Hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện, làm rõ hành vi có dấu hiệu tội phạm xét cho cùng cũng là hoạt động điều tra hình sự. Bắt đầu từ đây đã xuất hiện hai cụm từ “điều tra hình sự” và “điều tra tố tụng hình sự”, và chúng tôi cho rằng, chừng nào, chúng ta còn chưa phân biệt rạch ròi khái niệm, ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa pháp lý của chúng thi mãi mãi chúng ta còn tiếp tục lúng túng tìm lối thoát cho việc quy định thẩm quyền điều tra nói chung và thẩm quyền điều tra tổ tụng hình sự nói riêng của CQĐT và Cơ quan khác trong tham gia điều tra.
Điều tra phát hiện, tìm chứng cứ buộc tội là chức năng duy nhất và riêng có của CQĐT. Cơ quan điều tra do pháp luật TTHS sinh ra, điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS. Dĩ nhiên, để củng cố thêm các chứng cứ buộc tội, cơ quan này có thể thu thập thêm thông tin ngoài tố tụng, nhưng đó không là chửng cứ và là công việc thứ yếu của CQĐT. Vì vậy, để dễ phân biệt với các cơ quan tham gia điều tra phát hiện tội phạm, đặc biệt là các cơ quan phát hiện, ngăn chặn tội phạm bằng biện pháp nghiệp vụ, biện pháp trinh sát (tình báo), chúng tôi cho rằng, CQĐT trong TTHS chính là cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS, là CQĐT tố tụng hình sự.
Cơ quan khác cũng điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS. Tuy nhiên, Cơ quan khác, như đã nêu, chỉ điều tra ở mức độ giới hạn, mức độ “điều tra ban đầu”. Đặc biệt, đối với nhóm Cơ quan khác trong Công an nhân dân (CAND) thì đa số họ là cơ quan trinh sát, điều tra phát hiện và ngăn chặn tội phạm chủ yểu bằng biện pháp trinh sát. Do việc điều tra theo luật TTHS đối với Cơ quan khác chỉ là thứ yếu, nên để phân biệt với cơ quan chuyên trách, Cơ quan khác nên gọi chung là: Cơ quan tham gia điều tra TTHS.
Cũng cần lưu ý thêm rằng, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngoài hai nhóm cơ quan kể trên, còn có nhiều cơ quan quản lý hành chính nhà nước, bằng hoạt động nghiệp vụ của minh, cũng trực tiếp phát hiện, ngăn chặn tội phạm. Các cơ quan như Cảnh sát giao thông; Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy; cơ quan thanh tra; thuế… thực chất cũng không khác mấy so với đội ngũ đông đảo Cơ quan khác, vấn đề đang đặt ra là tại sao các cơ quan này lại chưa được giao tham gia điều tra tội phạm?
Phân biệt CQĐT với Cơ quan khác, bên cạnh tiêu chí chủ yếu là giới hạn thẩm quyền điều tra, còn là các yếu tố tổ chức và phân chia quyền năng tố tụng trong nội bộ cơ quan. Chẳng hạn, nếu như quyền năng tố tụng trong CQĐT được phân chia cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên thì ở Cơ quan khác, quyền năng tố tụng chỉ tập trung vào mỗi người đứng đầu (và cấp phó được uỷ quyền của họ).
3. Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
Về hệ thống CQĐTtrong TTHS: Với cách bố trí thành hai loại, trong mỗi loại lại có từng hệ độc lập với nhau như hiện nay, rõ ràng CQĐT chuyên trách và cơ quan tham gia điều tra là những tập hợp đa hệ, khó có thể có sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và càng khó có sự gắn kết cần thiết với nhau. Từ thực tế này, lâu nay đã có nhiều đề xuất, thậm chí là đã hình thành dự án theo hướng tập hợp các CQĐT thành một hệ thống độc lập, song song tồn tại cùng cơ quan Viện kiểm sát (VKS) và Toà án.
Tuy thấy rõ những bất cập từ cách tổ chức đa hệ của CQĐT và Cơ quan khác, song thật khó đồng tình với ý tưởng sáp nhập tất cả cơ quan điều tra trong TTHS thành một hệ thống. Điều này không phù hợp với cách thức tổ chức hệ thống dựa vào khả năng chuyên môn hoá trong lĩnh vực hành pháp. Mà cơ quan điều tra các loại, xét cho cùng lại là cơ quan hành pháp. Bên cạnh đó, ngay cả người đề ra dự án cũng chưa chứng minh được tính vượt trội hay là hiệu quả kinh tế – xã hội tối ưu do việc sáp nhập cơ quan điều tra mang lại…
Việc phân chia thẩm quyền điều tra giữa các hệ, trong cùng một hệ (cấp trên, cấp dưới) còn thiếu hợp lý, đang làm nảy sinh tình trạng chồng lấn thẩm quyền hoặc đùn đẩy nhau, tranh công, đổ lỗi. Cần lưu ý thêm là tình trạng chồng lấn thẩm quyền cũng tồn tại giữa một bên là các CQĐT, còn bên kia là cơ quan kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Theo quy định tại Điều 112 BLTTHS thì khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra, khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS… Những thẩm quyền này thực chất là thẩm quyền điều tra và điều này lý giải vì sao có người cho rằng điều tra và công tố thực chất là một.
Việc phân chia giai đoạn điều tra thành hai phân đoạn: Điều tra ban đầu do Cơ quan khác đảm nhiệm và Điều tra kết thúc do CQĐT đảm nhiệm cũng chưa thật hợp lý, nhiều trường hợp gây lãng phí về thời gian và nhân lực.
Chủ thể hoạt động điều tra: Theo pháp luật hiện hành bao gồm CQĐT là cơ quan tố tụng và Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên là người tiến hành tố tụng (Điều 33 BLTTHS).
Đối với chủ thể tố tụng là CQĐT, điều đáng lưu ý là quyền năng tố tụng của cơ quan này đã được phân chia cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng và Điều tra viên. Trong trường hợp này, hầu như quyền năng tố tụng của CQĐT đã không còn, và do vậy, việc xác định CQĐT là cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) đã trở nên hình thức.
Đối với Cơ quan khác, mặc dù cũng được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, nghĩa là cũng được giao quyền năng tố tụng hình sự, nhưng cho đến nay, Cơ quan khác và người đứng đầu của cơ quan này vẫn chưa được thừa nhận là cơ quan THTT và người THTT. Chính việc chưa thừa nhận này đã kéo theo nhiều hệ lụy mà rõ nhất là khó xác định trách nhiệm pháp lý tố tụng, trách nhiệm hình sự của những người này khi vi phạm tố tụng đến mức hình sự.
Về những người trực tiếp tham gia vào hoạt động điều tra: Hiện nay, lực lượng làm công tác điều tra có khoảng 30.000 cán bộ, trong đó có khoảng 13.000 Điều tra viên. Riêng lực lượng điều tra trong CAND có hơn 29.000 cán bộ với hơn 12.500 Điều tra viên. Bên cạnh đại đa số Điều tra viên, cán bộ điều tra tận tụy trong công tác, gương mẫu, liêm khiết, chấp hành đúng pháp luật thì vẫn còn một số không nhỏ chưa thực hiện tốt vai trò của người cán bộ điều tra tội phạm, thậm chí vi phạm pháp luật tố tụng. Tình trạng này đòi hỏi phải xem xét lại không chỉ việc phân định thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, việc chỉ huy, chỉ đạo điều tra mà còn là tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm và miễn nhiệm Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, người đứng đầu Cơ quan khác…
4. Phương án đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của CQĐT được thể chế hóa trong pháp luật TTHS, cụ thể hơn là ở trong BLTTHS và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự hiện hành. Việc Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13 Dự án Luật Tổ chức điều tra hình sự đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS đang đặt ra vấn đề là nội dung nào về chế định điều tra thì đưa vào BLTTHS, còn nội dung nào thì đưa vào Luật Tổ chức điều tra hình sự. Theo tôi, một khi đã có đạo luật riêng về điều tra tội phạm thì phương án tối ưu là tập trung tất cả những quy định về điều tra tố tụng vào đó, theo đúng mô hình đạo luật về thi hành án hình sự. Trong trường hợp đó, BLTTHS chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động xét xử. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp: Coi xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp.
Đương nhiên, người nêu kiến nghị này cho rằng, ý kiến về xây dựng một đạo luật riêng về điều tra hình sự dẫu hợp lý cũng khó mà được chấp nhận trong bối cảnh hiện nay. Vậy nên, tiếp theo đây, tôi sẽ trao đổi ý kiến theo hướng sửa đổi, bổ sung mô hình điều tra đã được quy định trong BLTTHS.
Thứ hai, vấn đề đầu tiên là thay đổi quan niệm và từ đó sửa đổi quy định về chủ thể điều tra tố tụng. Nếu dừng lại ở quan niệm chủ thể điều tra tố tụng là người được pháp luật giao quyền hạn và trách nhiệm cụ thể trong điều tra tội phạm thì các chủ thể này, theo tôi, chỉ nên là: Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; người đứng đầu Cơ quan khác; Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Đưa CQĐT ra ngoài danh sách chủ thể điều tra tội phạm, bởi lẽ mặc dù BLTTHS xác định cơ quan này là cơ quan tố tụng, song thực chất quyền và nghĩa vụ tố tụng dường như đã phân chia hết cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng và Điều tra viên, về mặt tố tụng, CQĐT chỉ còn là danh nghĩa và Thủ trưởng CQĐT chính là người đứng đầu tập thể Điều tra viên.
Tôi cũng không đồng tình khi quy định chức danh cấp phó trong BLTTHS là chủ thể độc lập, người tiến hành tố tụng, cấp phó chỉ nên là người thay mặt cấp trường và không cần thiết phải có quyền và nghĩa vụ TTHS riêng. Khi tiến hành tố tụng, cấp phó nên lấy danh nghĩa Điều tra viên.
Thứ ba, đã đến lúc cần xác định vai trò độc lập của Điều tra viên trong điều tra như Thầm phán trong xét xử và Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm sát Có thể giao quyền và nghĩa vụ tố tụng cho Điều tra viên khi người này được giao điều tra vụ án tương đương quyền và nghĩa vụ tố tụng của Thủ trưởng CQĐT khi trực tiếp tiến hành điều tra quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTHS hiện hành. Theo đó, Điều tra viên khi được phân công điều tra vụ án được: Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định không khỏi tố vụ án; quyết định tách hoặc nhập vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng; quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi; kết luận điều tra vụ án; quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra; trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật…
Điều tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Thủ trưởng CQĐT tuy có quyền phân công và thay đổi Điều tra viên, nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động tố tụng của Điều tra viên.
Trường hợp nhiều Điều tra viên cùng tham gia điều tra vụ án thì Thủ trưởng CQĐT chỉ định một Điều tra viên phụ trách. Điều tra viên này sẽ điều hành việc điều tra và ký các văn bản tố tụng.
- Cho phép một số cơ quan khác như Cơ quan thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, lực lượng kiểm ngư… cũng được quyền tiến hành điều tra ban đầu những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm thuộc lĩnh vực quản lý của mình.
- Mở rộng thẩm quyền TTHS cho một số Cơ quan khác đến mức tự tiến hành một số hoạt động điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS để quyết định việc truy tố. Có thể đưa ra quy định là Cơ quan khác, đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn thì được quyền tiến hành điều tra trong thời hạn không quá 30 ngày và chuyển kết luận điều tra cho VKS để quyết định việc truy tố.
- Đối với Cơ quan khác, vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Công tố viên) là hết sức quan trọng. Không chỉ là chỉ đạo, hướng dẫn Cơ quan khác trong hoạt động điều tra, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra còn là người điều phối, quyết định đường hướng điều tra tiếp theo. Ví dụ: Sau khi tiếp nhận kết quả điều tra và kết luận điều tra của Cơ quan khác chuyển đến, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có quyền: Ra quyết định truy tố; trả hồ sơ cho Cơ quan khác để điều tra bổ sung; chuyển hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra theo thẩm quyền; tự mình tiến hành điều tra bổ sung; đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ năm, đối với Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Công tố viên), tôi đề nghị giao quyền và nghĩa vụ tố tụng cho chủ thể này không kém hơn quyền năng tố tụng của Thủ trưởng CQĐT. Và từ đó, sẽ không cần thành lập thêm bất cứ cơ quan điều tra nào trong Viện kiểm sát. Kiểm sát viên – công tố vừa có quyền tự mình tiến hành điều tra, được sử dụng mọi thầm quyền điều tra mà pháp luật TTHS trao cho Thủ trường CQĐT và Điều tra viên. Hơn thế nữa, với tư cách là người thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên – công tố còn có quyền yêu cầu Thủ trường CQĐT, Điều tra viên, Người đứng đầu Cơ quan khác tiến hành điều tra, cung cấp chứng cứ cần thiết. Và như vậy, có thể nói Kiểm sát viên – công tố là chủ thể hàng đầu trong giai đoạn điều tra và là chủ thể điều phối, chỉ đạo điều tra.
- Cần phân biệt hoạt động công tố với hoạt động kiểm sát. Hai hoạt động này là khác nhau không chỉ về ý nghĩa tồn tại, về mục đích mà còn về chủ thể thực hiện.
- Hoạt động công tố là hoạt động độc lập, gắn với điều tra thu thập chứng cứ, nặng về hành pháp nên cũng cần được kiểm sát.
- Công tố trong điều tra phải gắn với công tố trong xét xử. Do đó, Kiểm sát viên – công tố trong giai đoạn điều tra phải là người tiếp tục giữ vai trò công tố trong giai đoạn xét xử.
- Do hoạt động công tố là đối tượng kiểm sát nên Kiểm sát viên – công tố không được tham gia hoạt động kiểm sát. Những Kiểm sát viên khác (không tham gia hoạt động công tố) sẽ tiến hành hoạt động kiểm sát, kể cả kiểm sát hành vi tố tụng của Kiểm sát viên – công tố.
- Cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên – công tố là một chức danh tố tụng hình sự nên họ phải độc lập chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định tố tụng của mình (khác với quy định tại khoản 2 Điều 37 BLTTHS là Kiểm sát viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng VKS về những hành vi và quyết định của minh).
Thứ bảy, bên cạnh việc phân định thẩm quyền tố tụng cho các chủ thể tiến hành điều tra mà thực chất là quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chức danh: Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, người đứng đầu Cơ quan khác, Kiểm sát viên – công tố, vấn đề quan trọng không kém là phân định thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra khác hệ, trong cùng hệ và giữa CQĐT và Cơ quan khác, giữa các Cơ quan khác với nhau. Ngoài ra, ngay trong cùng một hệ CQĐT và Cơ quan khác, việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa cấp trên và cấp dưới, việc chuyển giao vụ án, rút vụ án lên để điều tra… cũng còn tồn tại nhiều bất hợp lý, cần sớm được giải quyết.
Đề xuất xây dựng CQĐT với hạt nhân là Điều tra viên (mà thực chất là tương tự CQĐT dự thẩm ở một số nước) như đã nêu, nhiều vấn đề về thẩm quyền điều tra sẽ được giải quyết, về danh nghĩa, chúng ta vẫn có Cơ quan An ninh điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Công an nhân dân, CQĐT an ninh, CQĐT hình sự trong Quân đội nhân dân. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ không còn CQĐT và thay vào đó, theo tôi, nên thành lập các Viện công tố thuộc VKS. Cũng như ở CQĐT, nhân vật trung tâm trong Viện công tố sẽ là các Công tố viên. Trong trường hợp này, chính Viện công tố và các Công tố viên sẽ là người điều hòa, tập trung và chỉ đạo điều tra.
Khi đã có Cơ quan công tố độc lập thuộc VKS thì các mối quan hệ tố tụng hiện nay giữa Cơ quan khác với CQĐT sẽ chuyển thành quan hệ giữa Cơ quan khác với Cơ quan công tố. Các Công tố viên sẽ cùng cộng tác, chỉ đạo và cùng chịu trách nhiệm về kết quả điều tra không chỉ với CQĐT mà cả với Cơ quan khác. Dĩ nhiên, như đã nêu, hoạt động điều tra, hoạt động điều hoà, chỉ đạo điều tra của Viện công tố và của Công tố viên cũng chịu sự kiểm sát điều tra của VKS hữu quan.
(l) Xem Điều 110 BLTTHS.
(2) Xem Điều 111 BLTTHS.
Những Điểm Mới Cụ Thể Của Bộ Luật Hình Sự 2022
Ngoài các vấn đề chung như quy định các tội phạm mới, xóa bỏ tội phạm, nguyên tắc xử lý hình sự… BLHS năm 2015 còn có quy định cụ thể, là những điểm mới so với BLHS 1999.
Ngoài các vấn đề chung như các mới, xóa bỏ tội phạm, nguyên tắc xử lý hình sự… BLHS năm 2015 còn có quy định cụ thể, là những điểm mới so với BLHS 1999.
Điều 14 BLHS năm 2015 quy định về chuẩn bị , trong đó có liệt kê các tội phạm cụ thể, VKS các cấp cần so sánh, về sự khác nhau giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, nhất là với các trường hợp người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Tại Điều 18 BLHS năm 2015 về che giấu tội phạm có điểm khác với quy định tại Điều 21 của BLHS năm 1999. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS năm 2015. Những người thuộc trường hợp này sẽ không bị coi là tội phạm theo BLHS mới.
Tại Điều 19 BLHS năm 2015 về không tố giác tội phạm có điểm khác với quy định tại Điều 22 của BLHS năm 1999. BLHS mới quy định: Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS năm 2015. Những người thuộc trường hợp này sẽ không bị coi là tội phạm theo BLHS mới.
Đối với các quy định tại các điểm a khoản 1, điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015. Do sự thay đổi chính sách pháp luật, chuyển biến tình hình thì VKS các cấp cần đối chiếu giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 và Nghị quyết 109 đồng thời rà soát, lên danh sách và xem xét áp dụng theo đúng tinh thần của BLHS năm 2015 và Nghị quyết 109 của Quốc hội.
Tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định về Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định: Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng. Đây là tình tiết mới của BLHS năm 2015, các trường hợp này được áp dụng và được coi là tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 hiện nay.
Tại Điều 54 BLHS năm 2015 quy định về Quyết định dưới mức thấp nhất của được áp dụng, BLHS năm 2015 mới bổ sung khoản 2 Điều này, đây là điểm mới so với Điều 47 BLHS năm 1999: Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Theo tinh thần Nghị quyết 109 thì quy định này sẽ được áp dụng ngay trong các vụ án cụ thể.
Tại Điều 62 BLHS năm 2015 về miễn chấp hành hình phạt có điểm khác với quy định tại Điều 57 của BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 quy định rõ ràng và cụ thể hơn về các trường hợp được miễn chấp hành hình phạt nên khi áp dụng vào các vụ án cụ thể nếu quy định của BLHS nào có lợi hơn cho người phạm tội thì sẽ được áp dụng (theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội).
Tại Điều 69 BLHS năm 2015 về xóa án tích có điểm khác với quy định tại Điều 63 của BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 quy định: Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.
Tại Điều 100 BLHS năm 2015 về hình phạt cải tạo không giam giữ với người chưa thành niên có điểm khác với quy định tại Điều 73 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định áp dụng hình phạt này cụ thể hơn và nhẹ hơn với từng độ tuổi của người chưa thành niên. Do vậy khi áp dụng vào các điều luật cụ thể theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người chưa thành niên theo từng lứa tuổi.
Tại Điều 102 BLHS năm 2015 về Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với người dưới 18 tuổi phạm tội là quy định mới so với BLHS năm 1999. Trong đó quy định việc áp dụng hình phạt với từng lứa tuổi. Với nguyên tắc có lợi cho người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết 109 của Quốc hội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người chưa thành niên theo từng lứa tuổi đối với từng vụ án cụ thể.
Tại Điều 103 BLHS năm 2015 về Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội với người dưới 18 tuổi phạm tội có điểm khác với quy định tại Điều 75 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định áp dụng hình phạt này cụ thể hơn và nhẹ hơn với từng độ tuổi của người dưới 18 tuổi. Theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người dưới 18 tuổi theo từng lứa tuổi khi áp dụng vào các điều luật cụ thể.
Tại Điều 107 BLHS năm 2015 về Xóa án tích với người dưới 18 tuổi phạm tội có điểm khác với quy định tại Điều 77 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định việc xóa án tích cụ thể hơn và nhẹ hơn với từng độ tuổi của người dưới 18 tuổi. Theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người 18 tuổi phạm tội theo từng lứa tuổi khi áp dụng vào các điều luật cụ thể.
Tại điểm e, g khoản 2 Điều 142 BLHS năm 2015 về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có điểm giống và khác với quy định tại điểm c, d Khoản 3 Điều 112 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định áp dụng tình tiết phạm tội từ 2 lần trở lên hoặc phạm tôi đối với 2 người trở lên có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm. BLHS năm 1999 cũng quy định tình tiết phạm tội nhiều lần (cũng là từ 2 lần trở lên) hoặc phạm tội đối với nhiều người (cũng là từ 2 người trở lên). Tuy nhiên khung hình phạt bắt đầu từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Với nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì việc áp dụng khung hình phạt theo BLHS năm 2015 mức án từ 12 năm đến 20 năm sẽ được áp dụng ngay với những người thực hiện hành vi này.
Tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 về tội Đánh bạc quy định mức tiền khởi điểm để truy cứu TNHS với tội danh này là 5.000.000 đồng. Các trường hợp đánh bạc nhưng số tiền thu được có giá trị dưới 5.000.000 đồng mà không có tiền án, tiền sự về tội danh này hoặc có nhưng đã được xóa án tích thì cần chuyển sang hình thức xử phạt hành chính, miễn truy cứu TNHS.
Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: (04) 66.527.527 – Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
E-mail:info@everest.net.vn, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
Quy Định Của Bltths Năm 2022 Về Khiếu Nại, Tố Cáo Trong Tố Tụng Hình Sự Và Một Số Điểm Mới
Về khiếu nại và thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
– Về chủ thể khiếu nại: BLTTHS quy định 03 loại chủ thể có quyền khiếu nại sau:
+ Cơ quan
+ Tổ chức
+ Cá nhân
Khoản 1, Điều 469: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
– Về thời hiệu khiếu nại:
+ Khiếu nại lần đầu là 15 ngày kể từ ngày người khiếu nại nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng và cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời gian có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu.
+ Khiếu nại lần hai là 03 ngày kể từ ngày người khiếu nại nhận được quyết định giải quyết khiếu nai.
Lưu ý: Trường hợp biết được mà không phải nhận được quyết định giải quyết khiếu nại thì không phải là căn cứ tính thời hiệu.
– Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định các chủ thể sau có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, gồm:
+ Viện trưởng VKSND các cấp
+ Chánh án Tòa án nhân dân các cấp
+ Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra
+ Cấp trưởng Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Trong đó:
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố do Viện trưởng VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án đó giải quyết (Điều 474).
+ Khiếu nại quyết định bắt, tạm giam trong giai đoạn xét xử do Chánh án Tòa án nhân dân giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra trừ khiếu nại về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam do Thủ trưởng Cơ quan điều tra giải quyết lần đầu, Viện trưởng VKSND cùng cấp giải quyết lần hai trong trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng Cơ quan điều tra bị khiếu nại (Điều 475).
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết lần đầu. Thẩm quyền giải quyết lần hai đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu việc giải quyết khiếu nại lần đầu do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của cấp phó, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trừ khiếu nại về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam do cấp trưởng cơ quan được được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết lần đầu. Viện trưởng VKSND cùng cấp giải quyết lần hai trong trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại của cấp trưởng bị khiếu nại.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của cấp trưởng cơ quan được được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết lần đầu. Thẩm quyền giải quyết lần hai do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp trong trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu bị khiếu nại (Điều 476).
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết.
a) Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố do Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết
b) Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử do Viện kiểm sát nhân dân cấp cao giải quyết
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên công tác tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên công tác tại Viện kiểm sát quân sự trung ương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực giải quyết lần đầu. Thẩm quyền giải quyết lần hai do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu giải quyết (Điều 477).
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu giải quyết lần đầu. Thẩm quyền giải quyết lần hai do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án cấp cao giải quyết lần đầu. Thẩm quyền giải quyết lần hai do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương giải quyết.
+ Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên công tác tại Tòa án nhân dân tối cao, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán và Thẩm tra viên công tác tại Tòa án quân sự trung ương, Phó Chánh án Tòa án quân sự trung ương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương giải quyết.
Về tố cáo và giải quyết tố cáo
– Người có quyền tố cáo: Tất cả mọi công dân.
– Về hình thức tố cáo: Người tố cáo có thể gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền.
– Về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Tuân thủ nguyên tắc người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
Trường hợp tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì giải quyết theo quy định tại Điều 145 BLTTHS.
Về kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định Viện kiểm sát kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới.
Khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
– Yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
+ Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo
+ Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát.
– Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới.
– Ban hành kết luận kiểm sát; thực hiện quyền kiến nghi, kháng nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án khắc phục vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có thể thấy một số điểm mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau:
Một là, Mở rộng chủ thể được quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng Ngoài chủ thể đã được quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng như trong Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã mở rộng thêm các chủ thể là: Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Người chứng kiến; Người phiên dịch, người dịch thuật; Người bào chữa; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 57,58,67,70,83,84 BLTTHS).
Hai là, Bổ sung thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Phó Viện trưởng VKS
Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn: giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của VKS. Ngoại trừ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định của chính mình. (Điều 41)
Ba là, Phân định phạm vi công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo chương XXXIII của BLTTHS
Đối với khiếu nại cáo trạng hoặc quyết định truy tố, quyết định áp dụng thủ tục rút gọn không được giải quyết theo chương XXXIII cho nên khi giải quyết không phải ban hành quyết định giải quyết, mà chỉ ban hành văn bản trả lời dạng công văn. Tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng đang thực hiện để xem xét trả lời và hướng dẫn người khiếu nại; nếu vụ án đã xét xử thì VKS hướng dẫn người khiếu nại làm đơn kháng cáo (bản án chưa có hiệu lực pháp luật) hoặc làm đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm (bản án đã có hiệu lực pháp luật); việc trả lời và hướng dẫn chỉ thực hiện một lần. Đơn vị thụ lý giải quyết vụ án có trách nhiệm chủ trì phối hợp với đơn vị Kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tham mưu tới lãnh đạo VKS giải quyết khiếu nại trên (Điều 469).
Bốn là , Quy định rõ hơn về chủ thể ban hành quyết định tố tụng và chủ thể có hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại
Chủ thể của quyết định tố tụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra; chủ thể của hành vi tố tụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (có 3 chủ thể mới là: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên (Điều 470).
Năm là, Đối với khiếu nại việc bắt, tạm giữ, tạm giam
Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn quy định thẩm quyền giải quyết của VKS đối với khiếu nại việc bắt, tạm giữ, tạm giam và bổ sung thêm thẩm quyền của VKS giải quyết khiếu nại việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã chỉ rõ việc giải quyết các khiếu nại trên chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố (Điều 474). Ngoài việc các lệnh, quyết định trong tạm giữ, tạm giam có thể bị khiếu nại thì các hành vi thực hiện các lệnh, quyết định đó cũng có thể bị khiếu nại; đồng thời pháp luật cũng quy định cơ quan, người có thẩm quyền trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án, vụ việc khiếu nại của người bị giữ, người bị bắt, người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giam trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được khiếu nại để đảm bảo quyền lợi cho người khiếu nại và thời hạn giải quyết của VKS tối đa là 3 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại (Điều 474).
Sáu là, Quy định thời hạn khiếu nại lần 2. Để tránh tình trạng người khiếu nại khi không đồng ý kết quả giải quyết lần 1, có thể khiếu nại lên cấp trên bất cứ lúc nào vì Bộ luật TTHS 2003 không quy định thời hạn khiếu nại lần 2. Bộ luật TTHS 2015 đã quy định rõ nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu việc giải quyết khiếu nại lần đầu do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh giải quyết (Điều 474).
Bảy là, Thẩm quyền giải quyết đối với khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Bộ luật TTHS năm 2003 không quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quyền giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của cấp phó, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trừ việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của cấp trưởng thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra (Điều 475).
Tám là, Quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của VKSND cấp cao
Cùng với việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, pháp luật TTHS năm 2015 quy định thẩm quyền giải quyết của VKSND cấp cao đối với quyết định, hành vi tố tụng; kết quả giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử (điểm b khoản 3 Điều 476).
Chín là, về tố cáo trong tố tụng hình sự, Bộ luật TTHS năm 2015 không khác nhiều so với BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên có một số điểm mới là: chủ thể tố cáo được mở rộng hơn “Cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Trước đây chỉ có công dân mới có quyền tố cáo. Với quy định của BLTTHS năm 2015 thì kể cả người nước ngoài cũng có quyền tố cáo. Một điểm khác nữa là người tố cáo và người bị tố cáo có quyền được nhận quyết định giải quyết tố cáo. Như vậy, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải ban hành quyết định giải quyết tố cáo (Điều 479,480).
Phòng 12
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Điểm Mới Trong Phần Các Tội Phạm Của Bộ Luật Hình Sự (Sửa Đổi) Năm 2022 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!